Tóm tắt: Trong hợp đồng mua bán, việc xác định thời điểm chuyển
quyền sở hữu đối với hàng hóa/ tài sản có ý nghĩa rất quan trọng. Thời điểm
chuyển quyền sở hữu sẽ làm phát sinh các vấn đề pháp lý không chỉ đối với các
bên trong hợp đồng mà còn có thể tác động đến bên thứ ba. Tuy nhiên, các quy định
về xác lập quyền sở hữu đối với tài sản của pháp luật Việt Nam còn một số vấn đề
bất cập khiến cho việc xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu trên thực tế còn
gặp nhiều khó khăn. Bài viết chỉ ra và phân tích những bất cập này đồng thời đưa
ra một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật.
Từ khóa: chuyển giao quyền sở hữu,
nắm giữ và chi phối tài sản, đăng ký tài sản, đăng ký quyền sở
hữu
Abstract: In a sales contract,
determining the time of transfer of ownership of goods and properties is very
important. The timing of ownership transfer will give rise to legal issues not
only for the parties to the contract but also impact third parties. However,
the regulations on establishing ownership rights of Vietnamese law still have
several shortcomings which makes determining the actual time of ownership
transfer difficult. The article analyzes these shortcomings and makes some
recommendations to improve the law.
Key words: transfer of ownership, holds and controls a property, registration of
property, registration of ownership rights
1. Dẫn nhập
Bộ luật Dân sự hiện hành
có rất nhiều quy định liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu tùy thuộc vào căn
cứ xác lập quyền sở hữu. Có thể đó là do lao động, sản xuất kinh doanh hợp
pháp; được thừa kế hay trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với tài sản
vô chủ… Tuy nhiên phạm vi bài viết này chỉ nghiên cứu về thời điểm xác lập quyền
sở hữu dựa trên căn cứ được chuyển quyền sở hữu là sự thỏa thuận thông qua các
giao dịch dân sự/ hợp đồng. Theo đó, người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua
bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu
khác theo quy định của pháp luật thì có quyền sở hữu tài sản đó[1]. Liên quan tới nội dung này tác giả thấy còn nhiều quy
định chưa rõ ràng.
2. Vấn đề nắm giữ, chi phối tài sản
Theo Điều 161 Bộ luật Dân
sự năm 2015, trường hợp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì
thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm tài sản
được chuyển giao. Luật thương mại năm 2005 cũng có quy định tương đồng như vậy
tại Điều 62[2]. Tuy
nhiên, Luật Thương mại năm 2005 không đề cập chi tiết
hơn về việc chuyển giao ở đây là chuyển giao về mặt pháp lý hay chuyển giao
trên thực tế. Trong khi đó Bộ luật Dân sự năm
2015 quy định thêm, thời điểm tài sản được chuyển giao là thời điểm bên có quyền
hoặc người đại diện hợp pháp của họ chiếm hữu tài sản (Khoản 1 Điều 161 Bộ luật Dân sự năm 2015). Đồng thời luật đưa ra định nghĩa về chiếm hữu tại Điều
179. Theo đó “chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối
tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản”.
Trước khi đi vào
phân tích như thế nào là nắm giữ và chi phối, thiết nghĩ việc hiểu rõ về trạng
thái của thuật ngữ “chiếm hữu” trong Bộ luật Dân sự là điều hết sức cần thiết. Chiếm
hữu có thể hiểu là nội dung của “quyền chiếm hữu” – một phần của quyền sở hữu
theo quy định của Điều 158 Bộ luật Dân sự hiện hành. Thuật ngữ chiếm hữu cũng
có thể hiểu là hành vi, là trạng thái thực tế của chủ thể đối với tài sản. Hiện
pháp luật không đưa ra khái niệm “quyền chiếm hữu” mà chỉ quy định về nội dung quyền
chiếm hữu của các chủ thể tại các điều 186-188 Bộ luật Dân sự năm 2015. Đồng thời,
Khoản 2 Điều 179 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Chiếm hữu bao gồm chiếm
hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu”. Như vậy,
điều luật này mới chỉ ra trạng thái thực tế của người là chủ sở hữu và người
không phải là chủ sở hữu mà chưa quy định thế nào là quyền chiếm hữu[3].
Đồng thời tác giả cho rằng quy định của Khoản 1 Điều 179 Bộ luật Dân sự năm
2015, “chiếm hữu” cũng đang được coi là một trạng thái thực tế của chủ thể đối
với tài sản chứ không phải là một trong ba nhóm quyền của chủ sở hữu. Hay nói
cách khác, khái niệm chiếm hữu đang được xây dựng theo hướng là một sự biểu hiện
ra bên ngoài của chủ thể trong lúc thực hiện nắm giữ, chi phối tài sản[4].
Phân tích quy định
về chiếm hữu của Khoản 1 Điều 179, có thể hiểu: dấu phẩy được các
nhà làm luật đặt giữa hai từ “nắm giữ” và “chi phối” thể hiện sự liệt kê. Như vậy, muốn chiếm hữu tài sản thì chủ thể phải vừa
nắm giữ tài sản vừa đồng thời chi phối tài sản đó. Nắm
giữ tài sản có nghĩa là chủ thể đang cầm nắm
tài sản đó một cách trực tiếp hay có thể hiểu là tài sản đang nằm
trong phạm vi kiểm soát trực tiếp của chủ thể.
Dưới góc độ ngôn
ngữ, từ điển Tiếng Việt định nghĩa “chi phối là có tác dụng điều khiển, quyết định
đối với cái gì”[5]. Từ
đó có thể hiểu chi phối tài sản là chủ thể có
quyền điều khiển, ra quyết định đối với tài sản đó. Việc chi phối tài sản này pháp luật quy định có thể là sự chi phối trực
tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản. Chi phối trực tiếp là
khi chủ thể tự mình thực hiện việc điều khiển, ra quyết định đối với tài sản đó
mà không qua bất kỳ khâu trung gian nào. Còn ngược lại chi phối gián tiếp là chủ
thể không trực tiếp thực hiện mà việc ra quyết định đối với tài sản được tiến
hành thông qua khâu trung gian.
Như vậy, theo quy
định của Điều 161 và Điều 179 Bộ Luật dân sự năm 2015, trong trường hợp pháp luật
không quy định và các bên không có thỏa thuận thì quyền sở hữu sẽ được chuyển từ
người bán sang người mua khi người mua chiếm hữu tài sản (nắm giữ, chi phối tài
sản). Cụ thể là khi tài sản đã nằm trong phạm vi kiểm soát trực tiếp của người
mua và người mua là người có quyền đưa ra quyết định (trực tiếp hoặc gián tiếp)
đối với tài sản đó. Điều này cho thấy sự chuyển giao tài sản mà Điều 161 Bộ luật
Dân sự năm 2015 đang hướng tới đó là sự chuyển giao về mặt thực tế, hay nói
cách khác đó là khi người bán và người mua đã giao nhận hàng hóa trên thực tế
cho nhau. Ví dụ, A và B thỏa thuận 15h ngày 17/2 A sẽ giao hàng cho B tại địa
điểm X. Đúng thời gian, địa điểm trên A
mang hàng tới giao nhưng B đã không đến nhận. Chiếu theo quy định của Điều 161
và Điều 179, lúc bấy giờ quyền sở hữu tài sản chưa được chuyển giao từ người
bán sang người mua bởi lẽ người mua chưa chiếm hữu tài sản (chưa nắm giữ, chi
phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài
sản).
Tuy nhiên, Điều 355
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “trường hợp
chậm tiếp nhận đối tượng của nghĩa vụ là tài sản thì bên có nghĩa vụ có thể gửi
tài sản tại nơi nhận gửi giữ tài sản hoặc áp dụng biện pháp cần thiết khác để bảo
quản tài sản và có quyền yêu cầu thanh toán chi phí hợp lý”. Trường hợp tài sản được gửi giữ thì bên
có nghĩa vụ phải thông báo ngay cho bên có quyền. Quay trở lại với ví dụ trên,
A có quyền gửi giữ tài sản và thông báo ngay cho B biết. Theo quy định tại Điều 374 Bộ luật dân sự năm 2015 nghĩa vụ giao hàng của A đã hoàn thành tại thời điểm
tài sản đã được gửi giữ[6],
cho dù trên thực tế người mua chưa trực tiếp nhận tài sản đó. Khi người bán đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của mình
thì đồng nghĩa với việc quyền sở hữu đã được chuyển từ người bán sang người
mua. Bởi lẽ, khi đến nhận hàng tại nơi nhận gửi giữ,
người mua sẽ phải thanh toán chi phí gửi giữ theo quy định tại Điều 355 Bộ luật Dân sự năm 2015, bởi lẽ
hàng hóa đó đã thuộc sở hữu của người mua.
Tương tự như vậy,
với trường hợp bên bán chọn áp dụng biện pháp cần thiết khác để bảo quản tài sản ví dụ mang về kho của mình để cất giữ thay vì gửi ở nơi nhận gửi giữ thì bên bán sẽ được
quyền yêu cầu bên mua thanh toán chi phí hợp lý. Có thể hiểu rằng đây là chi
phí hợp lý liên quan đến việc bảo quản tài sản. Nếu nói rằng quyền sở hữu chưa
được chuyển giao từ người bán sang người mua trong trường hợp này thì cớ sao
người bán được quyền yêu cầu người mua thanh toán chi phí bảo quản tài sản
trong khi họ đang bảo quản tài sản cho chính mình? Rõ ràng lúc bấy giờ người
bán đang bảo quản và giữ gìn tài sản giúp cho người mua thì mới có quyền yêu cầu
người mua thanh toán chi phí hợp lý liên quan đến việc bảo quản tài sản. Quy định này một lần nữa khẳng định
rằng quyền sở hữu đã được chuyển giao từ người bán sang người mua kể cả khi người
mua chưa chiếm hữu (nắm giữ và chi phối) tài sản đó trên thực tế như quy định của Điều 161 và Điều 179 Bộ luật
Dân sự năm 2015.
Theo quy định tại Điều 2-401 Bộ luật Thương mại Thống
nhất Hoa Kỳ, trừ khi có thỏa thuận khác, quyền sở hữu được chuyển cho người mua
theo thời gian và địa điểm mà người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của mình
mặc dù chứng từ về quyền sở hữu sẽ được giao ở một thời gian và địa điểm khác.
Cụ thể nếu hợp đồng thỏa thuận người bán giao hàng cho người mua nhưng không
yêu cầu giao hàng tại địa điểm nhất định thì quyền sở hữu được chuyển cho người
mua tại thời gian và địa điểm hàng được giao cho người vận chuyển. Nhưng nếu hợp
đồng thỏa thuận giao hàng tại địa điểm nhất định thì quyền sở hữu được chuyển
giao tại địa điểm đó[7]. Quy định này của Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ cũng tương thích với quy định của Bộ
luật Dân sự Liên bang Nga[8]:
nếu không có thoả thuận khác, nghĩa vụ giao hàng của người bán được coi là hoàn
thành vào thời điểm tài sản được đặt dưới sự định đoạt của người mua, nếu tài sản
cần phải được giao cho người mua hay người do người mua chỉ định tại địa điểm có
tài sản. Tài sản được coi đã được đặt dưới sự định đoạt của người mua nếu tài sản
được giao đúng thời điểm và địa điểm do các bên thoả thuận trong hợp đồng và
người mua đã được thông báo về việc hàng hoá sẵn sàng được chuyển giao. Quy định
tương tự cũng tồn tại trong Luật bán hàng của Anh, cụ thể: người bán vẫn phải
chịu rủi ro đối với hàng hóa cho đến khi quyền sở hữu được chuyển giao cho người
mua, khi quyền sở hữu đã được chuyển giao cho người mua, rủi ro người mua sẽ phải
chịu cho dù hàng đó đã được giao hay chưa[9]. Đồng thời khi hàng hóa đã sẵn sàng để giao và người
mua đã được thông báo về việc giao hàng thì khi người mua chậm tiếp nhận nghĩa
vụ nhận hàng họ sẽ phải chịu trách nhiệm về các tổn thất xảy ra đối với hàng hóa
và sự chậm tiếp nhận nghĩa vụ này cũng là lý do cho việc họ sẽ phải trả khoản
phí liên quan đến việc bảo quản và lưu giữ hàng hóa[10].
Chúng ta có thể thấy có những điểm tương đồng giữa Điều
355, Điều 411 của Bộ luật dân sự năm 2015 với các quy định trong Luật bán hàng
của Anh năm 1979. Cụ thể (i) nếu quyền sở hữu đã
chuyển giao rồi thì người mua sẽ phải chịu rủi ro đối với hàng hóa đó dù trên
thực tế hàng hóa đã được giao cho người mua hay chưa; (ii) người mua sẽ phải
gánh chịu những tổn thất xảy ra đối với hàng hóa trong trường hợp họ chậm tiếp
nhận nghĩa vụ và phải thanh toán những chi phí hợp lý cho việc bảo quản hàng
hóa trong trường hợp chậm tiếp nhận nghĩa vụ này. Điều đó đồng nghĩa với việc
quyền sở hữu của hàng hóa - đối tượng của hợp đồng mua bán được chuyển giao từ
người bán sang người mua không phụ thuộc vào việc người mua có đang trực tiếp
thiết lập việc chiếm hữu bao gồm nắm giữ và chi phối hàng hóa đó hay chưa.
Đồng thời việc hiểu giao nhận trong hợp đồng mua bán
hàng hóa/ tài sản là giao nhận về mặt pháp lý cũng hoàn toàn phù hợp với các
quy định đối với các loại hợp đồng khác của Bộ luật dân sự ví dụ như đối với hợp
đồng gia công. Cụ thể trường hợp bên đặt gia công chậm nhận sản phẩm thì bên nhận
gia công có thể gửi sản phẩm đó tại nơi nhận gửi giữ và phải báo ngay cho bên đặt
gia công. Nghĩa vụ giao sản phẩm hoàn thành khi đáp ứng được các điều kiện đã
thỏa thuận và bên đặt gia công đã được thông báo. Bên đặt gia công phải chịu mọi
chi phí phát sinh từ việc gửi giữ (Khoản 2 Điều 550 Bộ Luật dân sự năm 2015).
Quy định của điều luật này cho thấy rằng đối với hợp đồng gia công thì rõ ràng
quyền sở hữu đã được chuyển giao khi bên nhận gia công đáp ứng được các điều kiện
đã thỏa thuận về việc giao hàng (thời gian và địa điểm giao hàng) và bên đặt gia
công đã được thông báo về việc nhận hàng chứ không yêu cầu bên đặt gia công đã
nhận hàng trên thực tế. Tinh thần này cũng phù hợp với các quy định liên quan đến
hợp đồng tặng cho tài sản để hiểu hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng ưng thuận
chứ không phải hợp đồng thực tế, việc giao và nhận tài sản trong hợp đồng tặng
cho cũng là giao nhận về mặt pháp lý[11].
Do đó quy định thời điểm xác lập quyền sở hữu là thời
điểm tài sản được chuyển giao – khi chủ thể có quyền chiếm hữu thông qua việc nắm
giữ, chi phối tài sản như quy định của Điều 161 và Điều 179 Bộ luật dân sự hiện
nay là không hợp lý đối với việc chuyển giao quyền sở hữu trên cơ sở hợp đồng
mua bán. Hơn nữa, phạm vi của sự nắm giữ và chi phối là khác
nhau. Chi phối có phạm vi rộng hơn nắm giữ. Chủ thể đang nắm giữ tài sản có thể
có hoặc không có quyền chi phối đối với tài sản nhưng chủ thể có quyền chi phối
tài sản thì không cần phải đang trực tiếp nắm giữ tài sản đó. Chưa kể với quy định
về chiếm hữu của Điều 179 thì có thể thấy bất kỳ người nào dù có quyền hay
không có quyền cũng có thể thực hiện việc nắm giữ, chi phối tài sản, chỉ cần
người đó biểu hiện ra bên ngoài như trạng thái của một người đang có quyền hợp
pháp đối với tài sản đó, thì trạng thái này được xem là chiếm hữu[12].
Việc giao nhận tài sản và chi phối tài sản ở đây phải được hiểu là giao nhận và chi phối về mặt pháp lý chứ không phải là
giao nhận và chi phối trên thực tế. Bởi lẽ tình trạng thực tế của tài sản có sự khác biệt với sự phân định về mặt
pháp lý của chúng[13].
Về mặt pháp lý tài sản có thể thuộc sở hữu của một chủ thể nhưng thực tế có thể
đang nằm trong sự kiểm soát của một chủ thể khác. Đồng thời, chủ sở hữu đương
nhiên có quyền chiếm hữu đối với tài sản nhưng trên thực tế chủ sở hữu có thể
phải hoặc không phải là người chiếm hữu; ngược lại, người không phải là chủ sở
hữu có thể đang chiếm hữu tài sản[14].
Sự
chiếm hữu thực tế đối với tài sản độc lập với vấn đề quyền đối với tài sản đó[15].
Có thể thấy sự bất
hợp lý trên xuất phát từ việc quy định hiện hành hoàn toàn không có khái niệm về
“quyền chiếm hữu”, Bộ luật Dân sự chỉ đưa ra khái niệm “chiếm hữu”. Thuật ngữ
chiếm hữu đang được sử dụng trong hai nội dung khác nhau dẫn đến sự trùng lấn,
khó tách bạch: chiếm hữu vừa được quy định là một phần của quyền sở hữu, vừa được
quy định là một trạng thái thực tế của chủ thể[16].
Điều 161 Bộ luật Dân sự 2015 đưa ra cơ sở để xác định thời điểm xác lập quyền sở
hữu nhưng lại dẫn chiếu qua Điều 179 Bộ luật Dân sự năm 2015 khi khái niệm “chiếm
hữu” đang dừng lại ở trạng thái thực tế của chủ thể đối với tài sản. Trong khi
đó, từ rất sớm các nhà luật học cổ La Mã đã nhận thức được sự cần thiết phân biệt
giữa sở hữu (ownership) và chiếm hữu (possession), như là sự phân biệt giữa nội
dung và hình thức của một quan hệ xã hội[17].
2. Đăng ký
tài sản, đăng ký quyền sở hữu
tài sản và thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với tài
sản là phương tiện xe cơ giới đường bộ
2.1 Đăng ký tài sản và đăng ký quyền sở hữu tài sản
Khoản 1 Điều 161 Bộ
luật dân sự năm 2015 quy định: “thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản thực hiện theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
trường hợp luật không có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên”.
Việc xác
định thời điểm xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc luật
khác có liên quan tùy thuộc vào đối tượng
của giao dịch là loại tài sản nào. Nếu tài sản đó là bất động sản hoặc là động
sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký thì để xác lập quyền sở hữu, chủ
sở hữu phải tiến hành việc đăng ký theo quy định. Cụ thể theo quy định tại Điều 106 Bộ Luật dân sự năm 2015: “Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
là bất động sản được đăng ký theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đăng
ký tài sản. Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là động sản không phải
đăng ký, trừ trường hợp pháp luật về đăng ký tài sản có quy định khác”
Liên quan đến vấn đề này, Điều 168, Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Thời
điểm chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng
ký quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Đồng thời Khoản 2 Điều 439 nhấn mạnh: “Đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu
thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục
đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó”.
Để có cơ sở so
sánh liệu rằng quy định như thế nào là hợp lý thì trước hết cần phải có sự phân
định rõ ràng giữa “đăng ký tài sản” (Theo
quy định của Bộ Luật dân sự năm 2015) và “đăng
ký quyền sở hữu” (Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005):
Quyền sở hữu là một
quyền năng gắn liền với chủ sở hữu tài sản, là mức độ xử sự mà pháp luật cho
phép một chủ thể được thực hiện trong quá trình, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
tài sản[18].
Đăng ký quyền sở hữu là thủ tục đặt ra với chủ sở hữu tài sản để Cơ quan nhà nước
có thẩm quyền công nhận và chứng thực về phương diện pháp lý các quyền của chủ
sở hữu đối với tài sản trong quan hệ dân sự[19].
Bên cạnh việc đăng ký quyền sở hữu thì tài sản còn có thể là đối tượng phải tiến
hành các thủ tục đăng ký khác. Cụ thể, hiện trong quy định của Bộ luật dân sự
cũng đang đề cập đến nhiều loại đăng ký như: đăng ký biện pháp đảm bảo (Điều
298), đăng ký theo quy định của Luật đất đai (Điều 503). Hay theo quy định của
pháp luật về đăng ký tài sản mà Bộ luật dân sự dẫn chiếu tới thì có rất nhiều
thủ tục đăng ký liên quan như đăng ký quốc tịch, đăng ký quyền chiếm hữu…[20].
Với tất cả các loại đăng ký trên thì dường như Bộ luật dân sự năm 2015 đang sử
dụng chung thuật ngữ “đăng ký tài sản” cho tất cả các loại đăng ký, bao gồm
cả đăng ký quyền sở hữu.
Có quan điểm cho rằng:
“thuật ngữ “đăng
ký” cần được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tài sản theo quy định phải được cấp
giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng (tức giấy xác nhận người đứng tên
trong giấy là chủ sở hữu)….“Đăng ký” còn bao gồm những tài sản theo quy định của
pháp luật được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký, loại giấy này không phải
là giấy chứng nhận quyền sở hữu, nhưng cũng có giá trị chứng minh (xét dưới góc
độ pháp lý) người đứng tên trong giấy đăng ký là chủ sở hữu”[21].
Tuy nhiên tác giả cho rằng cần có sự phân định rõ ràng các khái niệm bởi lẽ
đăng ký tài sản là thủ tục không phải với mục đích để Nhà nước công nhận quyền
sở hữu tài sản cho chủ sở hữu mà chủ yếu với mục đích liên quan đến việc quản
lý hành chính nhà nước đối với một số loại tài sản đặc biệt.
Như vậy có thể thấy
rằng mặc dù đã hết hiệu lực nhưng Bộ luật dân sự 2005 lại có những quy định hợp
lý hơn so với Bộ luật dân sự năm 2015 về vấn đề xác lập quyền sở hữu đối với những
loại tài sản này khi sử dụng thống nhất thuật ngữ “đăng ký quyền sở hữu”. Thiết nghĩ các quy định của Bộ luật dân sự
năm 2015 cũng cần phải có sự tách bạch trong việc sử dụng thuật ngữ để tránh những
nhầm lẫn và tranh cãi không cần thiết.
Để xác định thời
điểm xác lập quyền sở hữu đối với tài sản, Điều 161 Bộ luật dân sự năm 2015 còn dẫn chiếu đến luật khác
có liên quan. Có thể hiểu đối với quyền sử dụng đất thì đó
là các quy định của Luật đất đai; đối với nhà ở hay các bất động sản khác thì đó
là quy định của Luật nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản; đối với di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia thì có quy định của Luật di sản văn hóa năm 2001 sửa đổi
năm 2009; hay đối với tài sản là vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ thì theo
quy định tại Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ. Như vậy một vấn đề đặt ra là đối với các tài sản
khác không có luật riêng điều chỉnh (ví dụ ô tô, xe máy…) thì việc xác lập quyền
sở hữu sẽ được thực hiện như thế nào? Thủ tục nào là thủ tục đăng ký quyền sở hữu
với những loại tài sản này?
Pháp luật hiện hành
chỉ quy định về việc đăng ký xe được hướng dẫn tại Thông tư 24/2023/TT-BCA ngày
01/7/2023. Và liệu rằng việc đăng ký xe theo hướng dẫn tại thông tư này có phải
là thủ tục đăng ký để xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự năm
2015 đang dẫn chiếu đến? Theo những nội dung tại Thông tư, có thể thấy rằng việc
đăng ký này đặt ra đối với chủ sở hữu xe. Họ sẽ phải tiến hành đăng ký xe tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền là Phòng cảnh sát giao thông để được nhận được
Giấy chứng nhận đăng ký xe và biển số. Và liệu rằng Giấy chứng nhận đăng ký xe
mà chủ sở hữu nhận được do Phòng cảnh sát giao thông cấp có phải là giấy chứng
nhận quyền sở hữu đối với xe hay không?
Chúng ta không tìm
thấy sự giải thích từ ngữ “đăng ký xe” là gì tại Thông tư 24/2023/TT-BCA ngày
16/6/2020. Tuy nhiên từ quy định của Điều 1 – Phạm vi điều
chỉnh của Thông tư[22], có thể hiểu đăng ký xe là thủ tục để tiến hành các
việc cấp, thu hồi đăng ký (Giấy đăng ký xe) và biển số xe. Như vậy không hề có
sự khẳng định trong văn bản pháp quy rằng thủ tục đăng ký xe là đăng ký quyền sở
hữu, chỉ có quy định rằng các xe cơ giới đều phải tiến hành đăng ký và gắn biển
số do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp (Khoản 3 Điều 53 Luật giao thông đường
bộ năm 2008). Đây chỉ là thủ tục hành chính để nhà nước có được
thông tin và kiểm soát đối với các phương tiện giao thông cơ giới đường bộ -
nguồn nguy hiểm cao độ, quản lý trật tự an toàn xã hội, chứ không phải là đăng
ký quyền sở hữu[23]. Và đồng thời cũng có thể hiểu Giấy chứng
nhận đăng ký xe là giấy tờ hợp pháp để chứng minh phương tiện này đã được đăng
ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định. Chủ phương tiện đã
thực hiện đúng quy định của Nhà nước và phương tiện được phép lưu thông chứ bản
chất không phải là Giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với phương tiện của chủ sở
hữu. Quyền sở hữu
dựa trên Giấy chứng nhận đăng ký xe chỉ là suy diễn pháp lý gián tiếp, vì không
có quy định nào khẳng định Giấy chứng nhận đăng ký xe là giấy chứng nhận quyền
sở hữu[24].
Từ đó thiết nghĩ pháp luật cần có quy định
rõ ràng trực tiếp về thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với các phương tiện cơ giới
như với các phương tiện đặc thù khác ví dụ như tàu bay thay vì chỉ quy định
chung là đăng ký. Đối với thủ tục đăng ký quyền sở hữu tàu bay thì sau khi hoàn
tất thủ tục theo luật định, chủ sở hữu tàu bay sẽ được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký quyền sở hữu tàu bay (Registration Certification of Aircaft Ownership)[25]. Nếu quy
định về việc đăng ký quyền sở hữu được rõ ràng cũng sẽ khiến cho quy định của
pháp luật Việt Nam trong việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản là xe cộ trở
nên tương thích hơn với pháp luật quốc tế. Cụ thể ví
dụ với các bang ở Hoa Kỳ,
pháp luật quy định chủ sở hữu tài sản có hai giấy chứng nhận: một là giấy chứng
nhận quyền sở hữu (certificate
of ownership) thường được biết đến với tên gọi
là “phiếu hồng” (pink slip) và một là
thẻ đăng ký (registration card)[26] – thường
được biết đến với tên gọi “phiếu trắng” (white
slip). Thẻ đăng ký (Registration card)
chỉ được sử dụng như một thứ giấy tờ để nhận dạng phương tiện và nó không thể
hiện cho quyền sở hữu chiếc xe như đối với giấy chứng nhận quyền sở hữu (certificate of ownership)[27].
2.2. Thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với tài sản là
phương tiện xe cơ giới đường bộ
Như đã phân tích ở trên, đối với các phương tiện cơ giới
đường bộ như ô tô, xe máy pháp luật Việt Nam hiện không hề có quy định về việc
đăng ký xe chính là đăng ký quyền sở hữu. Giả sử nếu dùng cách hiểu trên thực tế
trong thực tiễn giao dịch, giấy chứng nhận đăng ký xe thường được các bên xem
như giấy tờ chứng minh quyền sở hữu của chủ phương tiện thì liệu quyền sở hữu đối
với loại tài sản này theo quy định có được xác lập khi chủ sở hữu hoàn tất thủ
tục đăng ký xe?
Đối với việc
chuyển quyền sở hữu phương tiện là tài sản phải đăng ký, Luật về phương tiện năm 2010 của California (2010 California Vehicle Code ) quy định cụ thể
quyền sở hữu được chuyển giao trong hai trường hợp. Thứ nhất, khi người bán đã gửi Giấy chứng nhận quyền sở hữu (Certificate of ownership) cho người mua
và người mua đã hoàn tất thủ tục đăng ký và đóng phí tại cơ quan có thẩm quyền
là DMV (Department of Motor Vehicles). Thứ
hai, khi người bán đã gửi các giấy tờ cần thiết chứng minh việc chuyển nhượng
cho DMV, yêu cầu thông báo phải có mô tả về phương tiện; tên, địa chỉ của người
chuyển nhượng và người nhận chuyển nhượng[28].
So với quy
định của pháp luật Việt Nam thì Luật của California Hoa Kỳ có phần linh hoạt
hơn. Bởi lẽ quyền sở hữu của người bán sẽ được chuyển giao cho người mua ngoài
trường hợp thứ nhất khi người mua đã hoàn tất thủ tục đăng ký quyền sở hữu thì
còn có trường hợp thứ hai đó là khi người bán hoàn tất thủ tục thông báo với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về việc chuyển nhượng phương tiện của mình. Chúng
ta cũng có thể tìm thấy quy định tương tự về yêu cầu thông báo với Cơ quan nhà
nước có thẩm quyền mà pháp luật đặt ra cho người bán tại Khoản Điều 6 Thông tư 15/2014/TT-BCA ngày 04/4/2014
quy định về đăng ký xe.
Theo đó ngay khi có quyết định điều chuyển, bán, cho, tặng xe, chủ xe phải
thông báo bằng văn bản theo mẫu số 01 ban hành kèm theo Thông tư đến cơ quan đã
cấp Giấy chứng nhận đăng ký xe đó để theo dõi. Trường hợp chủ xe không thông
báo thì tiếp tục phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về chiếc xe đó đến khi tổ
chức, cá nhân mua, được điều chuyển, cho, tặng xe làm thủ tục đăng ký sang tên,
di chuyển xe. Với quy định này của Thông tư
15/2014/TT-BCA, có thể hiểu để thoát khỏi các trách nhiệm pháp lý của chủ sở hữu liên quan đến xe thì người bán có thể
hoàn tất thủ tục thông báo với Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ngay sau khi việc
mua bán đã được diễn ra mà không cần phải đợi đến khi người mua hoàn tất thủ tục
đăng ký sang tên, di chuyển xe.
Tuy nhiên quy định này của Thông tư 15/2014/TT-BCA đã hết hiệu lực,
thay vào đó là quy định của Thông tư 24/2023/TT-BCA hiện hành quản lý biển số
xe theo số định danh cá nhân. Theo đó khi chuyển nhượng xe, chủ sở hữu phải giữ
lại chứng nhận đăng ký xe, biển số xe (không giao cho tổ chức, cá nhân nhận
chuyển quyền sở hữu xe) và nộp cho cơ quan đăng ký xe chứng nhận đăng ký xe, biển
số xe để làm thủ tục thu hồi rồi; sau đó tổ chức, cá nhân nhận chuyển quyền sở
hữu mới làm thủ tục đăng ký sang tên xe theo quy định (Điều 6, Thông tư 24/2023/TT-BCA).
Cũng tương tự các thông tư hướng dẫn về đăng ký xe trước đây, nội dung Thông tư
24/2023/TT-BCA hoàn toàn không quy định về việc đăng ký quyền sở hữu cũng như
thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với xe.
Sự thiếu vắng quy định này của pháp luật về thủ tục đăng
ký quyền sở hữu cũng như thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với xe cơ giới dẫn
đến những bất cập trên thực tế, cụ thể liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Khoản 2
Điều 133 Bộ luật Dân sự năm 2015. Để bảo vệ được quyền lợi của người thứ ba
ngay tình thì việc xác định “thời điểm đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền”
là một vấn đề hết sức quan trọng và mang tính chất quyết định. Trường hợp giao
dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba
ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch
thì giao dịch đó không bị vô hiệu. Quy định này là hợp lý, bởi nếu không bảo vệ
người thứ ba ngay tình trong trường hợp này thì việc đăng ký tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền sẽ không có nhiều ý nghĩa giá trị về mặt pháp lý, dẫn đến việc
đăng ký chỉ mang tính hình thức mà không có giá trị ràng buộc pháp lý khi các
bên thực hiện thủ tục đăng ký này[29]. Ngược lại trường
hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu (trừ một số trường hợp ngoại lệ
được quy định tại Khoản 2 Điều 133 Bộ luật Dân sự năm 2015). Một lần nữa tại
Khoản 2 Điều 133, Bộ luật Dân sự dùng thuật ngữ “đăng ký” mà không nói rõ đó là
loại đăng ký gì.
Giả sử đó là giao dịch liên quan đến xe cơ giới, một
trong những loại tài sản phải đăng ký, cụ thể là đăng ký xe theo quy định của
Luật An toàn giao thông đường bộ và Thông tư 24/2023/TT-BCA thì thủ tục nào là
“thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền” và đâu là “thời điểm đăng
ký” theo yêu cầu của Khoản 2 Điều 133 Bộ luật Dân sự năm 2015? Nếu tạm hiểu đó
là thủ tục đăng ký sang tên xe của cá nhân, tổ chức nhận chuyển nhượng thì thời
điểm được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo yêu cầu của Khoản 2
Điều 133 Bộ luật Dân sự là thời điểm nào? Đó là thời điểm cá nhân, tổ chức nhận
chuyển nhượng hoàn tất thủ tục kê khai giấy khai đăng ký xe; đưa xe đến để kiểm
tra, cung cấp mã hồ sơ đăng ký xe trực tuyến và nộp hồ sơ theo quy định (Điểm
a, Khoản 2 Điều 15 Thông tư 24/2023/TT-BCA) hay đó là thời điểm được cơ quan
đăng ký xe cấp biển số xe theo quy định sau khi kiểm tra hồ sơ xe, thực tế xe đảm
bảo hợp lệ (Điểm b, Khoản 2 Điều 15 Thông tư 24/2023/TT-BCA)? Nếu trong khoảng
thời gian này giao dịch dân sự vô hiệu thì quyền lợi của người thứ ba ngay tình
sẽ được giải quyết như thế nào? Liệu giao dịch dân sự với người thứ ba ngay
tình có bị vô hiệu theo không? Tất cả những câu hỏi này đều không có lời đáp từ
quy định của pháp luật hiện hành.
Với quốc gia mà nhu cầu sử
dụng xe cá nhân đang còn phổ biến và chủ yếu như Việt Nam thì xe cơ giới là tài
sản gắn liền với mọi chủ thể, việc chuyển nhượng tài sản này cũng được diễn ra
một cách thường xuyên. Vì vậy, để giải quyết các vấn đề pháp lý trên, pháp luật cần có sự minh thị về thủ tục đăng ký quyền sở hữu
xe và thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với loại tài sản là xe cơ giới để đảm bảo
quyền lợi cho các bên cũng như quyền lợi của người thứ ba ngay tình tham gia
giao dịch. Để có sự tương thích giữa quy định của các văn bản quy phạm pháp luật
bao gồm Bộ luật Dân sự và Thông tư 24/2023/TT-BCA hiện hành thiết nghĩ đó là thời điểm người bán đã
hoàn tất thủ tục thu hồi đăng ký, biển số xe theo quy định tại Điều 14, 15
Thông tư 24/2023/TT-BCA. Bởi lẽ hồ sơ để tiến hành thủ tục thu hồi đã bao gồm cả bản sao chứng từ chuyển quyền sở
hữu xe (Điểm e, Khoản 1, Điều 14 Thông tư 24/2023/TT-BCA). Đó là tài liệu chứng
minh cho cơ sở của việc chuyển quyền sở hửu. Đồng thời đây cũng là thủ tục mà
bên chuyển nhượng hoàn tất các nghĩa vụ liên quan đến vai trò là người bán của
mình.
2.3 Quy định về hợp đồng chuyển nhượng trong hồ sơ
đăng ký xe
Một sự bất hợp lý khác còn
thể hiện ở chỗ các quy định về đăng ký xe đưa ra một số yêu cầu rất khác biệt. Theo
đó hồ sơ đăng ký xe phải bao gồm văn bản về việc bán, tặng cho xe của cá
nhân phải có xác nhận công chứng hoặc chứng thực (Điểm b, Khoản
2 Điều 11, Thông tư 24/2023/TT-BCA). Sự khác biệt và kỳ lạ này thể hiện ở chỗ
Thông tư của Bộ Công an lại quy định đến cả hình thức của hợp đồng mua bán, tặng
cho xe. Thậm chí hình thức của hợp đồng này lại là một trong những điều kiện bắt
buộc để chủ sở hữu có thể xác lập được quyền sở hữu và các quyền khác đối với
tài sản của mình.
Trong khi đó theo
quy định của Điều 24 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 sửa đổi
năm 2020, Bộ trưởng ban hành thông tư để quy định: (i) Chi tiết điều, khoản,
điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định
của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ; (ii) Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước
của mình. Nếu cho rằng Bộ Công an quy định về hình thức của hợp đồng mua
bán, tặng cho xe tại Thông tư 24/2023/TT-BCA là để quy định chi tiết cho Điều
106 Bộ luật dân sự năm 2015 thì hoàn toàn không hợp lý bởi lẽ đó phải là hướng
dẫn liên quan đến loại tài sản nào phải đăng ký và hình thức, thủ tục đăng ký
chứ không phải là hướng dẫn về nội dung hay hình thức của hợp đồng liên quan đến
những loại tài sản này. Hơn nữa, thông tư của Bộ Công an không thể được xem là
một trong những văn bản quy phạm của pháp luật hợp đồng.
Mặt khác, nếu cho
rằng quy định về hình thức của hợp đồng chuyển nhượng xe của Thông tư là để quy
định các biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước của Bộ Công an thì lại
càng khiên cưỡng.
Bởi lẽ chức năng quản lý nhà nước của Bộ Công an trong trường hợp này cũng chỉ
liên quan đến việc quản lý về đăng ký xe để đảm bảo kiểm soát tài sản, đề phòng
mất cắp, và qua đó nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về trật tự an toàn giao
thông, góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông chứ không phải để kiểm soát về hình
thức của hợp đồng đối với xe cũng như đặt ra các rào cản đối với chủ sở hữu khi
họ thực hiện các thủ tục để xác lập quyền sở hữu của mình.
So sánh với các quy định về đăng ký những phương tiện
giao thông khác như tàu bay, tàu biển thì cũng không hề có quy định nào về việc
hợp đồng chuyển quyền sở hữu các loại phương tiện này phải được lập thành văn bản
và có công chứng hoặc chứng thực[30].
So sánh với pháp luật nước ngoài thì rõ ràng quy định về hình thức của hợp đồng
mua bán, tặng cho xe tại Thông tư số Thông tư
24/2023/TT-BCA là
không hợp lý, gây cản trở cho việc hoàn tất thủ tục đăng ký để xác lập quyền sở
hữu của chủ sở hữu xe. Bài viết tiếp tục sử dụng Luật về phương tiện của California Hoa Kỳ để so sánh, để được cấp chứng nhận quyền sở hữu
tại DMV luật pháp bang California Hoa Kỳ chỉ yêu cầu phải có xác minh bằng văn
bản và có chữ ký của các bên về (i) ngày chuyển nhượng, (ii) Tên, địa chỉ của
người bán và người mua; (iii) Số tiền thanh toán[31] mà không
yêu cầu phải có hợp đồng mua bán được gửi kèm trong hồ sơ đăng ký xe đồng thời
càng không quy định về hình thức của hợp đồng. Từ đó cho thấy quy định về hồ sơ
đăng ký xe cần phải được sửa đổi theo hướng bỏ quy định liên quan đến hình thức
của hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu xe và
đồng thời cho phép chủ sở hữu chứng minh sự chuyển nhượng này bằng những hình
thức khác.
3. Thời điểm
xác lập quyền sở hữu theo sự thỏa thuận thông qua biện pháp bảo đảm bảo lưu quyền
sở hữu đối với tài sản gắn liền với đất
Điều 161 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác
đối với tài sản thực hiện theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên
quan; trường hợp luật không có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các
bên; trường hợp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì thời điểm
xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển
giao. Như vậy, sẽ có 3 thời điểm xác lập quyền sở
hữu theo thứ tự ưu tiên là: (i) quy định của Bộ luật dân sự/ luật khác có liên
quan; (ii) sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng; (iii) thời điểm chuyển
giao tài sản. Điều này có nghĩa rằng khi đã có quy định của Luật
thì các bên không được phép thỏa thuận về thời điểm xác lập quyền sở hữu nữa,
hay nói cách khác quyền sở hữu chỉ được xác lập theo sự thỏa thuận của các bên
khi Luật không quy định.
Tuy
nhiên, Bộ luật Dân sự lại có quy định về Bảo lưu quyền sở hữu là một trong những
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ở Điều 311 và là một quyền đương nhiên của
bên bán tại Điều 453 đối với mua trả chậm, trả dần. Theo đó quyền sở hữu tài sản
có thể được bên bán bảo lưu cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được thực hiện đầy
đủ. Thỏa thuận bảo lưu quyền sở hữu cho phép các bên được tự do quyết định thời
điểm chuyển giao quyền sở hữu thay vì chịu sự ràng buộc của luật định[32].
Các quy định của Bộ luật dân sự
năm 2015 liên quan đến bảo lưu quyền sở hữu không hề giới hạn vấn đề bảo lưu
quyền sở hữu chỉ được thiết lập đối với tài sản là động sản, vì vậy các bên
hoàn toàn có thể thỏa thuận áp dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ này với
bất động sản hoặc động sản có đăng ký. Đồng thời pháp luật đã có những hướng dẫn
cho thủ tục đăng ký bảo lưu quyền sở hữu trong trường hợp mua bán tài sản gắn
liền với đất tại Nghị định số 99/2022/NĐ-CP ngày 30/11/2022 về đăng ký biện
pháp bảo đảm. Theo đó thì bên bán có quyền bảo lưu quyền sở hữu và phải tiến
hành thủ tục đăng ký biện pháp bảo đảm đối với tài sản gắn liền trên đất, tuy
nhiên pháp luật không dành cho các bên quyền thỏa thuận về việc bảo lưu quyền sở
hữu đối với quyền sử dụng đất. Như vậy liệu sự thỏa thuận của các bên về thời
điểm chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản gắn liền với đất thông qua biện
pháp bảo lưu quyền sở hữu liệu có ý nghĩa trên thực tiễn không?
Ví dụ: A và B ký hợp đồng mua
bán nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Hợp đồng có thỏa thuận về việc bảo lưu quyền
sở hữu đối với nhà ở. Sự thỏa thuận này không hề trái với quy định của pháp luật.
Tuy nhiên liệu rằng sau khi B đã hoàn tất các thủ tục pháp lý cần thiết và được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất thì A có quyền được đòi lại tài sản bao gồm quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở từ B hay không khi B không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh
toán của mình?
Rõ ràng pháp luật có quy định
về cơ chế bảo lưu quyền sở hữu đối với nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại
Nghị định số 99/2022/NĐ-CP nhưng trên thực tế thì A không thể đòi lại tài sản
bao gồm nhà ở và quyền sử dụng đất từ B. Bởi lẽ, Điều 12 Luật Nhà ở năm 2014 và
Luật Nhà ở năm 2023 có hiệu lực từ 01/01/2025 đều quy định: Trường hợp mua bán
nhà ở mà không thuộc diện mua bán nhà ở giữa chủ đầu tư dự
án xây dựng nhà ở với người mua thì thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở là
kể từ thời điểm bên mua, bên thuê mua đã thanh toán đủ tiền mua, tiền thuê mua
và đã nhận bàn giao nhà ở, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Một trong
những trường hợp các bên có thỏa thuận khác ở đây có thể hiểu là khi các bên có
thỏa thuận về áp dụng biện pháp bảo đảm bảo lưu quyền sở hữu. Tuy nhiên, việc
công nhận quyền sở hữu nhà ở sẽ được thực hiện thông qua việc cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy
định của Luật đất đai (Điều 9 Luật nhà ở năm 2023)[33].
Và quyền này đã được xác lập từ thời điểm người mua hoàn tất thủ tục đăng ký
theo quy định của Luật đất đai, đó là thời điểm kê khai và ghi nhận tình trạng
pháp lý về quyền sử dụng đất vào hồ sơ địa chính[34]. Đồng thời trên thực tế thì
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền trên đất (bao
gồm cả nhà ở) được cấp trên một Giấy chứng nhận, chứ không tách thành hai Giấy
chứng nhận bao gồm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất riêng và Giấy chứng nhận
quyền sở hữu tài sản gắn liền trên đất riêng để người bán có cơ chế đòi lại tài
sản trên cơ sở của biện pháp bảo đảm Bảo lưu quyền sở hữu.
Rõ ràng sự thỏa thuận của các
bên về thời điểm xác lập quyền sở hữu trong trường hợp này không có giá trị
trên thực tế khi bên bán đang bảo lưu quyền sở hữu mà bên mua đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu. Biện pháp bảo đảm bảo lưu quyền sở hữu này không mang
lại cho bên có quyền sự đảm đảo chắc chắn là nghĩa vụ được thực hiện[35].
Trong bảo lưu quyền sở hữu thì sự chắc chắn đó không tồn tại khi người mua
không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán và cũng không còn tài sản[36]
(đối với động sản) và thậm chí là còn tài sản (đối với bất động sản) nhưng cũng
không có cơ chế để người bán có thể thiết lập lại quyền sở hữu của mình với những
bất động sản này.
Chưa kể, nếu Luật Nhà ở bắt buộc
muốn chuyển quyền sở hữu nhà ở thì phải đáp ứng cả hai điều kiện: (i) hoàn
thành nghĩa vụ thanh toán và (ii) hai là đã được bàn giao nhà, thì sẽ xảy ra
trường hợp bên mua đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán nhưng bên bán cố tình kéo
dài và không bàn giao nhà. Điều này gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của bên mua. Bên cạnh đó, trong các quy định liên quan đến bảo lưu quyền sở hữu
cho thấy khi bên mua hoàn thành xong nghĩa vụ thanh toán thì quyền sở hữu được
chuyển giao cho bên mua mà không cần bên mua phải được giao tài sản trên thực tế.
Vì vậy, nếu pháp luật cho phép dựa vào việc hoàn thành nghĩa vụ thanh toán hoặc
việc nhận bàn giao nhà trên thực tế để xác định thời điểm chuyển giao quyền sở
hữu nhà ở sẽ bảo vệ được quyền lợi của bên mua nhà và cũng không làm ảnh hưởng
đến quyền lợi của bên bán[37].
Vì khi bên mua thanh toán đủ tiền mua nhà đã đủ cơ sở để bên bán an tâm bàn
giao nhà. Nếu bên mua yêu cầu bàn giao nhà rồi mới thanh toán thì bên bán hoàn
toàn có quyền cân nhắc bàn giao hay không bàn giao[38].
Từ đó thiết nghĩ các quy định của pháp luật cần có sự thống nhất với nhau để nó
thực sự có ý nghĩa và áp dụng được trên thực tế. Bởi lẽ, đây chính là cơ sở
quan trọng cho các bên trong hợp đồng mua bán tài sản, đặc biệt là bên bán có
căn cứ bảo vệ quyền và lợi ích của mìn, đồng thời tạo điều kiện cho các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền có cơ sở pháp lý cụ thể để giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong thực tế[39].
4. Kiến nghị
Từ những phân tích trên, người viết đưa ra một số đề
xuất để hoàn thiện hơn nữa quy định của pháp luật liên quan đến chuyển giao quyền
sở hữu trong hợp đồng như sau:
Thứ nhất, pháp luật cần có sự tách bạch giữa chế định chiếm hữu
và chế định quyền sở hữu bởi lẽ chiếm hữu chỉ một trạng thái thực tế của chủ thể
đối với tài sản, là biểu hiện ra bên ngoài của quyền chiếm hữu. Cần tránh việc
sử dụng cùng một thuật ngữ “chiếm hữu” cho cả hai chế định như hiện nay.
Thứ hai, có rất nhiều
căn cứ để xác lập quyền sở hữu, thiết nghĩ Bộ luật dân sự không nên gộp thời điểm
chuyển giao quyền sở hữu trên cơ sở căn cứ xác lập là các giao dịch dân sự/ hợp
đồng chung vào một điều luật về thời điểm xác lập quyền sở hữu cùng với các căn
cứ xác lập khác như quy định của Điều 161 như hiện nay. Thay vào đó nên có điều
luật riêng quy định về thời điểm chuyển quyền sở hữu, đặc biệt chuyển quyền sở
hữu trên cơ sở hợp đồng mua bán thành một điều luật riêng như quy định của Điều
439 Bộ luật dân sự năm 2005.
Thứ ba, bỏ quy định hiện hành xem trạng thái thực tế của sự
chiếm hữu tại Điều 179 Bộ luật Dân sự năm 2015 là cơ sở để xác lập quyền sở hữu
trong trường hợp quyền sở hữu được chuyển giao thông qua giao dịch/ hợp đồng tại
Điều 161 Bộ luật Dân sự năm 2015. Thay vào đó điều luật riêng về thời điểm chuyển
quyền sở hữu trên cơ sở hợp đồng mua bán cần quy định theo hướng: thời điểm
chuyển quyền sở hữu trên cơ sở hợp đồng mua bán là thời điểm tài sản được
đặt dưới sự định đoạt của người mua; sự định
đoạt của người mua được xác lập từ thời điểm tài sản được giao
đúng thời gian, địa điểm do các bên thoả thuận trong hợp đồng
và người mua đã được thông báo về việc này.
Thứ tư, sửa đổi các quy định liên quan của Bộ luật Dân sự năm
2015 tại các Điều 106, Điều 161, Điều 133, Mục 3 Đảm bảo thực hiện nghĩa vụ và
các điều luật khác có sử dụng khái niệm “đăng ký” theo hướng tách bạch tên các
loại đăng ký tương ứng với mỗi nội dung mà các điều luật điều chỉnh tới. Không
nên sử dụng chung thuật ngữ “đăng ký” cho tất cả các loại đăng ký bao gồm: đăng
ký quyền sở hữu, đăng ký tài sản hay cả đăng ký biện pháp bảo đảm… như hiện
nay.
Thứ năm, đối với phương tiện là xe cơ giới, pháp luật cần có quy
định rõ về thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với xe cơ giới cũng như thời điểm
xác lập quyền sở hữu đối với loại tài sản này. Cần có sự xác lập, tách bạch giữa
Giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với xe cơ giới và Giấy đăng ký xe để đảm bảo
quyền sở hữu và các quyền khác của chủ sở hữu. Thời điểm xác lập quyền sở hữu đối
với người nhận chuyển nhượng nên được quy định theo hướng đó là thời điểm người
chuyển nhượng đã hoàn tất thủ tục liên quan đến nghĩa vụ của bên chuyển nhượng. Hiện là thủ tục thu hồi
theo quy định theo quy định của pháp luật hiện hành tại Thông tư 24/2023/TT-BCA
hoặc các thủ tục tương ứng khi pháp luật có sự thay đổi.
Thứ sáu, pháp luật cần có quy định thống nhất giữa Luật Nhà ở
và Luật Đất đai về thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với tài sản gắn liền với
đất trong trường hợp giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất có sử dụng biện pháp bảo đảm bảo lưu quyền sở hữu đối với tài sản
gắn liền với đất. Thiết nghĩ trong trường hợp đó pháp luật đất đai cần có sự
tách bạch giữa việc xác nhận quyền sử dụng đất và xác nhận quyền sở hữu đối với
tài sản gắn liền với đất bằng việc tách Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Giấy
chứng nhận quyền sở hữu tài sản trên đất để có cơ chế đảm bảo quyền lợi cho các
bên cũng như đảm bảo tính hiệu quả trên thực tế của biện pháp bảo đảm bảo lưu
quyền sở hữu.
5. Kết luận
Để đảm bảo được quyền lợi của các bên trong giao dịch
dân sự cũng như quyền lợi của bên thứ ba, việc hoàn thiện các quy định của pháp
luật liên quan đến chuyển giao quyền sở hữu và thời điểm xác lập quyền sở hữu
là hết sức cần thiết. Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu, so sánh quy định giữa
các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, so sánh quy định của pháp luật Việt
Nam với pháp luật nước ngoài, bài viết đã đưa ra các kiến nghị nhằm góp phần
hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
1. Bộ luật dân sự 33/2005/QH11, ngày 14/6/2005
2.
Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13, ngày 24/11/2015
3.
Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2015 số 80/2015/QH13, gày 22/6/2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020)
4.
Luật Đất đai năm
2013 số 45/2013/QH13, ngày 29/11/2013
5.
Luật Đất đai năm
2024 số 31/2024/QH15, ngày 18/01/2024
6. Luật Giao thông đường bộ số 23/2008/QH12, ngày
13/11/2008
7.
Luật Nhà ở năm
2014 số 65/2014/QH13, ngày 25/11/2014
8.
Luật Nhà ở năm
2023 số 27/2023/QH15, ngày 27/11/2023
9.
Luật Thương mại số
36/2005/QH11, ngày 14/6/2005
10. Nghị định 68/2015/NĐ-CP ngày 18/8/2015 Quy định đăng ký quốc tịch và đăng
ký các quyền đối với tàu bay
11. Nghị định
171/2016/NĐ-CP ngày 27/12/2016 về đăng ký tàu biển
12. Nghị định số 99/2022/NĐ-CP ngày 30/11/2022 về đăng ký
biện pháp bảo đảm
13. Thông tư 15/2014/TT-BCA ngày 04/4/2014 quy định về đăng ký xe
14. Thông tư 24/2023/TT-BCA ngày 01/7/2023 quy định về cấp,
thu hồi, đăng ký biển số xe cơ giới
15. Nguyễn Thị Quế Anh, Khái luận về quyền chiếm hữu, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập
29, Số 2 (2013)
16. Nguyễn Ngọc Điện, Xây dựng lại chế định chiếm hữu bằng
chất liệu khoa học phù hợp, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 14(175) (2010)
17. Nguyễn Văn Điền, Quyền sở hữu và căn cứ xác lập quyền
sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật hiện hành, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, (19h00 18/3/2021), https://danchuphapluat.vn/quyen-so-huu-va-can-cu-xac-lap-quyen-so-huu-tai-san-theo-quy-dinh-cua-phap-luat-hien-hanh
18. Vũ Văn Đoàn, Bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao
dịch vô hiệu – bất cập và kiến nghị hoàn thiện, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 13(461) (2022)
19. Trương
Thanh Đức, Giấy tờ nào chứng minh quyền sở
hữu của bạn?, Báo điện tử Chính phủ Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, (16h57 08/01/2015), http://baochinhphu.vn/Lay-y-kien-nhan-dan-ve-du-thao-Bo-luat-dan-su-sua-doi/Giay-to-nao-chung-minh-quyen-so-huu-cua-ban/217851.vgp
20. Đoàn Thị Ngọc Hải, Hoàn thiện quy định pháp luật về
bảo lưu quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sựa năm 2015, Tạp chí Tòa án nhân
dân điện tử, (30/01/2023 8:29), https://tapchitoaan.vn/hoan-thien-quy-dinh-phap-luat-ve-bao-luu-quyen-so-huu-trong-bo-luat-dan-su-nam-20157950.html
21.Trịnh Thục Hiền,
Bàn về chế định bảo lưu quyền sở hữu, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 8 (2019)
22.Tưởng Duy Lợi, Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử (Tái bản lần thứ 5,
có sửa đổi bổ sung), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật (2019)
23.Lê Thị Luyến, Quyền chiếm hữu theo Bộ luật Dân sự năm 2015 và hướng
hoàn thiện, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (30/1/2023, 7:00PM), https://danchuphapluat.vn/quyen-chiem-huu-theo-bo-luat-dan-su-nam-2015-va-huong-hoan-thien
24.Dương Anh Sơn, Về
bản chất pháp lý của hợp đồng tặng cho tài sản, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật Số
10 (246), (2008)
25.Dương Anh Sơn, Bảo
lưu quyền sở hữu và hiệu lực đối kháng với người thứ ba,Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 2 (2018)
26.Trần Chí Thành, Hoàn thiện pháp luật về chiếm hữu tài sản ở Việt Nam,
Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, (11:13 27/6/2022), https://tapchitoaan.vn/public/index.php/hoan-thien-phap-luat-ve-chiem-huu-tai-san-o-viet-nam6629.html
27.Bành Quốc Tuấn, Nguyễn Hoàng Anh, Hoàn thiện quy định của pháp luật về
thời đi