Công ty tạm ngừng hoạt động kinh doanh quá lâu có bị xử lý không?
Khánh Huyền
Thứ năm, 09/01/2025 - 11:36
(PLPT) - Quy định pháp luật hiện hành về việc tạm ngừng kinh doanh là gì? Thời hạn tối đa để tạm ngừng kinh doanh là bao lâu? Nếu tạm ngừng hoạt động kinh doanh vượt quá thời gian quy định, công ty sẽ bị xử lý như thế nào?
Công ty tạm ngừng hoạt động kinh doanh quá lâu có bị xử lý không? (Ảnh minh họa)
Bạn đọc hỏi:
Tôi là Hoàng T.A., tôi thành lập công ty vào năm 2020, đến tháng 07 năm 2023 thì tôi phát hành thông báo tạm ngừng hoạt động kinh doanh. Từ đó đến nay tôi vẫn chưa hoạt động lại. Vậy mong Luật sư có thể tư vấn cho tôi được biết nếu tiếp tục không hoạt động thì công ty tôi có bị xử lý hay không?
Luật sư trả lời:
Luật sư Nguyễn Sương - Công ty Luật FDVN - Đoàn Luật sư TP Đà Nẵng tư vấn như sau:
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 206 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về tạm ngừng kinh doanh của doanh nghiệp như sau: “Doanh nghiệp phải thông báo bằng văn bản cho Cơ quan đăng ký kinh doanh chậm nhất là 03 ngày làm việc trước ngày tạm ngừng kinh doanh hoặc tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã thông báo.”
Mặt khác tại Khoản 1 Điều 66 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP có quy định:
“Trường hợp doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh tạm ngừng kinh doanh hoặc tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã thông báo, doanh nghiệp gửi thông báo đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh đặt trụ sở chậm nhất 03 ngày làm việc trước ngày tạm ngừng kinh doanh hoặc tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã thông báo.
Trường hợp doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh có nhu cầu tiếp tục tạm ngừng kinh doanh sau khi hết thời hạn đã thông báo thì phải thông báo cho Phòng Đăng ký kinh doanh chậm nhất 03 ngày làm việc trước ngày tiếp tục tạm ngừng kinh doanh. Thời hạn tạm ngừng kinh doanh của mỗi lần thông báo không được quá một năm.”
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì Doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh chậm nhất là 03 ngày làm việc trước ngày tạm ngừng kinh doanh, thời hạn tạm ngừng hoạt động kinh doanh của mỗi lần thông báo không được quá 01 năm.
Khi hết thời hạn thông báo mà vẫn tạm ngừng thì phải có thông báo gửi đến Phòng Đăng ký kinh doanh chậm nhất 03 ngày làm việc trước ngày tiếp tục tạm ngừng kinh doanh và doanh nghiệp không bị giới hạn số lần tạm ngừng kinh doanh, doanh nghiệp có thể tạm ngừng kinh doanh nhiều lần liên tiếp.
Công ty của bạn có thông báo tạm ngừng kinh doanh vào tháng 07 năm 2023 tính đến tháng 07 năm 2024 là tròn 01 năm, theo thông tin khách hàng cung cấp thì chưa rõ ngày nào công ty của bạn tạm ngừng kinh doanh.
Trong trường hợp công ty quá thời hạn 03 ngày làm việc để tiếp tục thông báo tạm ngừng kinh doanh lần 2 đến Phòng đăng ký kinh doanh thì doanh nghiệp có thể phải chịu các chế tài theo quy định của pháp luật.
Xử phạt hành vi vi phạm về thời hạn thông báo tạm ngừng hoạt động kinh doanh
Căn cứ vào Điều 10 Nghị định số 125/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính Phủ về xử phạt hành vi vi phạm về thời hạn thông báo tạm ngừng hoạt động kinh doanh như sau:
“1. Phạt cảnh cáo đối với hành vi đăng ký thuế; thông báo tạm ngừng hoạt động kinh doanh; thông báo tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã thông báo quá thời hạn quy định từ 01 ngày đến 10 ngày và có tình tiết giảm nhẹ.
2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
…
b) Thông báo tạm ngừng hoạt động kinh doanh quá thời hạn quy định, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này;
c) Không thông báo tạm ngừng hoạt động kinh doanh
.…”
Như vậy, trong trường hợp công ty của bạn tạm ngừng hoạt động kinh doanh 01 năm và hết thời hạn 01 năm vẫn tiếp tục tạm dừng kinh doanh nhưng không thông báo để tiếp tục gia hạn thời gian đăng ký kinh doanh thì có thể bị xử phạt hành chính đến 2.000.000 đồng. Do đó, doanh nghiệp cần phải tiến hành thủ tục để tạm ngừng kinh doanh lần 2 cho doanh nghiệp.
Độc giả còn vướng mắc có thể đóng góp ý kiến tại phần "Bình luận" phía dưới; liên hệ Đường dây nóng tư vấn pháp luật: 0899.515.999 hoặc gửi câu hỏi cho tòa soạn tại đây để được hỗ trợ.
Thể chế hóa chủ trương của Bộ Chính trị, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của một số nước, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội (QH) về Trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) tại Việt Nam hiện quy định 12 nhóm chính sách nhằm tạo khuôn khổ pháp lý thu hút đầu tư, thúc đẩy hoạt động kinh doanh trong TTTCQT trên các lĩnh vực, bảo đảm xây dựng và vận hành thành công Trung tâm trong bối cảnh đất nước đang tiến vào kỷ nguyên mới.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam được xây dựng nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng trong tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khi thực hiện thủ tục nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam.
Sáng 28/4, tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 44, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Sáng 18/4, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Phiên họp Chính phủ chuyên đề pháp luật lần thứ 2 trong tháng 4/2025, thảo luận nhiều nội dung quan trọng chuẩn bị trình Quốc hội.
Tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII diễn ra vào sáng nay (16/4), Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã truyền đạt Chuyên đề "Về sửa đổi hiến pháp và pháp luật; phương hướng bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026-2031".
Sáng 17/4, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị quán triệt Kết luận số 132 năm 2025 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 36 năm 2019 của Bộ Chính trị về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy.
Chiều 15/4, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về 4 dự án Luật: Luật Dẫn độ, Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, Luật Tương trợ tư pháp về dân sự, Luật Tương trợ tư pháp về hình sự.