Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) vì mục tiêu phát triển bền vững
Nguyễn Thi - Lê Thị Anh Đào
Chủ nhật, 21/09/2025 - 06:38
Nghe audio
0:00
(PLPT) - Bài viết nhận định, pháp luật Việt Nam hiện hành đã quy định tỷ lệ và quy cách tái chế bắt buộc nhưng các quy định này vẫn còn thiếu nhiều nội dung và chưa phù hợp với thực tiễn, làm cản trở hiệu quả. thực hiện EPR. Cuối cùng, bài viết đưa ra những đề xuất nhằm cải tổ một cách toàn diện pháp luật và thiết chế EPR ở Việt Nam theo hướng quy định chi tiết về: các sản phẩm, bao bì thuộc diện EPR, cách thức thực hiện EPR theo nhóm sản phẩm, tinh gọn tổ chức bộ máy quản lý EPR.
Tóm tắt: Với mục tiêu phát triển kinh tế tuần hoàn và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã chính thức triển khai EPR được 5 năm nhưng chưa hiệu quả. Trong bối cảnh đó, bài viết này đánh giá thực trạng pháp luật về EPR của Việt Nam, bao gồm các quy định về trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì; trách nhiệm thu gom, xử lý chất thải và; cơ chế quản lý, giám sát, vận hành EPR quốc gia. Bài viết nhận định, pháp luật Việt Nam hiện hành đã quy định tỷ lệ và quy cách tái chế bắt buộc nhưng các quy định này vẫn còn thiếu nhiều nội dung và chưa phù hợp với thực tiễn, làm cản trở hiệu quả. thực hiện EPR. Cuối cùng, bài viết đưa ra những đề xuất nhằm cải tổ một cách toàn diện pháp luật và thiết chế EPR ở Việt Nam theo hướng quy định chi tiết về: các sản phẩm, bao bì thuộc diện EPR, cách thức thực hiện EPR theo nhóm sản phẩm, tinh gọn tổ chức bộ máy quản lý EPR.
Từ khoá: bảo vệ môi trường, chất thải rắn, phát triển bền vững, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), thu gom và xử lý chất thải
Abstract: To develop a circular economy and international integration, Vietnam has officially implemented EPR for 5 years, but has not been effective. In that context, this article assesses Vietnam's regulations on EPR, including regulations on product and packaging recycling responsibilities; waste collection and treatment responsibilities; and national EPR management, monitoring, and operation mechanisms. The article states that Vietnam's current regulations have stipulated mandatory recycling rates and specifications; however, these regulations still lack many contents and are not suitable for practical implementation, which hinders the effectiveness of EPR implementation. Finally, the article makes recommendations to comprehensively reform Vietnam's EPR regulations and institutions in the direction of detailed regulations on: products and packaging subject to EPR, methods of implementing EPR by product group, and streamlining the EPR management apparatus.
Trong bối cảnh phát triển bền vững trở thành mục tiêu thiên niên kỷ, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) đã trở nên thiết yếu đối với quản lý chất thải bền vững bởi vì EPR yêu cầu các nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm về toàn bộ vòng đời của sản phẩm, từ sản xuất đến thu gom bao bì và xử lý chất thải[1]. Theo cách thức truyền thống về quản lý chất thải, chính phủ gánh vác phần lớn trách nhiệm thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt bao gồm các sản phẩm, bao bì bị thải bỏ. Thực hiện EPR thì nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm chính trong quản lý sản phẩm, bao bì này. Do đó, EPR khuyến khích nhà sản xuất thiết kế sản phẩm thân thiện với môi trường, sản xuất sạch hơn và xử lý chất thải bền vững bằng cách đưa chi phí tái chế vào giá sản phẩm[2].
EPR bao gồm các các biện pháp pháp lý và kỹ thuật để triển khai như yêu cầu thu hồi sản phẩm (take-back),đặt cọc hoàn trả (Deposit-refund), thuế nguyên liệu (Material taxes), phí xử lý trả trước (Advanced Disposal Fees - ADF) và trợ cấp để khuyến khích giảm chất thải và giảm tác động đến môi trường[3]. Cơ chế thực hiện EPR cho phép các nhà sản xuất trực tiếp thực hiện trách nhiệm này hoặc thông qua bên thứ ba (bên được uỷ quyền) để thực hiện trách nhiệm. Trên thế giới, bên thứ ba làm trung gian thực hiện EPR thường được gọi là tổ chức trách nhiệm của nhà sản xuất (PRO).
EPR là công cụ hiệu quả để giảm thiểu chất thải và ô nhiễm, giúp đạt được nhanh hơn các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu[4] trong bối cảnh nguồn tài nguyên cạn kiệt và lượng chất thải ngày càng tăng, đặc biệt là áp lực giải quyết ô nhiễm nhựa và rác thải điện tử. Bằng cách thúc đẩy các chương trình tái chế và tái sử dụng, EPR hỗ trợ nền kinh tế tuần hoàn và giảm thiểu tác hại đến môi trường. Do đó, từ hệ thống EPR đầu tiên được triển khai tại Đức vào đầu những nhăm 1990, đến nay 63 quốc gia (tương đương với 32% thế giới) ở tất cả các châu lục (trừ Nam Cực) đã triển khai một số hình thức EPR liên quan đến quản lý vòng đời bao bì[5]. Tuy nhiên, các quốc gia lại rất khác nhau về các yêu cầu tuân thủ EPR. Ví dụ, các quy định EPR của Liên minh Châu Âu (EU) áp đặt các mục tiêu tái chế nghiêm ngặt đối với bao bì và thiết bị điện tử, yêu cầu báo cáo bắt buộc và biện pháp xử phạt đối với hành vi không tuân thủ. Ngược lại, các quốc gia như Brazil và Ấn Độ có quy định về EPR ít nghiêm ngặt hơn và thay đổi tùy theo luật pháp cấp tiểu bang[6]. Những khác biệt như vậy có thể cản trở nền kinh tế tuần hoàn và thu hút đầu tư, bởi vì nó dẫn đến sự khác biệt về chi phí giữa các công ty trong việc tuân thủ EPR. Ở các quốc gia không yêu cầu EPR bắt buộc thì các công ty có lợi thế trong chi phí sản xuất do họ không phải chi trả cho việc thực hiện EPR. Vì vậy, các công ty đa quốc gia có xu hướng không đầu tư ở các quốc gia yêu cầu EPR bắt buộc. Mặt khác, công ty đa quốc gia có thể phải điều chỉnh các chiến lược quản lý chất thải của mình để đáp ứng các quy định khác nhau tại mỗi quốc gia, trong khi phải tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên và giảm thiểu rủi ro pháp lý khi đầu tư và cung cấp sản phẩm ở nhiều quốc gia. Do đó, các quốc gia, bao gồm Việt Nam, đang nỗ lực hài hòa hóa các tiêu chuẩn và thủ tục thực hiện EPR để đơn giản hóa việc tuân thủ EPR cho các công ty đa quốc gia.
Trong bối cảnh đó, sự chuyển dịch toàn cầu sang lệnh hạn chế và giảm thiểu chất thải nhựa đang thúc đẩy những thay đổi trong pháp luật về EPR. Nhựa là sản phẩm và cũng là bao bì có khả năng tái chế cao, trong khi nó có thể tồn tại và gây ra những hệ quả lâu dài về môi trường nếu không được thu gom và xử lý. Yêu cầu của các chính phủ về hạn chế nhựa dùng một lần đã dẫn tới Hội nghị đàm phán liên chính phủ để soạn thảo một thoả thuận ràng buộc pháp lý quốc tế về ô nhiễm nhựa (hiệp ước toàn cầu về ô nhiễm nhựa)[7]. Chương trình Môi trường UN đã thông qua Báo cáo Tích hợp EPR vào hiệp ước toàn cầu về ô nhiễm nhựa,[8]. EPR đã trở thành trọng tâm trong các cuộc thảo luận về hiệp ước toàn cầu này. Sau phiên đàm phán thứ năm vào tháng 12 năm 2024 thì EPR đã trở thành một cam kết cố định trong dự thảo hiệp ước. Các quốc gia đã thống nhất về việc áp dụng EPR nhưng mức độ áp dụng (tự nguyện hay bắt buộc) sẽ được các quốc gia tiếp tục thảo luận[9].
Mặt khác, trong tương lai, pháp luật của các quốc gia về EPR sẽ có sự thay đổi đáng kể để ứng phó với biến đổi khí hậu và các yêu cầu cấp thiết của phát triển bền vững. Các thay đổi này có thể theo hướng kết hợp thực hiện EPR với các mục tiêu môi trường khác, bao gồm mục tiêu tái chế chặt chẽ hơn,áp dụng các biện pháp thúc đẩy sản xuất bền vững và ưu đãi cho các hoạt động thân thiện với môi trường….Ngoài ra, EPR cũng có thể mở rộng sang các danh mục sản phẩm mới vốn ít được quản lý hơn như hàng dệt may, ô tô và điện tử[10]... Khi nhu cầu của người tiêu dùng về tính bền vững tăng lên, các cơ quan quản lý có thể đưa ra các yêu cầu EPR cụ thể cho các lĩnh vực này. Ví dụ, ngành thời trang có thể phải đối mặt với các yêu cầu bắt buộc về quản lý chất thải dệt may, trong khi ngành ô tô có thể được yêu cầu thực hiện các chương trình thu hồi đối với các phương tiện hết vòng đời. Sự mở rộng này phản ánh sự công nhận về nhu cầu giải quyết chất thải trên tất cả các lĩnh vực và khuyến khích đổi mới trong thiết kế sản phẩm để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tái chế.
Bối cảnh trên đặt ra những thách thức đối với Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật về EPR để thu hút đầu tư, phát triển bền vững[11] và để hài hoà hoá pháp luật về EPR. Trước năm 2020, nhà sản xuất/nhập khẩu ở Việt Nam không có trách nhiệm bắt buộc phải thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ, nghĩa là họ chỉ tự nguyện và tự thiết lập các điểm thu gom và không phải tuân theo tỷ lệ tái chế, quy cách tái chế bắt buộc[12]. Do vậy, trong hơn 15 năm thực hiện các quy định về thu hồi sản phẩm thải bỏ, chưa có sản phẩm thải bỏ nào được thu hồi. Thực trạng này, một mặt do sự tự nguyện của cơ chế thu hồi sản phẩm thải bỏ, mặt khác cũng do các nhà sản xuất đặt ra các tiêu chuẩn cao khi tiếp nhận các sản phẩm thải bỏ[13]. Chương trình EPR mới chính thức triển khai ở Việt Nam từ năm 2020[14] và gần như chưa có nghiên cứu và đánh giá toàn diện pháp luật hiện hành về vấn đề này. Hơn nữa, ngày 16 tháng 8 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số1407/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án Việt Nam chủ động chuẩn bị và tham gia xây dựng Thoả thuận toàn cầu về ô nhiễm nhựa đại dương. Trước bối cảnh này, yêu cầu đặt ra với Việt Nam là tiếp tục chuẩn bị cho đàm phán hiệp ước toàn cầu, đồng thời rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về EPR để phù hợp với xu hướng chung trên thế giới. Theo kế hoạch, Việt Nam sẽ tiếp tục ban hành các văn bản để thực hiện EPR[15]. Vì vậy, thời điểm này rất cần những nghiên cứu rà soát pháp luật Việt Nam hiện hành về EPR để trả lời câu hỏi: những quy định nào trong pháp luật Việt Nam về EPR đang gây khó khăn cho việc thực hiện? Cách thức và hướng sửa đổi, bổ sung như thế nào để những quy định đó phù hợp với điều kiện trong nước và xu hướng chung trên thế giới?
Bằng phương pháp tổng hợp, phân tích và so sánh, bài viết này đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về EPR, bao gồm các quy định về trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì; trách nhiệm thu gom, xử lý chất thải và; cơ chế quản lý, giám sát, vận hành EPR quốc gia. Bài viết nhận định, pháp luật Việt Nam hiện hành đã quy định tỷ lệ và quy cách tái chế bắt buộc nhưng các quy định này vẫn còn thiếu nhiều nội dung và chưa có tính hệ thống, do vậy, khi áp dụng sẽ có nhiều bất cập. Sau đó, bài viết đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, bao gồm đề xuất cụ thể về xác định nhà sản xuất, xác định các sản phẩm, bao bì thuộc diện phải thu gom, xử lý, tái chế; vai trò của hệ thống thu gom, xử lý, tái chế chất thải…
2. Khung pháp luật Việt Nam hiện hành về EPR
Khung pháp luật Việt Nam hiện hành về EPR đã đặt ra các chỉ tiêu cụ thể về thu gom và tái chế sản phẩm, bao bì như sau:
Văn bản
Chỉ tiêu
Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045[16]
Loại bỏ 100% nhựa dùng 1 lần ở các vùng ven biển vào năm 2030
Khung hành động ASEAN về rác thải đại dương (2019)[17]
Thực hiện các nỗ lực chung nhằm giảm 75% rác thải nhựa đại dương vào năm 2030
Luật Bảo vệ Môi trường (2020)[18]
Yêu cầu phân loại chất thải tại nguồn, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải nhựa, phòng chống ô nhiễm rác thải nhựa đại dương[19]
Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu COP 26 (2021)[20]
Phát thải carbon ròng bằng 0 vào năm 2050 thông qua các hoạt động xử lý chất thải và tái chế bền vững
Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030 (được phê duyệt tại Quyết định số 1746/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ[21])
Giảm 50% lượng rác thải đại dương vào năm 2025 và giảm 75% vào căm 2030; Loại bỏ 100% nhựa dùng 1 lần ở các vùng ven biển vào năm 2030
Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 (được phê duyệt tại Quyết định số 2149/QĐ-TTG ngày 17/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ[22] được điều chỉnh tại Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ[23])
Đến 2025: 90% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tại các đô thị được thu gom và xử lý đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường Sử dụng 100% túi nilon thân thiện với môi trường tại các Trung tâm thương mại, siêu thị phục vụ cho mục đích sinh hoạt thay thế cho túi nilon khó phân hủy
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 (được phê duyệt tại Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021của Thủ tướng Chính phủ[24])
Tỷ lệ thu gom rác thải đạt 85% vào năm 2025 và đạt 90% vào năm 2030 tại các khu vực đô thị
Việc đưa EPR vào Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã tạo ra cơ sở pháp lý chính thức, buộc nhà sản xuất và nhập khẩu chịu trách nhiệm quản lý chất thải từ sản phẩm, bao bì của họ sau tiêu dùng. Đểthực hiện các chỉ tiêu trên, phạm vi áp dụng EPR không chỉ là với pin, ắc quy, điện - điện tử, phương tiện giao thông, dầu nhớt, săm lốp mà còn mở rộng sang các dạng sản phẩm có sử dụng bao bì thực phẩm. Điều này cho thấy sự chặt chẽ của pháp luật Việt Nam về quản lý chất thải từ nguồn và phù hợp với nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền -poluter pay” vốn đã được thừa nhận trong luật quốc tế[25]. Yêu cầu doanh nghiệp bắt buộc phải thu gom, tái chế sẽ giúp giảm đáng kể lượng chất thải (như nhựa, pin, ắc quy…) đang không được xử lý đúng cách ở Việt Nam. Mục tiêu của EPR là chuyển trách nhiệm thu gom xử lý các loại sản phẩm, bao bì sau sử dụng hiện đang do Nhà nước chi trả, sang khu vực tư nhân. Do đó, EPR thúc đẩy nhà sản xuất thay đổi thiết kế đối với sản phẩm theo hướng thân thiện với môi trường và sản xuất sạch hơn để giảm thiểu chi phí tuân thủ EPR, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ mô hình kinh tế tuần hoàn[26].
Các hướng dẫn chi tiết về thực hiện EPR được quy định tại Nghị định 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2022 về một số điều của Luật BVMT (sau đây gọi tắt là Nghị định 08/2022/NĐ-CP). Nghị định này đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 05/2025/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2025 (sau đây gọi tắt là Nghị định 05/2025/NĐ-CP) và Thông tư 02/2022/QĐ-TT ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết thi hành một số điểu của Luật BVMT (2020). Thông tư này cũng đã được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 07/2025/TT-BTNMT ngày 28 tháng 02 năm 2025. Các văn bản nêu trên đã quy định tỷ lệ tái chế, quy cách tái chế bắt buộc, định mức chi phí tái chế Fs và cơ chế triển khai EPR. Theo các văn bản trên, nhà sản xuất, nhập khẩu có hai loại trách nhiệm: (i) trách nhiệm tái chế các sản phẩm, bao bì có giá trị tái chế theo tỷ lệ tái chế bắt buộc và quy cách tái chế bắt buộc, bằng cách tự tổ chức tái chế hoặc đóng tiền vào Quỹ BVMT Việt Nam[27] và; (ii) trách nhiệm xử lý chất thải đối với các sản phẩm, bao bì chứa chất độc hại, khó có khả năng tái chế hoặc gây khó khăn cho thu gom, xử lý, bằng cách đóng tiền vào Quỹ BVMT Việt Nam[28].
3. Đánh giá nội dung pháp luật Việt Nam về EPR
3.1 Trách nhiệm tái chế sản phẩm, bao bì
Các sản phẩm, bao bì thuộc diện phải thu gom, tái chế được quy định tại Phụ lục XXII Nghị định 08/2022/NĐ-CP (được sửa đổi tại Nghị định số 05/2025/NĐ-CP), bao gồm 6 nhóm là: (1) bao bì, (2) ắc quy và pin, (3) dầu nhớt, (4) săm, lốp, (5) điện, điện tử, (6) phương tiện giao thông. Phụ lục này cũng đã quy định về tỷ lệ tái chế áp dụng đối với các sản phẩm trong mỗi nhóm là khác nhau, căn cứ vào vòng đời của sản phẩm, bao bì[29]. Vòng đời sản phẩm bao bì càng dài thì tỷ lệ tái chế càng thấp, ví dụ bao bì nhựa PET có tỷ lệ tái chế bắt buộc là 22%, trong khi đó, xe ô tô chở người có tỷ lệ tái chế bắt buộc là 0,5%[30]. Pháp luật Việt Nam quy định tỷ lệ tái chế khác nhau đối với sản phẩm, bao bì nhưng chính sách tái chế đối với chúng là như nhau. Quy định này nhằm bảo đảm cho tính khả thi của việc thu gom, tài chế nhưng lại không tương thích với đặc thù của các sản phẩm, bao bì bởi vì chúng cómức độ và khả năng thu gom, tái chế rất khác nhau. Điển hình như các sản phẩm có thời gian sử dụng dài, sau quá trình sử dụng vẫn có giá trị cao nên rất khó thu gom để tái chế vì liên quan đến sở hữu (ví dụ như phương tiện giao thông, thiết bị điện, điện tử…) nhưng vẫn áp dụng chính sách EPR tương đồng với nhóm thải bỏ ngay sau khi tiêu dùng, ví dụ như bao bì. Ngoài ra, các loại bao bì nhựa mềm (như vỏ kẹo) vẫn thuộc diện có phải thu gom, tái chế nhưng thực tế nhà sản xuất rất khó thu gom chúng. Trong khi đó, các bao bì được sử dụng để vận chuyển thường có khả năng tái sử dụng nhưng pháp luật hiện nay chưa quy địnhrõ ràng để xác định trách nhiệm gom và tái chế, mặc dù loại bao bì này phát sinh rất lớn và tăng rất nhanh. Ví dụ, pháp luật chưa quy định phương pháp thích hợp để thúc đẩy việc tái sử dụng thùng nước trên 17 lít của Lavie, các chai thuỷ tinh của các hãng nước đóng chai… Nhiều sản phẩm (như pin, ắc quy, bóng đèn huỳnh quang… ) không thể tái chế với số lượng lớn trong giai đoạn hiện nay nhưng vẫn yêu cầu phải tái chế; một số sản phẩm mới xuất hiện trên thị trường trong thời gian gần đây, có thời gian sử dụng dài (như Pin lithium cho phương tiện giao thông, tấm quang năng…) nên không thể thu gom để tái chế đáp ứng tỷ lệ tái chế bắt buộc; nhiều sản phẩm không thể tái chế ví dụ, bao bì xi măng chỉ có thể đưa vào làm nguyên liệu sản xuất xi măng. Do khó thu gom và tái chế những sản phẩm trên nên nhà sản xuất/nhập khẩu buộc phải lựa chọn đóng tiền để thực hiện EPR, mặc dù đây là những sản phẩm, bao bì thuộc diện phải thu gom, tái chế. Quy định không phù hợp như trên dẫn đến việc thực hiện EPR tại Việt Nam còn khó khăn và không hiệu quả. Một số đại diện của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp cũng quan ngại về việc một số sản phẩm, bao bì đã được thị trường thu gom, tái chế hiệu quả thì EPR đặt ra trong trường hợp này như thế nào[31]. Tuy nhiên, EPR không đơn thuần chỉ là công cụ thúc đẩy thu gom, tái chế (làm gia tăng lượng sản phẩm, bao bì sau thải bỏ) mà còn là công cụ thúc đẩy sản xuất sạch hơn, sản xuất sản phẩm thân thiện với môi trường. Vì vậy, EPR có thể được thực hiện với cả các sản phẩm, bao bì đã được thị trường thu gom, tái chế. Lúc này EPR có vai trò làm giá tăng tỷ lệ tái chế, nâng cao hiệu quả tái chế và thúc đẩy sản xuất thân thiện với môi trường[32].
Về tỷ lệ tái chế, theo Điều 78 Nghị định 08/2022/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 05/2025/NĐ-CP), nhà sản xuất/ nhập khẩu có trách nhiệm tái chế các sản phẩm, bao bì của mà họ đưa ra thị trường sau tiêu dùng theo tỷ lệ tái chế bắt buộc và quy cách tái chế bắt buộc[33]. Mặc dù quy định tỷ lệ tái chế bắt buộc sẽ được điều chỉnh sau mỗi ba năm[34] nhưng Việt Nam chưa công bố biên độ điều chỉnh. Điều này gây ra sự không rõ ràng trong chính sách, thiếu định hướng trong quản lý và làm cho các doanh nghiệp không thể chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh cũng như thực hiện trách nhiệm EPR trong thời gian chiến lược từ 5 năm đến 10 năm. Để tránh điều này, Philippin đặt ra việc gia tăng tỷ lệ là 10% mỗi năm từ năm 2023 cho đến khi đạt được 80% thì giữ nguyên tỷ lệ này[35]. Đây là cách tiếp cận rất thực tiễn, giúp cho nhà nước định hình được các chính sách để triển khai qua các giai đoạn, đồng thời giúp cho doanh nghiệp chủ động thực hiện trách nhiệm của mình, chủ động trong việc xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh- một yếu tố rất quan trọng để doanh nghiệp phát triển.
Về hình thức thực hiện trách nhiệm EPR, nhà sản xuất/nhập khẩu được lựa chọn nhiều hình thức để thực hiện EPR[36], bao gồm: (i) tự tổ chức tái chế, tức là nhà sản xuất/nhập khẩu có đủ điều kiện của nhà tái chế thì có thể tự mình thu gom, tái chế sản phẩm, bao bì[37] hoặc, (ii) thuê đơn vị tái chế để tái chế hoặc, (iii) ủy quyền cho tổ chức trung gian để tổ chức thực hiện tái chế (bên được uỷ quyền- PRO) hoặc, (iv) kết hợp các cách thức nêu trên. Trường hợp không tổ chức tái chế thì nhà sản xuất, nhập khẩu có thể đóng tiền vào Quỹ BVMT Việt Nam theo định mức chi phí tái chế (Fs) đối với lượng vật liệu (V) theo tỷ lệ tái chế bắt buộc (R) để hoàn thành trách nhiệm tái chế của mình. Việc quy định nhiều cách thức thực hiện trách nhiệm tái chế như trên là phù hợp với thực tiễn, bởi vì lượng thu gom, tái chế ở Việt Nam còn thấp và chủ yếu được thực hiện qua hệ thống thu gom, tái chế phi chính thức.
Tuy nhiên, việc cho phép nhà sản xuất thuê đơn vị tái chế để thực hiện trách nhiệm tái chế cũng xảy ra nhiều khó khăn trong thực hiện, nhất là việc truy xuất nguồn gốc của nguyên liệu đầu vào. Bởi vì hệ thống thu gom hiện nay chủ yếu dựa vào hoạt động thu gom cá thể (hệ thống đồng nát) nên không có chứng từ, hóa đơn. Ví dụ, 30% rác thải nhựa tái chế ở Việt Nam được thu gom qua kênh phi chính thức[38]. Ngoài ra, việc hạch toán sản lượng tái chế hiện có của các nhà tái chế để tính vào trách nhiệm của nhà sản xuất cũng làm giảm đi hiệu lực của chính sách EPR[39]. Cũng chính vì lý do này, nếu đơn vị PRO thiết lập hệ thống thu gom, chuyển giao nguyên liệu và giám sát nhà tái chế thì chi phí sẽ không cạnh tranh được so với mức giá mà nhà tái chế đưa ra để thực hiện trách nhiệm cho nhà sản xuất, nhập khẩu. Như vậy, quy định cho phép nhà sản xuất/nhập khẩu thuê đơn vị tái chế sẽ không thúc đẩy các PRO tổ chức thu gom. Việc các PRO có xu hướng trở thành đơn vị trung gian sẽ làm giảm đi hiệu quả và vai trò của PRO[40]. Thực hiện EPR thông qua PRO là mô hình tối ưu vì sẽ tiết kiệm được tổng chi phí quản lý khi PRO tổ chức thực hiện EPR cho nhiều nhà sản xuất, nhập khẩu. PRO thực hiện việc thu gom, tái chế sẽ bảo đảm tính chuyên nghiệp và hiện đại do được chuyên môn hoá và phân công hoá cao độ. Các mô hình EPR thành công và phổ biến ở Châu Âu và Hàn Quốc đều yêu cầu nhà sản xuất thực hiện EPR thông qua các PRO để không chỉ tối ưu được chi phí và giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ dàng tuân thủ EPR[41] mà còn là công cụ để Nhà nước kiểm soát thực hiện EPR một cách thống nhất và hiệu quả[42].
Ngoài ra việc cho phép nhà sản xuất/nhập khẩu được lựa chọn nhiều cách thức để hoàn thành trách nhiệm tái chế mà không đặt ra các điều kiện cụ thể sẽ dẫn đến sự manh mún trong việc thực hiện tái chế, không tối ưu hoá được hiệu quả của EPR. Sự manh mún này thể hiện rõ qua thực tế 5 năm thực hiện EPR. Các doanh nghiệp ở Việt Nam đã chủ động thuê nhà tái chế để thực hiện trách nhiệm của mình mà không uỷ quyền cho bên thứ ba đứng ra tổ chức thực hiện EPR nên hiệu quả thực hiện EPR thấp. Các doanh nghiệp chỉ mạnh ai người đó làm và chỉ thu gom được các vật liệu hiện nay đang thu gom (như nhựa PET, nhôm) mà không thu gom được nhiều rác thải khác như pin, ắc quy, phương tiện giao thông, bóng đèn[43]…. Ngoài ra, việc thu gom không thông qua PRO cũng gây nhiều khó khăn trong việc truy xuất nguồn gốc của nguyên liệu đầu vào[44], mặc dù đã có quy định về việc không được tái chế phế liệu nhập khẩu để tính vào trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu[45].
Việc thực hiện EPR không thông qua PRO sẽ làm giảm hiệu quả kiểm soát của nhà nước đối vớihệ thống EPR, từ đó dễ gây ra sự không trung thực trong việc báo cáo thực hiện trách nhiệm tái chế. Thực trạng này cũng đã diễn ra trong quá trình thực hiện EPR tại Đài Loan từ những năm 1994. Đài Loan đã thay đổi bằng cách chuyển từ mô hình EPR do khối tư nhân vận hành sang nhà nước vận hành, trong đó, Quỹ tái chế với vai trò là PRO do Nhà nước quản lý[46]. Trong các hệ thống EPR phổ biếntrên thế giới, PRO kiểm soát việc thu gom và tái chế nguyên liệu thông qua các hệ thống chứng từ riêng biệt đồng thời chuyển giao vật liệu cho đơn vị tái chế, từ đó sẽ tách bạch với nguyên liệu sản xuất khác do nhà tái chế tự thu gom (không được tính vào phạm vi EPR). Vì vậy, nếu hệ thống EPR được vận hành với trung tâm là PRO thì sẽ giúp kiểm soát dữ liệu hiệu quả thông qua việc kiểm soát dòng vật liệu thu gom và được đem đi tái chế. Hơn nữa, PRO sẽ phải tổ chức kiểm tra, giám sát thực tế đơn vị tái chế trong việc tái chế vật liệu đã được triển khai. Như vậy, nhà nước sẽ có đầy đủ cơ sở để kiểm soát, bảo đảm tính trung trực khi triển khai EPR của nhà sản xuất/nhập khẩu. Do đó, hệ thống EPR cần được thiết kế để lấy PRO làm trung tâm sao cho các dòng vật liệu đều được PRO kiểm soát bằng cách tổ chức hoạt động thu gom, tái chế; quản trị dữ liệu và quản lý vận hành hệ thống, bảo đảm tối ưu hoá được chi phí thực hiện trách nhiệm EPR của nhà sản xuất và bảo đảm hiệu quả trong quản lý. Ngược lại, nếu cho phép nhà sản xuất được lựa chọn thêm hình thức thuê đơn vị tái chế thì sẽ làm vô hiệu hoá vai trò của PRO, biến PRO trở thành đơn vị trung gian[47].
3.2 Trách nhiệm thu gom, xử lý chất thải
Trách nhiệm thu gom, xử lý chất thải yêu cầu nhà sản xuất phải đóng góp tài chính vào Quỹ BVMT Việt Nam theo định mức cụ thể đối với từng loại sản phẩm, bao bì. Trách nhiệm này đã được nhà sản xuất thực hiện từ năm 2022, theo quy định tại Phụ lục XXIII Nghị định 08/2022/NĐ-CP (được sửa đổi tại Nghị định số 05/2025/NĐ-CP). Theo công bố của Quỹ BVMT Việt Nam thì năm 2023 thu được là hơn 400 tỷ đồng, với khoảng hơn 50 nhà sản xuất đóng tiền thu gom, xử lý chất thải[48]. Số tiền này ít hơn rất nhiều so với tính toán dựa trên số lượng nhà sản xuất thuộc đối tượng phải thực hiện EPR ở Việt Nam[49]. Cho đến thời điểm hiện nay, nhà sản xuất chưa phản ánh về sự bất cập của định mức đóng góp. Điều này cho thấy, hoặc là nhà sản xuất sẵn sàng thực hiện trách nhiệm của mình hoặc họ thấy có thể trốn được trách nhiệm nên không có phản ánh, vì rõ ràng là số tiền thu được từ số lượng doanh nghiệp còn quá ít so với thực tế. Do đó, nếu không có biện pháp để buộc các nhà sản xuất/nhập khẩu thực hiện đầy đủ trách nhiệm này thì sẽ tạo ra sự không công bằng trong việc thực thi trách nhiệm của doanh nghiệp. Điều này dẫn tới sự phản ứng của các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện trách nhiệm tái chế, thậm chí họ không tin tưởng vào chính sách và không thực hiện EPR vì không thực hiện cũng không bị xử lý.
Bên cạnh đó, Phụ lục XXIII của Nghị định số 08/2022/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 05/2025/NĐ-CP), chưa quy định rõ về một số sản phẩm như nhóm vật liệu xây dựng, nội thất, phụ kiện…. Điều này sẽ gây ra khó khăn trong việc xác định loại sản phẩm doanh nghiệp phải thực hiện đóng góp tài chính để thực hiện trách nhiệm đối với sản phẩm, Ngoài ra, mức đóng góp tài chính đối với sản phẩm có thành phần nhựa đang đánh đồng mức 1.500 đồng/kg là chưa phù hợp. Một số sản phẩm có thời gian sử dụng dài, sử dụng các loại nhựa giá trị cao, thành phần nhựa trong sản phẩm cũng như khối lượng sản phẩm lớn khi nhân với đơn giá 1.500 đồng/kg sẽ chiếm tỷ trọng rất lớn trong giá thành sản phẩm. Trong khi các sản phẩm có khối lượng nhẹ, sử dụng các loại nhựa có giá trị thấp (như đồ nhựa dùng một lần, túi nilon khó phân hủy sinh học…) thì mức đóng góp 1.500 đồng/kg như hiện nay là rất thấp. Quy định như vậy sẽ không phát huy tác dụng điều chỉnh hành vi của nhà sản xuất/nhập khẩu và người tiêu dùng. Ngoài ra, một số sản phẩm thuộc diện phải thu gom để xử lý (như pin ắc quy, đồ chơi, sản phẩm nhựa dùng một lần) đã được các doanh nghiệp thu gom, tái chế từ năm 2016 thông qua Chương trình Việt Nam Tái chế thu gom các pin ắc quy và chất thải điện được triển khai. Khi quy định về EPR có hiệu lực thì buộc nhà sản xuất các sản phẩm này phải vào đóng góp tài chính vào Quỹ BVMT Việt Nam[50] nên các chương trình thu gom pin, ắc quy đã bị dừng lại[51]. Như vậy, vô hình chung, chính sách EPR về trách nhiệm thu gom, xử lý không những không khuyến khích việc thu gom, tái chế pin ắc quy và chất thải điện, mà còn triệt tiêu nỗ lực của doanh nghiệp trong việc thu gom, tái chế những sản phẩm nguy hại nhưng khó tái chế.
3.3. Cơ chế quản lý, giám sát, vận hành EPR quốc gia
Bộ phận cấu thành quan trọng của bất kỳ hệ thống EPR nào là thông tin, dữ liệu về EPR, bao gồm các thông tin dữ liệu đăng ký, báo cáo thực hiện trách nhiệm EPR, các thông tin và hoạt động thu gom, tái chế; các thông tin về hỗ trợ tái chế …Yêu cầu đặt ra là hệ thống thông tin phải đảm bảo đủ công cụ, có thể triển khai hiệu quả việc giám sát thực hiện EPR và giám sát việc sử dụng tiền hỗ trợ cho các hoạt động thu gom, xử lý, tái chế đúng mục đích, đúng quy định, công khai, minh bạch[52]. Theo quan điểm của Phó Chủ tịch Hiệp hội tái chế Việt Nam, hệ thống thông tin cũng yêu cầu “quy trình phải được số hóa ngay từ đầu, từ hồ sơ đăng ký, xét duyệt cho tới hoạt động tái chế, giải ngân và kiểm tra, giám sát – tất cả cần được công khai trên Cổng thông tin điện tử. Việc này không chỉ giúp kiểm soát tốt hơn mà còn tạo niềm tin cho doanh nghiệp rằng nghĩa vụ họ thực hiện được giám sát công bằng và hiệu quả”[53]. Tuy vậy, hệ thống thông tin EPR của Việt Nam hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc kê khai, đăng ký và báo cáo thực hiện trách nhiệm. Việt Nam chưa có các công cụ thiết yếu để nắm bắt các nhà sản xuất phải thực hiện EPR một cách chủ động. Thực tế này là dohệ thống EPR chưa liên thông, tích hợp với hệ thống thông tin doanh nghiệp mà các Bộ khác đang quản lý, đặc biệt là các thông tin về đăng ký kinh doanh, thông tin về thuế và hải quan của doanh nghiệp. Trong thiết kế hệ thống EPR hiện nay, PRO chưa có vai trò trong việc xây dựng và quản trị dữ liệu. PRO hiện nay chỉ là đơn vị trung gian và việc lập báo cáo của PRO được thực hiện như nhà sản xuất và đơn vị tái chế. Nếu còn tồn tại hình thức thuê đơn vị tái chế thì PRO sẽ không được doanh nghiệp lựa chọn, do đó, việc quản trị dữ liệu sẽ bị xé lẻ giữa nhà sản xuất và đơn vị tái chế. Ở các hệ thống EPR hiệu quả trên thế giới thì PRO phải là đơn vị phát triển dữ liệu thu gom, tái chế dựa trên lượng sản phẩm, bao bì thu gom được và chuyển giao cho đơn vị tái chế[54]. Đây là những thông tin quan trọng để đối chiếu với các thông tin của các nhà sản xuất nhằm xác định đầy đủ, chính xác trách nhiệm của các nhà sản xuất.
Để giúp Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) vận hành và quản lý hệ thống EPR, Việt Nam đã thành lập Hội đồng EPR quốc gia và Văn phòng giúp việc Hội đồng EPR quốc gia (Văn phòng EPR)[55]. Tuy nhiên, cơ chế hoạt động của hai thiết chế này còn chưa rõ ràng do chưa xác định được địa vị pháp lý cũng như cơ chế tài chính. Hội đồng EPR quốc gia hiện nay gồm các thành viên là đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường (trước đây), Bộ Tài chính, Bộ Công Thương; đại diện các nhà sản xuất, nhập khẩu; đại diện đơn vị tái chế, xử lý chất thải và đại diện tổ chức xã hội, môi trường có liên quan[56]. Thực tiễn hoạt động của Hội đồng cho thấy, các thành viên của Hội đồng đều là cán bộ cấp Vụ của các Bộ và đại diện ban lãnh đạo của các Hiệp hội; số lượng không đồng đều, chưa thể hiện được tính đại diện cho đầy đủ các dòng sản phẩm[57]. Về trách nhiệm, thành viên Hội đồng EPR tham gia với vai trò là tư vấn, không chịu trách nhiệm về các quyết định của Hội đồng. Do vậy, các cuộc họp của Hội đồng EPR chưa đem lại kết quả bảo đảm hiệu quả hoạt động của hệ thống EPR, thậm chí làm chậm lại quá trình thông qua các chính sách và các hoạt động quản lý nhà nước về EPR. Do Hội đồng hoạt động không hiệu quả nên Văn phòng EPR, với vai trò là cơ quan giúp việc, cũng chưa thực hiện được chức năng của cơ quan vận hành hệ thống EPR. Về tài chính, trong hơn 2 năm vận hành EPR vừa qua, Văn phòng EPR làm việc hoàn toàn tự nguyện, không có kinh phí chi trả lương và các hoạt động của Văn phòng do chưa xác định được cơ chế tài chính cho Văn phòng[58].
4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về EPR nhằm mục tiêu phát triển bền vững
Những hạn chế nêu trên đã làm cho chương trình EPR ở Việt Nam khó thực thi vì thiếu các quy định cụ thể, phù hợp với thực tiễn. Thiết chế EPR ở Việt Nam còn cồng kềnh về tổ chức vì có có hai hệ thống quản lý: một bên là cơ quan quản lý nhà nước - Bộ Nông nghiệp và Môi trường; một bên là Hội đồng EPR quốc gia và Văn phòng EPR nhưng chưa rõ về cơ chế tài chính. Hệ thống EPR cũng phức tạp về cơ chế thực hiện vì có nhiều hình thức thực hiện EPR và chưa phát huy được vai trò của các doanh nghiệp trong thực hiện EPR. Doanh nghiệp lựa chọn đóng góp tài chính thay vì tổ chức thực hiện EPR, do đó, tác động của EPR đối với việc gia tăng tỷ lệ tái chế và giảm thiểu chất chất thải từ việc thay đổi thiết kế và sản xuất không đạt được. Để phù hợp hơn trong giai đoạn hiện nay thì Việt Nam cần kiện toàn lại tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, khu trú lại các điều kiện lựa chọn hình thức thực hiện EPR và tăng cường vai trò của PRO và doanh nghiệp trong thực hiện EPR. Những cải tiến này có thể giúp chính sách EPR phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam và hài hoà với hệ thống EPR đã được định hình qua hơn 30 năm phát triển, làm cơ sở để đáp ứng yêu cầu quản lý chất thải xuyên biên giới, đặc biệt là chất thải nhựa hiện nay và trong tương lai. Về giải pháp, Việt Nam cần sửa đổi, bổ sung các hạn chế nêu trên ở cấp văn bản là Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường (2020), cụ thể như sau:
Thứ nhất, xác định chính xác, rõ ràng các sản phẩm, bao bì thuộc diện EPR, có sự phân biệt theo đặc thù theo từng nhóm:Hiện nay, pháp luật chưa xác định sản phẩm theo mã, chưa phân biệt theo đặc thù về thu gom, tái chế của sản phẩm để áp dụng EPR nên việc thực hiện còn bất cập. Các doanh nghiệp chủ yếu lựa chọn việc đóng tiền để hoàn thành trách nhiệm. Do đó, pháp luật cần quy định cụ thểcác bao bì có thể tái chế, chỉ rõ chất liệu và kích thước của chúng theo hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa (mã HS). Tương tự, các loại sản phẩm phải thu gom, tái chế cũng phải quy định rõ theo mã HS. Các loại sản phẩm này cần được phân loại để áp dụng cơ chế EPR cho phù hợp, không nên để các sản phẩm đặc thù khác nhau đều thực hiện theo một cơ chế như nhau. Ví dụ bao bì có vòng đời ngắn, dễ dàng thu gom, tái chế và cần phải được thu gom nhanh chóng, tránh nhiễm bẩn thì có thể áp dụng mô hình đặt cọc hoàn trả để thực hiện EPR. Phương tiện giao thông có giá trị cao cần phải có hệ thống phá dỡ, tái sử dụng, tái chế và xử lý phù hợp ….
Thứ hai, xác định rõ và chính xác nhà sản xuất, nhập khẩu phải thực hiện EPR và công khai nhà sản xuất/nhập khẩu hoàn thành trách nhiệm EPR: Pháp luật hiện nay đặt gia giới hạn dưới để xác định nhà sản xuất, nhập khẩu thực hiện EPR, làm cho nhiều doanh nghiệp tìm cách trốn tránh trách nhiệm. Do vậy, để bảo đảm việc thực hiện EPR được công bằng, trung thực thì pháp luật cần quy định tất cả các nhà sản xuất, nhập khẩu phải đăng ký EPR thông qua hệ thống đăng ký trực tuyến thực hiện EPR do Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý. Hệ thống sẽ lựa chọn các nhà sản xuất, nhập khẩu từ cao xuống thấp, để bảo đảm chiếm một tỷ lệ nhất định lượng vật chất đưa ra thị trường để việc thực hiện trách nhiệm EPR hiệu quả nhất.
Mặc dù, pháp luật về EPR hiện hành đã quy định công khai việc tiếp nhận, sử dụng tiền đóng góp tài chính để hỗ trợ hoạt động xử lý, tái chế của nhà sản xuất, nhập khẩu vào Quỹ BVMT Việt Nam[59]. Tuy nhiên, quy định chỉ yêu cầu công khai về tổng số tiền tiếp nhận do nhà sản xuất, nhập khẩu đóng góp để thực hiện trách nhiệm xử lý chất thải, nên công chúng vẫn không thể biết được tên những nhà sản xuất, nhập khẩu đã thực hiện EPR. Do vậy, quy định trên không phát huy được cơ chế giám sát thực hiện EPR của nhà sản xuất, đặc biệt là sự giám sát lẫn nhau giữa các nhà sản xuất. Với việc công khai được tên những nhà sản xuất, nhập khẩu đã thực hiện EPR sẽ thúc đẩy được các doanh nghiệp tự giác thực hiện EPR đồng thời, giúp cho cơ quan quản lý nhà nước có cở sở để thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm.
Thứ ba,quy định cách thức thực hiện EPR theo nhóm sản phẩm. Đểkhắc phục những hạn chế của việc áp dụng một cơ chế cho các nhóm sản phẩm có đặc thù khác nhau thì pháp luật cần phân loại sản phẩm, bao bì thành các nhóm để áp dụng cách thức thực hiện EPR cho phù hợp, cụ thể như sau:
(i) Nhóm sản phẩm có thể tái sử dụng (là những bao bì được nhà sản xuất đã đưa ra thị trường nhưng bao bì đó được chính nhà sản xuất đó thu hồi, đóng gói để tiếp tục đưa ra thị trường; tỷ lệ thu hồi, đóng gói tiếp tục đưa ra thị trường bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tái chế bắt buộc theo quy định tại Cột 4 Phụ lục số XXII Nghị định 08/2022/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 05/2025/NĐ-CP): quy định rõ nhà sản xuất phải có hệ thống thu hồi, tái sử dụng và có thể truy xuất dữ liệu để phục vụ công tác đăng ký, báo cáo, thanh tra, kiểm tra xác định tính trung thực của các thông tin trong việc tái sử dụng các bao bì này. Việt Nam có thể cho phép thí điểm phát triển hệ thống đặt cọc hoàn trả (EPR) làm cơ sở sửa đổi Luật BVMT để có căn cứ pháp lý triển khai trên thực thế.
(ii) Nhóm sản phẩm, bao bì có thể tái chế: Với sản phẩm bao bì mà thị trường đã đáp ứng việc tái chế thì chỉ được uỷ quyền cho PRO để tổ chức thu gom để đem đi tái chế để bảo đảm tối ưu hoá hệ thống EPR trong việc tổ chức thu gom, tái chế, quản trị dữ liệu. Với các sản phẩm, bao bì mà thị trường còn chưa đủ năng lực thu gom, tái chế thì có thể uỷ quyền cho PRO để tổ chức thu gom để đem đi tái chế hoặc đóng tiền vào Quỹ BVMT Việt Nam để hoàn thành trách nhiệm tái chế.
(iii) Nhóm sản phẩm đồng xử lý, như bao bì xi măng, thì nhà sản xuất có thể tự tổ chức thu gom hặc uỷ quyền cho PRO để đồng xử.
(iv) Nhóm sản phẩm thuộc diện thu gom, xử lý (không thể thu gom, tái chế) thì đóng tiền vào Quỹ BVMT Việt Nam hoặc chuyển thành thuế BVMT, hoà vào ngân sách Nhà nước để tăng chi cho hoạt động thu gom xử lý CTRSH.
Thứ tư, tổ chức trách nhiệm của các nhà sản xuất (PRO) do các doanh nghiệp trong nhóm sản phẩm, bao bì thành lập, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận phải là trung tâm của hệ thống EPR trong việc tổ chức thu gom để tái chế, là cơ sở để kiểm soát hệ thống EPR
Hiện nay, PRO ở Việt Nam chỉ có vai trò là tổ chức trung gian kết nối nhà sản xuất với nhà tái chế để thực hiện EPR, nên PRO đã bị “biến dạng” không chỉ không có hiệu quả cho hệ thống EPR mà còn làm phát sinh thêm chi phí trung gian. Trong hệ thống EPR hiệu quả thì PRO có vai trò rất quan trọng trong việc thổ chức thu gom, chuyển giao tái chế và là “cánh tay nối dài” của Nhà nước trong giám sát tuân thủ EPR. Trên cơ sở những phân tích ở trên,, Việt Nam cần phải bảo đảm PRO là đơn vị trung tâm của hệ thống EPR. Điều này một mặt đảm bảo việc tổ chức thu gom đáp ứng tỷ lệ tái chế tối thiểu, mặt khác bảo đảm việc quản trị hệ thống thông tin về thu gom, tái chế được tập trung, tối ưu được việc thực hiện trách nhiệm EPR. Tuy nhiên, việc thực hiện EPR cuối cùng vẫn là nhà sản xuất, do vậy, các PRO cần phải được thành lập bởi các nhà sản xuất trong cùng nhóm sản phẩm, bao bì. Điều này sẽ bảo đảm tính trách nhiệm và tín nhiệm giữa các nhà sản xuất với PRO. Trong một nhóm sản phẩm, bao bì thì có thể có nhiều PRO hoặt động theo Luật Doanh nghiệp và có thể phân chia phạm vi hoạt động theo vùng. Tuy nhiên, PRO phải đảm bảo việc thu gom ở các vùng ngoại thành, nông thôn, vùng xa đô thị… và phải có năng lực thu gom bảo đảm tỷ lệ tái chế bắt buộc cho các nhà sản xuất, nhập khẩu; có mạng lưới tái chế đáp ứng quy cách tái chế bắt buộc. Các PRO phải đạt được thoả thuận với đơn vị thu gom tái chế ở địa phương và chính quyền địa phương trong việc nhận chuyển giao phế liệu sau khi được phân loại từ chất thải rắn sinh hoạt. PRO là đơn vị có tư cách pháp nhân, là đơn vị quản trị dữ liệu liên quan đến EPR của các doanh nghiệp, là đơn vị tiếp nhận và phân phối lại các hỗ trợ cho hoạt động thu gom, xử lý, tái chế từ các khoản đóng góp của nhà sản xuất, nhập khẩu vào Quỹ BVMT Việt Nam. Với việc kiểm soát dòng chảy vật liệu thông qua PRO như thiết kế này, các dữ liệu về việc thu gom, tái chế sẽ được PRO ghi nhận và báo cáo làm cơ sở kiểm tra chéo với các báo cáo của nhà sản xuất, nhập khẩu và nhà tái chế; đồng thời có đủ dữ liệu để đối chiếu với dữ liệu của doanh nghiệp về thuế, hải quan và đăng ký kinh doanh như đề xuất thứ sáu dưới đây.
Trong hệ thống này, nhà tái chế là đơn vị nhận hợp đồng tái chế từ PRO và từ nhà sản xuất với các điều kiện về năng lực tái chế đáp ứng quy cách tái chế bắt buộc, có giấy phép môi trường phù hợp và có hệ thống giám sát tái chế. Nhà tái chế có trách nhiệm thực hiện kê khai hoạt động tái chế và nếu tái chế vượt quá lượng nhận uỷ quyền từ các PRO thì được hưởng hỗ trợ từ Quỹ BVMT thông qua PRO. Nhà thu gom được nhận khoản hỗ trợ trực tiếp từ PRO khi tham gia hệ thống thu gom do PRO tổ chức. Các PRO có thể tổ chức thu gom hoặc lập mạng lưới thu gom.
Thứ năm, về tổ chức quản lý EPR
Việt Nam cần xem xét lại tính phù hợp của Hội đồng EPR quốc gia, vì Hội đồng chỉ có chức năng tư vấn, không có thẩm quyền quyết định các vấn đề vận hành và quản lý EPR. Do Hội đồng EPR quốc gia là tổ chức trung gian nên có thể xem xét giải thể. Giải pháp có thể tính đến là kiện toàn lại Văn phòng EPR hiện nay thành đơn vị sự nghiệp (Trung tâm EPR Việt Nam) trực thuộc Cục Môi trường- Bộ Nông nghiệp và Môi trường, là đơn vị tự chủ chi thường xuyên và chi đầu tư. Nguồn thu của Trung tâm EPR Việt Nam chủ yếu đến từ các khoản đóng góp của nhà sản xuất, nhập khẩu vào Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam và các khoản thu hợp pháp từ việc cung cấp các dịch vụ EPR cho các doanh nghiệp.
Thứ sáu, quy định phải tích hợp thông tin, cơ sở dữ liệu về EPR với dữ liệu về thuế, hải quan và đăng ký kinh doanh.
Pháp luật EPR hiện hành yêu cầu các nhà sản xuất, nhập khẩu tự giác, tự chịu trách nhiệm về tính trung thực trong việc kê khai, tổ chức thực hiện trách nhiệm và báo cáo theo mẫu đã được quy định và đã số hoá. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định về triển khai các công cụ để kiểm soát việc kê khai, đăng ký, báo cáo thực hiện trách nhiệm EPR. Mặc dù, đã có quy định cho phép cơ quan quản lý kiểm tra chéo, đối soát thông tin của nhà sản xuất, nhập khẩu kê khai khi thực hiện EPR với các thông tin về thuế, hải quan và đăng ký doanh nghiệp[60] nhưng nhiên nay chưa có cơ chế bảo đảm sự tích hợp, chia sẻ thông tin theo cơ chế này.
Để thực hiện được việc kiểm tra chéo các thông tin mà nhà sản xuất, kê khai với các thông tin về thuế, hải quan và đăng ký kinh doanh thì cơ quan quản lý cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, tích hợp vớicơ sở dữ liệu về thuế, hải quan, đăng ký kinh doanh. Trong bối cảnh chuyển đối xanh và chuyển đổi số ở Việt Nâm, việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu EPR là phương pháp ít tốn kém nhưng dễ dàng truy xuất, đối chiếu với các thông tin kê khai của doanh nghiệp về trách nhiệm EPR với các thông tin về thuế, hải quan và đăng ký doanh nghiệp liên quan đến số lượng sản phẩm bao bì đưa ra thị trường, từ đó biết được việc kê khai có trung thực hay không.
Thứ bảy, về sử dụng tiền đóng góp từ trách nhiệm tái chế
Hiện nay, việc sử dụng tiền đóng góp từ trách nhiệm tái chế chưa được ban hành do còn lúng túng trong việc xác định cách thức hỗ trợ tái chế. Để khắc phục điều này, Việt Nam cần xây dựng hệ thống EPR với trung tâm là PRO, đặc biệt là việc quản trị dữ liệu và giám sát thực hiện EPR cũng như kiểm soát việc sử dụng tiền hỗ trợ từ nhà sản xuất đóng góp. Thông qua việc chứng nhận của PRO về số lượng thu gom, tái chế và đối chiếu với dữ liệu trong Hệ thống thông tin EPR, Trung tâm EPR Việt Nam sẽ hoàn thiện hồ sơ để trình Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường phê duyệt các khoản hỗ trợ hoạt động thu gom, tái chế, xử lý cho đơn vị thu gom, tái chế hoặc các địa phương. Ngoài việc hỗ trợ trực tiếp bằng tiền cho hoạt động thu gom, tái chế thì Trung tâm EPR Việt Nam được giao là chủ đầu tư để sử dụng khoản tiền đóng góp của nhà sản xuất để đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) đối với các dự án thu gom, tái chế sản phẩm, bao bì. Đây là những giải pháp khả thi và hiệu quả nhằm phát triển hệ thống thu gom, tái chế vốn rất lạc hậu ở Việt Nam.
Đối với tiền đóng góp từ trách nhiệm xử lý, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ cấp cho các tỉnh để thúc đẩy hoạt động quản lý chất thải rắn sinh hoạt và thu gom, xử lý bao bì thuốc bảo vệ thực vật, giảm bớt gánh nặng ngân sách chi cho các hoạt động này ở địa phương. Kinh phí còn được dùng để hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động thu gom, xử lý rác tại các khu vực công cộng, bãi chôn lấp tự phát. Trung tâm EPR Việt Nam được giao là chủ đầu tư theo hình thức PPP trong việc sử dụng khoản đóng góp của nhà sản xuất, nhập khẩu để đầu tư phát triển hệ thống thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật.
5. Kết luận
Chương trình EPR ở Việt Nam đang đứng trong vận hội rất tốt cho việc cải tổ để hoạt động hiệu quả hơn, đạt được mục tiêu tăng dần tỷ lệ thu gom, tái chế; thúc đẩy thiết kế, sản xuất và tiêu dùng sản phẩm thân thiện với môi trường; góp phần từng bước thực hiện mô hình kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Bài viết đã đưa ra những đề xuất nhằm cải tổ một cách toàn diện pháp luật và thiết chế EPR ở Việt Nam theo hướng quy định chi tiết, với các đề xuất đảm bảo cho hệ thống EPR ở mức độ hài hoà và hiệu quả, bao gồm: tinh gọn tổ chức bộ máy quản lý EPR, nâng cao vai trò của PRO trong tổ chức thực hiện EPR, thúc đẩy nhà sản xuất chủ động tổ chức thực hiện EPR; thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu tích hợp các thông tin của doanh nghiệp về thuế, hải quan và đăng ký doanh nghiệp để tăng cường khả năng giám sát, bảo đảm thực hiện nghiêm các quy định về EPR.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anh Minh, Hoàn thiện Nghị định về EPR: Tăng minh bạch, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, Môi trường (2025) accessed: 21/5/2025.
2. Christopher M Inwang, Polluter pays principle; A jus cogen or customary international law, International Journal of Law, Volume 7; Issue 1; (2021).
3. Chu Manh Hung & Le Thi Anh Dao, Incorporating Informal Female Waste Pickers into Plastic Waste Management: An Analysis of Vietnam's Policies and Regulations, Journal of Human Rights and Peace Studies, Vol. 10 Issue 2, 316–338 (2024) tại https://so03.tci-thaijo.org/index.php/HRPS/article/view/278592/188588
4. Helena Dickinson, Extended Producer Responsibility: A Critical Component fortheGlobal Plastics Pollution Treaty, UNSW https://www.unsw.edu.au/news/ 2024/11/extended-producer-responsibility-a-critical-component-for-the-global-plastics-pollution-treaty
5. Gia Nguyễn, Vướng mắc về định mức chi phí tái chế - Tiềm ẩn hệ lụy gì cho doanh nghiệp? (2023) https://diendandoanhnghiep.vn/vuong-mac-ve-dinh-muc-chi-phi-tai-che-tiem-an-he-luy-gi-cho-doanh-nghiep-10079313.html>, accessed: 21/05/2025.
6. Kuo-Shuh Fan , Chun-Hsu Lin & Tien-Chin Chang, Management and Performance of Taiwan’s Waste Recycling Fund, Journal of the Air & Waste Management Association, 55:5, 574-582 (2005), DOI: 10.1080/10473289.2005.10464647
7. Lindhqvist, Thomas, Extended Producer Responsibility in Cleaner Production: Policy Principle to Promote Environmental Improvements of Product Systems, The international institute for industrial environmental economics. J Clean Prod, 2(2), 119–120 (2000).
8. Nguyễn Sỹ Linh, Thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất và Thoả thuận toàn cầu về nhựa: Tầm quan trọng của lực lượng phi chính thức ở Việt Nam, Tạp chí Môi trường, số 3 (2024)
9. OECD, Extended Producer Responsibility: Updated Guidance for Efficient Waste Management”, (2016) https://www.oecd.org/en/publications/extended-producer-responsibility_9789264256385-en.html. truy cập ngày 2/3/2025.
10. OECD (2001), Extended Producer Responsibility a guidance manual for governments environment, tại
11. OECD (2014), Case study for OECD project on extended producer responsibility Republic of Korea, tai https://rkcmpd-eria.org/practical-measures/detail/extended-producer-responsibility truy cập ngày 2/3/2025
12. Mallick P.K., Salling K.B., Pigosso D.C.A. và cộng sự, Designing and operationalising extended producer responsibility under the EU Green Deal, Environ Chall, 16, 100977 (2024).
13. Mitch Webster, Extended Producer Responsibility Laws for Packaging Around The World,https://packagingschool.com/lessons/extended-producer-responsibility-laws-for-packaging-around-the-world
14. Nguyễn Hoàng Phượng. (2021.) Đánh giá hiệu quả của các công cụ chính sách được lựa chọn để giải quyết vấn đề ô nhiễm rác thải nhựa đại dương- Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất ở Việt Nam.
15. Nguyễn Thi, Hoàn thiện quy định và tổ chức bộ máy quản lý thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), Quản Lý Nhà nước, (341), 48–51 (2024). https://doi.org/10.59394/qlnn.341.2024.877
16. Patrick Schröder and Jack Barrie, How the circular economy can revive the Sustainable Development Goals | 02 The circular economy and the SDGs – an interlinked agenda. (2024) , accessed: 21/05/2025.
17. Rammaniya T. Extended Producer Responsibility (EPR): an Alternative Solution to Regulate the International Electronic Waste Trade. .
18. UNEP (2022). Integrate Extended Producer Responsibility within the International plastics Treaty (Common position Paper- November 2022) https://apps1.unep.org/resolutions/uploads/integrate_epr_within_the_international_treaty_on_plastics_pollution_1.pdf>, truy cập ngày 13/031/2025.
19. Van Rossem, C., Tojo, N., & Lindhqvist, T., Extended Producer Responsibility : An examination of its impact on innovation and greening products, Greenpeace International. (2006) http://www.greenpeace.org/international/press/reports/epr truy cập ngày 21/5/2025
20. World Bank (2022), The Role of Extended Producer Responsibility Scheme for Packaging towards Circular Economies in APEC. Washington DC.
* ThS.GVC. Nguyễn Thi- Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường. Duyệt đăng 27/1/2025. email: Nthi@outlook.com
** PGS.TS.Lê Thị Anh Đào - Khoa Pháp luật quốc tế- Trường Đại học Luật Hà Nội, Email: anhdaole.hlu@gmail.com
[1] Có nhiều cách hiểu và định nghĩa về EPR, tuy nhiên, bài viết này sử dụng định nghĩa về EPR được sử dụng trong Hội nghị thành viên của Công ước Basel thông qua ngày 20/02/2019. Việt Nam là thành viên chính thức của Công ước Basel từ năm 1995. OECD, Extended Producer Responsibility: Updated Guidance for Efficient Waste Management”, 2016, tại https://www.oecd.org/en/publications/extended-producer-responsibility_9789264256385-en.html.
[2] Lindhqvist, Thomas (2000). Extended Producer Responsibility in Cleaner Production: Policy Principle to Promote Environmental Improvements of Product Systems. The international institute for industrial environmental economics. J Clean Prod, 2(2), 119–120.
[3] Mallick P.K., Salling K.B., Pigosso D.C.A. et al. (2024). Designing and operationalising extended producer responsibility under the EU Green Deal. Environ Chall, 16, 100977.
[4] Patrick Schröder and Jack Barrie (2024). How the circular economy can revive the Sustainable Development Goals | 02 The circular economy and the SDGs – an interlinked agenda. , truy cập ngày 21/05/2025.
[5] Mitch Webster, Extended Producer Responsibility Laws for Packaging Around The World,
[6]World Bank, The Role of Extended Producer Responsibility Scheme for Packaging towards Circular Economies in APEC. Washington DC; Helena Dickinson, Extended Producer Responsibility: A Critical Component for the Global Plastics Pollution Treaty (2022) https://www.unsw.edu.au/news/2024/11/extended-producer-responsibility-a-critical-component-for-the-global-plastics-pollution-treaty
[7] Vào tháng 3 năm 2022, tại kỳ họp thứ năm của Đại hội đồng Môi trường Liên hợp quốc (UNEA-5.2), một nghị quyết lịch sử đã được thông qua nhằm xây dựng một văn bản ràng buộc pháp lý quốc tế về ô nhiễm nhựa, bao gồm cả ô nhiễm nhựa trong môi trường biển. Kỳ đàm phán gần đây nhất (INC5) được tổ chức vào tháng 11 năm 2024 tại Busan (Hàn Quốc), với đại biểu đến từ 175 quốc gia trong đó có Việt Nam, tại https://www.unep.org/inc-plastic-pollution.
[9] Intergovernmental Negotiating Committee to develop an international legally binding instrument on plastic pollution, including in the marine environment https://wedocs.unep.org/bitstream/handle/20.500.11822/46710/Chairs_Text.pdf
[10] Rammaniya T. 2010. Extended Producer Responsibility (EPR): an Alternative Solution to Regulate the International Electronic Waste Trade.Theses and Dissertations. 21. https://digitalcommons.law.ggu.edu/theses/21
[11] Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
[12] Điều 67 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và Điều 87 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định các sản phẩm thuộc diện phải thu hồi, xử lý và giao Chính phủ quy định chi tiết. Tuy nhiên, Chính phủ không quy định cơ chế mang tính bắt buộc mà chỉ quy định việc thiết lập điểm thu hồi sản phẩm là hoàn thành trách nhiệm.
[13] Nguyễn Hoàng Phượng. (2021.) Đánh giá hiệu quả của các công cụ chính sách được lựa chọn để giải quyết vấn đề ô nhiễm rác thải nhựa đại dương- Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất ở Việt Nam.
[14] Luật Luật bảo vệ môi trường năm 2020, Điều 54 và Điều 55.
[15] Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 16/01/2025 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình công tác năm 2025 của Chính phủ
[19] Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 Điều 72, Điều 80
[20] Hoàng Hà, Văn Toản, Trung Hưng, COP26 và dấu ấn Việt Nam, Nhân dân (21/11/2021) https://special.nhandan.vn/COP26_Vietnam/index.html
[21] Quyết định số 1746/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030
[22] Quyết định số: 2149/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn
đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050
[23] Quyết định số 491/QĐ-TTg Phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050
[24] Quyết định số 1658/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050
[25] Christopher M Inwang, Polluter pays principle; A jus cogen or customary international law, International Journal of Law, Volume 7; Issue 1; Page No. 132-136 (2021)
[26] Lindhqvist, Thomas (2000).Tlđd, tr. 119.
[27] Điều 54 Luật BVMT (2020)
[28] Điều 55 Luật BVMT (2020)
[29] Khoản 1 Điều 78 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 05/2025/NĐ-CP
[30] Phụ lục XXII Nghị định số 08/2022/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 05/2025/NĐ-CP
[31] Gia Nguyễn (2023). Vướng mắc về định mức chi phí tái chế - Tiềm ẩn hệ lụy gì cho doanh nghiệp? https://diendandoanhnghiep.vn/vuong-mac-ve-dinh-muc-chi-phi-tai-che-tiem-an-he-luy-gi-cho-doanh-nghiep-10079313.html> (27/8/2023), truy cập ngày 21/05/2025.
[32] Van Rossem, C., Tojo, N., & Lindhqvist, T. (2006). Extended Producer Responsibility : An examination of its impact on innovation and greening products. Greenpeace International. http://www.greenpeace.org/international/press/reports/epr truy cập ngày 21/5/2025
[33] Điều 78 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 05/2025/NĐ-CP
[34] Khoản 2 Điều 78 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 05/2025/NĐ-CP
[35] The Republic Act (RA) No. 11898 (the Extended Producer Responsibility Act of 2022)
[36] Điều 79 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 05/2025/NĐ-CP
[37] Nhà sản xuất, nhập khẩu tự thực hiện tái chế phải bảo đảm các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật; không tự thực hiện tái chế khi không bảo đảm các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo quy định của
pháp luật (Khoản 3 Điều 79 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 05/2025/NĐ-CP)
[38] Nguyễn Sỹ Linh, Thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất và Thoả thuận toàn cầu về nhựa: Tầm quan trọng của lực lượng phi chính thức ở Việt Nam, Tạp chí Môi trường, số 3, tr.1 (2024); Chu Manh Hung & Le Thi Anh Dao. 2024. Incorporating Informal Female Waste Pickers into Plastic Waste Management: An Analysis of Vietnam's Policies and Regulations, Journal of Human Rights and Peace Studies, Vol. 10 Issue 2,316–338, tại https://so03.tci-thaijo.org/index.php/HRPS/article/view/278592/188588
[39] TS. Hồ Quốc Thông. 2024. Thúc đẩy hoạt động tái chế: cân nhắc và gợi ý chính sách. https://tapchimoitruong.vn/chuyen-muc-3/thuc-day-hoat-dong-tai-che-can-nhac-va-goi-y-chinh-sach-29919
[40] Phát biểu của TS. Fritz Flanderka, giám đốc điều hành của Reclay Group tại Hội thảo ngày 21/02/2025 tại Trụ sở Liên hợp quốc tại Việt Nam, trong Hội thảo: Shaping the Direction for Advancing Extended Producer Responsibility (EPR) framework in Viet Nam
[41] OECD. (2021). Extended Producer Responsibility: A Guidance Manual for Governments | READ online. oecd-ilibrary.org, , accessed: 26/11/2024.
[42] OECD. (2016). Extended Producer Responsibility: Updated Guidance for Efficient Waste Management”, https://www.oecd.org/en/publications/extended-producer-responsibility_9789264256385-en.html. truy cập ngày 2/3/2025.
[43] Khảo sát các đơn vị tái chế và nhà sản xuất nhập khẩu.
[44] Chu Manh Hung & Le Thi Anh Dao. 2024, TLđd, tr.319-320
[45] Khoản 3 Điều 78 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 05/2025/NĐ-CP)
[46] Kuo-Shuh Fan , Chun-Hsu Lin & Tien-Chin Chang (2005) Management and Performance of Taiwan’s Waste Recycling Fund, Journal of the Air & Waste Management Association, 55:5, 574-582, DOI: 10.1080/10473289.2005.10464647
[47] Phát biểu của TS. Fritz Flanderka, giám đốc điều hành của Reclay Group tại Hội thảo ngày 21/02/2025 tại Trụ sở Liên hợp quốc tại Việt Nam, trong Hội thảo: Shaping the Direction for Advancing Extended Producer Responsibility (EPR) framework in Viet Nam
[48] Thông tin về tình hình đóng góp hỗ trợ xử lý chất thải năm 2023 của nhà sản xuất, nhập khẩu. , truy cập ngày 08/03/2025.
[49] Hiện có 7000 doanh nghiệp dệt may (40% là FDI, 80% vừa và nhỏ) https://vneconomy.vn/so-hoa-de-det-may-tao-loi-the-canh-tranh-moi.htm- Hiện có hơn 96 công ty thuốc bảo vệ thực vật https://baochinhphu.vn/thuc-day-san-xuat-thuoc-bao-ve-thuc-vat-ben-vung-102240724165008605.htm#:~:text=Theo%20th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA%20c%E1%BB%A7a%20C%E1%BB%A5c,%2C%20chi%E1%BA%BFm%2026%2C8%25.
[50] Điều 83 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 05/2025/NĐ-CP
[51] https://vietnamrecycles.com/cho-doanh-nghiep
[52] Khoản 2 Điều 82 và khoản 1 Điều 85 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 05/2025/NĐ-CP)
[53] Anh Minh (2026). Hoàn thiện Nghị định về EPR: Tăng minh bạch, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn truy câp ngày 21/5/2025.
[54] OECD. (2021). Extended Producer Responsibility: A Guidance Manual for Governments | READ online. oecd-ilibrary.org, , accessed: 26/11/2024.OECD. (2014). Case study for OECD project on extended producer responsibility Republic of Korea.
[55] Quyết định số 252/QĐ-BTNMT ngày 14/02/2023 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường thành lập Hội đồng EPR quốc gia và Quyết định số 1090/QĐ-BTNMT ngày 04/05/2023 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Hội đồng EPR quốc gia
[56] Điều 88 Nghị định 08/2022/NĐ-CP và Nghị định 05/2025/NĐ-CP
[57] Quyết định số 252/QĐ-BTNMT ngày 14/02/2023 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về thành lập Hội đồng EPR quốc gia
[58] Nguyễn Thi. (2024). Hoàn thiện quy định và tổ chức bộ máy quản lý thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR). Quản Lý Nhà nước, (341), 48–51. https://doi.org/10.59394/qlnn.341.2024.877
[59] Điều 82 và Điều 85 Nghị định 08/2022/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 05/2025/NĐ-CP)
[60] Khoản 2 Điều 86 Nghị định 08/2022/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 05/2025/NĐ-CP)
(PLPT) - Bài viết làm rõ bản chất và tính khả thi của hạn ngạch trong bầu cử, đồng thời dựa trên cơ sở pháp luật quốc tế và kinh nghiệm của một số quốc gia để nêu ra một số khuyến nghị cho Việt Nam về việc bổ sung cơ chế hạn ngạch đối với người khuyết tật vào hệ thống pháp luật bầu cử trong thời gian tới.
(PLPT) - Bài viết sẽ tập trung vào các nội dung chính sau: làm rõ khái niệm và vai trò của chuyển giao hợp đồng bảo hiểm; phân tích những hạn chế trong quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành liên quan đến vấn đề này; đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý về chuyển giao hợp đồng bảo hiểm.
(PLPT) - Bài viết tập trung làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam hiện hành, đối chiếu với kinh nghiệm pháp luật của một số quốc gia, đặc biệt là trong điều chỉnh các hợp đồng có đối tượng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất – loại hợp đồng phổ biến nhưng tiềm ẩn nhiều xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
(PLPT) - Bài viết tập trung phân tích vấn đề lý luận cơ bản nhất của chế định này là các yếu tố cốt lõi để xây dựng nên khái niệm trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng kinh doanh bất động sản.
(PLPT) - Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc luật hóa đối chứng trong tố tụng dân sự nhằm tăng tính minh bạch, công bằng và hiệu quả xét xử. Đối chứng là quá trình thiết yếu để kiểm tra, xác minh tính chính xác và hợp pháp của chứng cứ.
(PLPT) - Bài viết đề cập tới những vấn đề mà Việt Nam cần lưu ý khi hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quốc gia nhằm bảo đảm khả năng triển khai hiệu quả các nghĩa vụ theo Công ước.
(PLPT) - Bài viết phân tích những điểm tiến bộ cũng như những thách thức phát sinh trong quá trình thực thi các quy định pháp luật của Ấn Độ về thành viên độc lập Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần đại chúng.