Thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin tiền hợp đồng theo mẫu của bên đề nghị giao kết đối với người tiêu dùng
Tóm tắt:
Lao động di cư là một hiện tượng tất yếu, khách quan của xu hướng hội nhập quốc tế, toàn cầu hoá và sự phát triển kinh tế. Do xa gia đình, xa quê hương, thu nhập không ổn định, lao động di cư thường gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản. Vì vậy, đảm bảo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của lao động di cư đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng cuộc sống và đáp ứng các nhu cầu tối thiểu cho họ. Bài viết phân tích các biện pháp bảo đảm tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản của lao động di cư và thực trạng pháp luật Việt Nam về đảm bảo tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản của lao động di cư. Từ đó, đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đảm bảo tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản đối với nhóm lao động di cư trong nước, theo xu hướng từ nông thôn ra thành thị.
Từ khoá: Dịch vụ xã hội, Dịch vụ xã hội cơ bản, Tiếp cận dịch vụ xã hội, Lao động di cư, Pháp luật Việt Nam
Abstract:
Migration is an inevitable and objective phenomenon of the trend of international integration, globalization and economic development. Being far from family, far from home and having unstable income, migrant workers often face many difficulties in accessing basic social services. Therefore, ensuring access to basic social services of migrant workers plays an important role in ensuring their quality of life and meeting their minimum needs. The following article will analyze measures to ensure access to basic social services of migrant workers and the current status of Vietnamese laws on ensuring access to basic social services of domestic migrant workers, following the trend from rural to urban areas.
Keyword: Social service, Basic social service, Access to basic social service, Migrant workers, Vietnamese Law
1. Một số vấn đề lý luận về đảm bảo tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản của lao động di cư
1.1 Khái niệm dịch vụ xã hội cơ bản và lao động di cư
Với mục đích đảm bảo mọi người dân có mức thu nhập tối thiểu và tiếp cận được các dịch vụ xã hội thiết yếu, năm 2009 Liên Hợp Quốc phát triển sáng kiến “Sàn an sinh xã hội” (Social Protection Floor – SPF) với các cấu phần chính bao gồm[1]: (i) chăm sóc sức khỏe cơ bản; (ii) thu nhập tối thiểu cho người trong tuổi lao động nhưng không có khả năng tạo thu nhập vĩnh viễn (người khuyết tật), hoặc mất việc làm tạm thời (người bị thất nghiệp), hoặc thu nhập thấp hơn mức đủ sống (người nghèo); (iii) thu nhập tối thiểu đối với người trên tuổi lao động (người cao tuổi) và dưới tuổi lao động (trẻ em). Bên cạnh đó, sàn an sinh xã hội (ASXH) cũng nhấn mạnh đến các dịch vụ xã hội thiết yếu cho con người, bao gồm: (i) Chăm sóc y tế cơ bản; (ii) nước sinh hoạt hợp vệ sinh; (iii) nhà ở; (iv) giáo dục; và (v) các dịch vụ khác tùy theo ưu tiên của từng quốc gia. Các dịch vụ xã hội thiết yếu này còn được gọi là các dịch vụ xã hội cơ bản (basic social services), được Liên hợp quốc định nghĩa “là các hoạt động dịch vụ cung cấp những nhu cầu cho các đối tượng nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống”.[2]Quan niệm về nội dung của dịch vụ xã hội cơ bản (DVXHCB) không giống nhau ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển mà mỗi quốc gia quy định phạm vi DVXHCB rộng hay hẹp khác nhau. Ở Ấn Độ, quan niệm về ASXH đã được mở rộng hơn từ năm 2007 với các nội dung về DVXHCB bao gồm nhà ở, nước uống an toàn nước, vệ sinh, y tế, cơ sở giáo dục và văn hóa và cả mức lương tối thiểu có thể đảm bảo cho NLĐ một cuộc sống tốt.[3] Năm 2017, Viện Thịnh vượng Toàn cầu đã đưa ra những ý tưởng ban đầu về dịch vụ cơ bản phổ quát (Universal Basic Services), theo đó đề xuất một loạt các dịch vụ công miễn phí cho phép mọi người dân có một cuộc sống dài hơn bằng cách đảm bảo tiếp cận với các mức độ nhất định về an sinh, cơ hội và sự tham gia. Ngoài dịch vụ y tế và giáo dục công, các dịch vụ khác được cơ quan này đề xuất thêm vào mô hình dịch vụ cơ bản phổ quát như nơi cư trú, dinh dưỡng, giao thông và thông tin.[4] Ở Việt Nam, DVXHCB được đề cập đến trong Nghị Quyết số 15-NQ/TW của Ban chấp hành TW Đảng ngày 1/6/2012 với 05 dịch vụ, bao gồm: dịch vụ giáo dục cơ bản, dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản, nhà ở, nước sạch và tiếp cận thông tin.
Lao động di cư (hay còn gọi là lao động di trú) thường tồn tại dưới hai hình thức là di cư từ quốc gia này đến quốc gia khác và di cư trong phạm vi biên giới một quốc gia. Theo Công ước của Liên Hiệp Quốc về quyền của NLĐ di trú và thành viên gia đình họ thì “NLĐ di trú để chỉ một người đã đang và sẽ làm một công việc có hưởng lương tại một quốc gia mà người đó không phải là công dân”. Công ước này quy định 3 nhóm quyền quan trọng của người lao động di trú bao gồm: nhóm quyền dân sự và chính trị, nhóm quyền về lao động và nhóm quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá. Trong đó, nhóm quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá ghi nhận rằng tất cả lao động di cư và gia đình họ đều được hưởng chăm sóc sức khoẻ, được hưởng giáo dục tương đương với người dân ở nước bản địa… Ngoài ra Công ước còn quy định nhóm quyền đặc biệt về chỗ ở đối với người di cư như: được bảo vệ trong việc khai thác nhà ở để cho thuê; được hưởng các dịch vụ xã hội về sức khoẻ, với điều kiện phải tham gia vào các hệ thống tương ứng.
Còn người di cư trong phạm vi một quốc gia được hiểu là sự dịch chuyển của con người từ một đơn vị hành chính này đến một đơn vị hành chính khác, đó là chuyển đến một xã khác, huyện khác, thành phố hoặc một tỉnh khác trong một khoảng thời gian nhất định.[5]
Với đặc thù làm việc ở địa phương khác, xa gia đình, thu nhập bấp bênh, lao động di cư thường gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận ASXH nói chung và DVXHCB nói riêng. Tại Việt Nam, một bộ phận lao động di cư làm các công việc chân tay hoặc không đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật. Lao động di cư có thể xoay sở cải thiện được thu nhập trong môi trường sống mới, nhất là ở khu vực thành thị nhưng điều kiện sống và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội của họ còn rất kém so với người dân gốc tại địa phương đó.[6] Do vậy, lao động di cư vẫn được coi là nhóm dễ tổn thương, khó tiếp cận ASXH nói chung và DVXHCB nói riêng. Việc đảm bảo tiếp cận DVXHCB của nhóm đối tượng này cần được quan tâm đặc biệt và đặt ra yêu cầu cấp thiết. Đảm bảo tiếp cận DVXHCB cho NLĐ di cư nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho họ. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng có mối liên hệ giữa các nhu cầu cơ bản (dinh dưỡng, y tế, nhà ở, nước sạch, giao thông và giáo dục) và chất lượng cuộc sống. Đảm bảo các nhu cầu cơ bản là nền tảng để đảm bảo chất lượng cuộc sống.[7]
1.2 Các biện pháp bảo đảm tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản của lao động di cư
“Bảo đảm” được hiểu là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết.[8] Theo đó, biện pháp bảo đảm tiếp cận DVXHCB của lao động di cư được hiểu là cách thức thích hợp, hiệu quả được thực hiện bởi nhà nước và xã hội để tạo ra tiền đề, điều kiện cần thiết để quyền tiếp cận các DVXHCB của lao động di cư được thực hiện đầy đủ trên thực tế. Các biện pháp bảo đảm tiếp cận DVXHCB của lao động di cư bao gồm: biện pháp xã hội, biện pháp kinh tế và biện pháp pháp lý.
Thứ nhất, biện pháp xã hội. Biện pháp xã hội được sử dụng để tác động đến ý thức và môi trường xã hội nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho NLĐ di cư thực hiện quyền. Biện pháp xã hội bao gồm:
- Nâng cao nhận thức của lao động di cư. Ngoài nỗ lực của Nhà nước trong việc đảm bảo tiếp cận DVXHCB của lao động di cư thì nâng cao nhận thức của lao động di cư cũng quan trọng không kém. Lao động di cư cần nắm được quyền và lợi ích hợp pháp của mình để chủ động tiếp cận DVXHCB. Biện pháp nâng cao nhận thức của lao động di cư được thực hiện thông qua nhiều hình thức như Nhà nước xây dựng hành lang pháp lý ghi nhận quyền tiếp cận DVXHCB của họ, tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến trên phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức hội thảo, tập huấn…
- Xã hội hoá việc cung cấp DVXHCB. Với vai trò chủ thể quản lý và đảm bảo ASXH, nhà nước đóng vai trò chủ đạo đảm bảo tiếp cận DVXHCB đầy đủ. Xu hướng chung của các quốc gia là cho phép khu vực tư nhân thực hiện cung cấp dịch vụ công nói chung và DVXHCB nói riêng nhằm tạo ra sự cạnh tranh và mang lại lợi ích cho người dân - người tiêu dùng. Trong tiến trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã xác định quan điểm nhà nước chỉ làm những gì tư nhân không làm được hoặc không muốn làm. Về kinh phí đầu tư cho DVXHCB, ngoài khoản tiền ngân sách nhà nước hỗ trợ đầu tư cho DVXHCB thì cần huy động đầu tư từ khu vực tư nhân. Theo đó, NLĐ di cư sử dụng DVXHCB sẽ phải trả phí. Trong đó, Nhà nước sẽ giới hạn mức phí nằm trong khả năng chi trả của người sử dụng dịch vụ, đảm bảo chất lượng và tiếp cận công bằng.
Thứ hai, biện pháp kinh tế. Biện pháp này nhằm giải quyết vấn đề tài chính, thu nhập của lao động để đảm bảo tiếp cận DVXHCB
Giải quyết tình trạng nghèo đói, giải quyết việc làm cho NLĐ di cư. Nhà nước cần có chính sách giải quyết và bảo đảm việc làm cho NLĐ di cư để thu nhập của họ được bảo đảm. Từ đó, góp phần tiếp cận DVXHCB đầy đủ và hiệu quả. Ngoài ra, biện pháp kinh tế còn thể hiện thông qua hình thức hỗ trợ tài chính đầu tư cho DVXHCB, có chính sách khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ để thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân. Chính sách hỗ trợ một số nhóm đối tượng yếu thế như người nghèo, người cao tuổi, lao động di cư, người sinh sống ở khu vực miền núi, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Thứ ba, biện pháp pháp lý. Biện pháp pháp lý là cách thức bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận DVXHCB của lao động di cư một cách đầy đủ và hiệu quả. Biện pháp này được thực hiện thông qua hệ thống công cụ, yếu tố pháp lý để ghi nhận quyền của lao động di cư bằng pháp luật và đảm bảo thực hiện bằng quyền lực và bộ máy nhà nước. Biện pháp này thể hiện thông qua việc Nhà nước ghi nhận đầy đủ quyền tiếp cận DVXHCB mang tính phổ quát và công bằng đối với mọi người, trong đó có lao động di cư. Quyền tiếp cận DVXHCB của lao động di cư được đảm bảo thực hiện bằng bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương. Ngoài ra, đảm bảo thực hiện quyền tiếp cận DVXHCB của lao động di cư bằng biện pháp pháp lý còn thể hiện thông qua các cơ chế bảo vệ như xử lý vi phạm đối với các hành vi vi phạm làm cản trở quyền này của người lao động di cư và cơ chế giải quyết tranh chấp khi có tranh chấp phát sinh liên quan đến việc tiếp cận DVXHCB của lao động di cư.
2. Thực trạng pháp luật về đảm bảo tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản của lao động di cư
Về dịch vụ giáo dục cơ bản
Tiếp cận dịch vụ giáo dục cơ bản (DVGDCB) là quyền con người cơ bản, quan trọng, là tiền đề để tiếp cận các quyền con người khác. Vì vậy, đối tượng tiếp cận DVGDCB phải mang tính phổ quát và bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử. Phù hợp với Tuyên ngôn Luật Nhân quốc tế năm 1948, quyền tiếp cận phổ quát DVGDCB ở Việt Nam được khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 tại Điều 61 khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu; Luật Giáo dục 2019 qui định: “Giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc. Nhà nước thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 05 tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở”. Thêm vào đó, Điều 99 luật này quy định: “Miễn học phí đối với học sinh tiểu học trường công lập; trẻ em mầm non 05 tuổi ở thôn, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo...” Ở Việt Nam, chủ thể cung cấp DVGDCB là hệ thống trường công lập và kinh phí thực hiện do ngân sách nhà nướccấp.
Như vậy, Việt Nam đang thực hiện giáo dục bắt buộc 05 năm bậc tiểu học và phổ cập giáo dục đối với giáo dục mầm non 05 tuổi và cấp trung học cơ sở. Nhìn chung, hầu hết các quốc gia đều quy định về số năm giáo dục bắt buộc và phổ cập giáo dục. Ở Trung Quốc, từ năm 1986, Luật Giáo dục Bắt buộc 9 năm được ban hành, quy định các yêu cầu để đạt được một nền giáo dục phổ cập và đảm bảo quyền của trẻ em trong độ tuổi đi học. Theo luật này, tất cả trẻ em trong độ tuổi đi học có quốc tịch Trung Quốc đều có quyền được giáo dục bắt buộc, phụ huynh có trách nhiệm ghi danh cho con em mình đi học và đảm bảo chúng học xong 9 năm học bắt buộc. Pháp luật Mỹ cũng đặc biệt quan tâm tới vấn đề bình đẳng trong giáo dục. Điều này thể hiện thông qua quy định của Đạo luật Cơ hội Giáo dục Bình đẳng năm 1974, theo đó không một tiểu bang nào được từ chối cơ hội giáo dục bình đẳng đối với một cá nhân nào trên cơ sở chủng tộc, màu da, giới tính hoặc nguồn gốc quốc gia. Ở Mỹ, giáo dục bắt buộc cho trẻ em từ 5 hoặc 6 tuổi đến 16, 17 hoặc 18 tuổi tùy thuộc vào quy định ở mỗi Bang và được miễn phí khi học ở các trường công lập.[9] Một số quốc gia khác quy định giáo dục bắt buộc 9 năm như: Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Tây Ban Nha… Hoặc giáo dục bắt buộc 11 năm như: Anh, Liên Bang Nga, Scotland…[10] So với các quốc gia trên thế giới, số năm giáo dục bắt buộc ở Việt Nam khá thấp so với các quốc gia trên thế giới, kể cả các nước trong khu vực Châu Á. Điều này phần nào làm hạn chế cơ hội tiếp cận mức độ giáo dục cơ bản của người dân nói chung và con em của lao động di cư nói riêng.
Mặc dù Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công trong mục tiêu phổ cập giáo dục nhưng chất lượng giáo dục chưa cao, không đồng đều giữa các khu vực, giữa các địa phương và giữa các nhóm đối tượng khác nhau. Bên cạnh đó, Theo bà Vương Thị Hạnh, thực trạng trường mầm non công lập tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và những địa phương có đông lao động di cư tự do chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng. Theo thống kê năm 2017 cả nước có khoảng 260 khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động với tổng số 2,8 triệu lao động. Thế nhưng cả nước mới chỉ có 112 trường mầm non ở các khu công nghiệp, khu chế xuất[11] trong khi các cơ sở mầm non ngoài công lập còn tồn tại nhiều bất cập. Theo thống kê sơ bộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến đầu năm 2014, có khoảng 2/3 trong số hơn 16.000 lớp mầm non độc lập tự phát hoạt động được cấp phép.
Việc tiếp cận giáo dục cơ bản của trẻ em còn bị hạn chế bởi quy định điều kiện nhập học phải có hộ khẩu thường trú. Theo ông Khưu Mạnh Hùng,[12] trưởng phòng Giáo dục- Đào tạo quận 12, TP. HCM thì năm 2021, có khoảng hơn 1000 trẻ trên địa bàn quận không được nhận vào học tại trường công lập trên địa bàn quận. Lý do là vì các trường công lập ưu tiên trẻ có hộ khẩu thường trú trước, sau đó nếu còn chỉ tiêu thì mới xét đến diện tạm trú dài hạn. Như vậy, nếu trẻ không có hộ khẩu thường trú thì trẻ có thể không được nhận vào học tại trường công lập và phải chuyển về học tại nơi có hộ khẩu hoặc học tại trường ngoài công lập. Điều này gây nên nhiều bất cập trên thực tế bởi học phí trường ngoài công lập thường cao hơn trường công lập nên việc trang trải học phí là một gánh nặng cho cha mẹ của trẻ hoặc nếu học ở nơi có hộ khẩu thường trú thì trẻ sẽ phải sống xa cha mẹ nếu cha mẹ là NLĐ di cư.
Về dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản
Quyền được chăm sóc sức khoẻ là một trong những quyền con người cơ bản được pháp luật quốc tế và pháp luật các quốc gia ghi nhận. Tương tự DVGDCB, chăm sóc y tế cơ bản cũng được thể hiện ở hai nội dung chính là đảm bảo tiếp cận dịch vụ y tế bình đẳng với mọi đối tượng dân chúng và cung cấp các dịch vụ y tế theo mức cơ bản mà quốc gia xác định theo từng giai đoạn cụ thể của sự phát triển. ỞViệt Nam, quyền này được ghi nhận trong Luật BHYT, Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm, Thông tư số 39/2017/TT-BYT ngày 18 tháng 10 năm 2017 quy định gói dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Hệ thống văn bản này đã tạo hành lang pháp lý khá vững chắc và thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với công tác chăm sóc y tế cho nhân dân. Bên cạnh các văn bản quy phạm pháp luật, các chương trình mục tiêu y tế quốc gia cũnggóp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy, đảm bảo quyền tiếp cận y tế cơ bản cho lao động di cư như chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia, chương trình y tế học đường, chăm sóc sức khỏe sinh sản...
Đối với chăm sóc sức khoẻ cơ bản, Thông tư số 39/2017/TT-BYT quy định gói dịch vụ y tế cơ bản phục vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, dự phòng và nâng cao sức khoẻ bao gồm 17 dịch vụ: Các dịch vụ về tư vấn, truyền thông, giáo dục, nâng cao sức khỏe, bao gồm ăn uống, nghỉ ngơi, tập luyện, sống khỏe, quản lý và phòng tránh stress...; Các dịch vụ về tiêm chủng; Các dịch vụ khám, quản lý sức khỏe cá nhân phục vụ chăm sóc sức khỏe; Các dịch vụ về giám sát và phòng chống các bệnh, dịch truyền nhiễm; Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình; Các dịch vụ về tư vấn, truyền thông dinh dưỡng và an toàn thực phẩm; Các dịch vụ giáo dục, truyền thông và vận động nhân dân sử dụng nước sạch, bảo đảm vệ sinh môi trường, sử dụng nhà tắm, nhà tiêu hợp vệ sinh...; Các dịch vụ về giám sát và phòng chống các bệnh không lây nhiễm; Các dịch vụ về kiểm soát các yếu tố nguy cơ có hại cho sức khỏe, bao gồm phòng chống tác hại của thuốc lá, lạm dụng rượu bia,...; Các dịch vụ về bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng; Các dịch vụ về y tế học đường; Các dịch vụ về bảo đảm máu an toàn và phòng, chống các bệnh về máu; Quản lý sức khỏe các đối tượng ưu tiên: chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ có thai...; Các dịch vụ về phục hồi chức năng cho người khuyết tật tại cộng đồng; Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà, bao gồm phục hồi chức năng, vật lý trị liệu, phòng chống ung thư; Các dịch vụ khám sàng lọc, phát hiện các bệnh tật cho nhóm nguy cơ cao cho cộng đồng; Cung cấp thuốc thiết yếu, bao gồm các tủ thuốc để bán thuốc. Có thể thấy phạm vi của dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản tương đối đầy đủ, đa dạng với mục đích chăm sóc sức khoẻ ban đầu, dự phòng bệnh tật và nâng cao sức khoẻ của người dân. Tuy nhiên, các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản nêu trên vẫn thiếu vắng một số dịch vụ được cho là rất cần thiết, có vai trò quan trọng đối với chất lượng dân số, đó là dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tình dục, chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho đối tượng vị thành niên, thanh niên. Hiện nay, tỷ lệ dân số ở đội tuổi vị thành niên, thanh niên chiếm tỷ lệ không nhỏ với khoảng 23,8% dân số của nước, tương đương 22.898.886 người vào năm 2019.[13] Hơn nữa, lao động di cư có độ tuổi khá trẻ, chủ yếu có độ tuổi từ 15 đến 34 tuổi, chiếm tỷ trọng 72,9%.[14] Vì vậy dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tình dục, chăm sóc sức khoẻ sinh sản rất cần thiết với nhóm đối tượng này, giúp cho họ có những kiến thức cơ bản về tình dục an toàn, về sức khoẻ sinh sản, từ đó đảm bảo vấn đề sức khoẻ và nâng cao chất lượng dân số.
Dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản còn được thể hiện thông qua hệ thống pháp luật BHYT. Với chương trình BHYT toàn dân, Luật BHYT 2014 đã bao quát toàn bộ người dân tham gia BHYT với hình thức bắt buộc. Vì thế lao động di cư, đặc biệt là di cư thuộc khu vực phi kết cấu không chỉ được tham gia mà còn có thể nhận được sự hỗ trợ nhất định về phí tham gia hoặc mức đồng chi trả khi đáp ứng được các điều kiện luật định. Theo quy định của Luật này và Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHYT thì lao động di cư có thể tham gia BHYT theo một trong sáu nhóm được liệt kê trong các văn bản này. Nhìn chung, đối tượng tham gia BHYT đã bao quát được toàn bộ người dân nói chung và lao động di cư nói riêng, nhằm đảm bảo mọi người được chăm sóc y tế cơ bản. Tuy nhiên, quy định về đối tượng tham gia BHYT vẫn tồn tại những bất cập, chưa tương thích với quy định của Luật Cư trú năm 2020. Theo quy định, nhóm tham gia BHYT theo hộ gia đình được xác định dựa trên sổ hộ khẩu, sổ tạm trú. Tuy nhiên, Luật Cư trú năm 2020 không còn quy định về sổ hộ khẩu, sổ tạm trú nên việc xác định đối tượng tham gia BHYT theo nhóm này sẽ gặp những vướng mắc nhất định trên thực tế.
Song song với quy định BHYT toàn dân, Luật BHYT còn mở rộng phạm vi thanh toán, thực hiện thông tuyến khám chữa bệnh cấp huyện, cấp tỉnh, đầu tư cơ sở vật chất cho y tế cơ sở[15] đã tạo điều kiện tiếp cận dịch vụ y tế thuận lợi nhất cho lao động di cư. Cụ thể, thông tuyến khám chữa bệnh viện tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh từ ngày 1/1/2016[16] và thông tuyến điều trị nội trú đối với bệnh viện tuyến tỉnh trong phạm vi cả nước từ ngày 1/1/2021[17] nhưng quy định này vẫn chưa thực sự đạt được mục đích đặt ra. Điểm hạn chế trong quy định này là thông tuyến khám chữa bệnh bệnh viện tuyến huyện mới chỉ áp dụng trong phạm vi tỉnh và thông tuyến khám chữa bệnh bệnh viện tuyến tỉnh chỉ áp dụng đối với người bệnh điều trị nội trú mà chưa áp dụng đối với khám chữa bệnh ngoại trú. Do đó, NLĐ di cư vẫn gặp khó khăn trong khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT bởi nếu họ di cư tới một tỉnh, thành phố khác làm việc thì vẫn phải quay về địa bàn tỉnh nơi họ cư trú khi khám, chữa bệnh dùng thẻ BHYT. Điều này làm hạn chế việc dùng thẻ BHYT trong khám, chữa bệnh và làm cho BHYT kém hấp dẫn với người dân nói chung và NLĐ di cư nói riêng. Điều này đã mang đến những kết quả rất tích cực, theo thống kê, tỷ lệ có thẻ BHYT của người di cư đã tăng từ 36,4% năm 2004 lên 70,2% năm 2015.
Về tiếp cận nhà ở
Bảo đảm ASXH về nhà ở cho lao động di cư được hiểu là việc bảo đảm quyền cư trú và bảo đảm tiếp cận nhà ở (nơi cư trú) cho lao động di cư. Ở Việt Nam, quyền cư trú của công dân gắn liền với quyền tự do đi lại, quyền tự lựa chọn chỗ ở cho bản thân và gia đình ở mọi nơi trên đất nước. Quyền có nhà ở được ghi nhận và đảm bảo trong các bản Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam từ năm 1946 đến Hiến pháp 2013. Điều 22 Hiến pháp 2013 quy định: “công dân có quyền có nơi ở hợp pháp, mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được sự đồng ý”. Ngoài Hiến pháp, quyền có nhà ở còn được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật Cư trú năm 2020; Luật Nhà ở năm 2014 và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Trong đó, Luật Cư trú quy định công dân có quyền lựa chọn, quyết định nơi cư trú, đăng ký cư trú theo quy định của pháp luật... Tươngtự, Luật Nhà ở năm 2014 quy định quyền có chỗ ở của hộ gia đình, cá nhân thông qua việc đầu tư xây dựng, mua, thuê, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế….
Đặc biệt, để đảm bảo tiếp cận nhà ở mang tính phổ quát đến mọi đối tượng, trong đó có lao động di cư, Luật Nhà ở và Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 về phát triển và quản lý nhà ở xã hội. Đây là hình thức nhà ở được hầu hết các quốc gia quy định và chú trọng phát triển. Nhà ở xã hội được hiểu là nhà ở có sự hỗ trợ của Nhà nước cho các đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở theo quy định của Luật Nhà ở với 09 nhóm đối tượng.[18] Nhìn chung, quy định về đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ nhà ở về cơ bản đã bao quát được các đối tượng có thu nhập hạn chế, khó tiếp cận nhà ở thương mại nhưng một số đối tượng vẫn bị “bỏ lọt”, trong đó có lao động di cư. Nhóm đối tượng này chiếm một số lượng không nhỏ ở các thành phố lớn. Báo cáo Tổng điều tra dân số và nhà ở toàn quốc năm 2019 cho thấy, hơn 13% dân số cả nước là người di cư, là lực lượng đóng góp cho sự phát triển kinh tế-xã hội quốc gia. Trong một vài năm qua, khi đại dịch Covid-19 bùng phát đã xuất hiện nhiều đoàn người di cư khỏi các khu công nghiệp, các thành phố lớn. Hiện tượng này cho thấy nhóm đối tượng là lao động di cư làm công việc tự do, công nhân tại các khu công nghiệp chưa được “an cư” nên họ chưa thể “lạc nghiệp”. Bởi thực tế cho thấy, nhà ở cũng là vấn đề NLĐ di cư gặp khó khăn nhiều nhất, cao hơn cả những khó khăn về thu nhập, việc làm và tập trung nhiều ở người chưa đăng ký hộ khẩu (45,7%).[19] Tính đến năm 2021, cả nước mới hoàn thành 249 dự án với 5,21 triệu mét vuông sàn nhà ở xã hội, quy mô khoảng 104.200 căn hộ, chỉ đạt tỷ lệ 41,7% so với mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (mục tiêu đến năm 2020 hoàn thành 12,5 triệu mét vuông sàn nhà ở xã hội). [20] Đến năm 2019, vẫn còn 4.800 hộ gia đình chưa có nhà ở và 1,4 triệu hộ gia đình sống trong nhà đơn sơ.[21]
Về tiếp cận nước sạch
Nước sạch là nước đã qua xử lý có chất lượng bảo đảm, đáp ứng yêu cầu sử dụng.[22] Nước sạch đóng vai trò then chốt đối với sức khoẻ và đời sống của con người. Chính vì vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật hầu hết các quốc gia đều ghi nhận quyền về nước là quyền cơ bản của con người. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ khi đặt mục tiêu bao phủ toàn dân trong tiếp cận nước sạch. Kế thừa quy định về sở hữu toàn dân của Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở tiếp cận mới, đúng đắn và chính xác hơn, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận tài nguyên nước là một trong những đối tượng tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020 đã đề ra phương châm, nguyên tắc, phạm vi và các giải pháp thực hiện nhằm thúc đẩy cho tất cả người dân được sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia. Cơ sở pháp lý để người dân được cung cấp nước sạch một cách thường xuyên, lâu dài phục vụ nhu cầu tối thiểu trong đời sống được quy định trong Nghị định số 117/2007/NĐ-CP về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch (Nghị định 117); Nghị định Số 124/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 117/2007/NĐ-CP(Nghị định 124); Quyết định số 104/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020. Các văn bản này đã quy định rõ về mục tiêu, nguyên tắc cũng như các nội dung đảm bảo thực hiện quyền cung cấp nước sạch, không phân biệt đối tượng. Thông qua các quy định này, quyền có nước sạch của người dân nói chung và lao động di cư nói riêng nhìn chung được đảm bảo.
Mặc dù hệ thống pháp luật về lĩnh vực này ngày càng được quan tâm và được quy định đầy đủ, chi tiết hơn nhưng pháp luật về vấn đề này vẫn tồn tại những bất cập nhất định. Thực tế, việc tiếp cận nước sạch ở khu vực nông thôn chưa được đảm bảo như mục tiêu đề ra, nguyên nhân là chưa có quy định ràng buộc trách nhiệm của các địa phương trong việc xây dựng các chỉ tiêu cấp nước vào chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội trong kế hoạch, chưa có sự quan tâm đúng mực đối với cấp nước quy mô hộ gia đình. Điều này ảnh hưởng đến quyền tiếp cận nước sạch của người dân nói chung và của NLĐ di cư nói riêng.
Việc tiếp cận nước sạch của NLĐ di cư gặp khó khăn hơn người bản địa vì phải trả tiền sử dụng nước cao hơn. Thực tế hiện nay, hơn 2/3 NLĐ di cư trong nghiên cứu phải trả tiền nước cao gần gấp ba lần so với dân địa phương. Phần lớn NLĐ di cư sử dụng nước máy làm nguồn nước sinh hoạt chính (62,6%), số còn lại sử dụng nguồn nước giếng khoan. Mặc dù đã có những chính sách ưu đãi về giá điện, nước cho người thuê nhà, song trên thực tế, không có nhiều NLĐ di cư được hưởng lợi từ chính sách trên, phần lớn các chủ nhà trọ tự áp đặt giá với mức cao gấp 2 - 3 lần so với mức giá theo quy định. Trong số công nhân được khảo sát thì mặc dù có tới 67% công nhân ở nhà riêng, nhưng 23% đang sống trong điều kiện nhà ở tạm bợ, 44% cho hay đang sử dụng nước giếng khoan và nước mưa nhưng không chắc nguồn nước sử dụng có sạch và an toàn không?[23]
Về tiếp cận thông tin
Quá trình sinh sống, làm việc tại nơi di cư đến, lao động di cư phải đối mặt với nhiều khó khăn. Vì vậy, việc tiếp cận thông tin (TCTT) là nhu cầu thiết yếu với họ, nó không những đáp ứng nhu cầu trao đổi, nắm bắt tình hình, mở rộng kiến thức mà còn giúp họ có khả năng, cơ hội khắc phục khó khăn để vươn lên. Quyền TCTT được coi là một trong những quyền cơ bản của con người ở Việt Nam, bao gồm quyền tự do tìm kiếm, trao đổi thông tin, quyền yêu cầu cung cấp thông tin, quyền phổ biến thông tin. Năm 2016, Luật TCTT được ban hành, theo đó, quyền này cũng được ghi nhận thống nhất và tương đối đầy đủ theo hướng mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền TCTT; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật; việc hạn chế quyền TCTT phải do luật định trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng;... Bên cạnh đó, Luật còn quy định cụ thể vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cùng các trình tự, thủ tục cần thiết để đảm bảo quyền TCTT cho người dân. Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu cung cấp thông tin, Điều 14 Luật TCTT quy định công dân có quyền tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật về TCTT. Có thể thấy, công dân được quyền TCTT một cách bình đẳng, không có sự phân biệt, trong đó bao gồm cả lao động di cư.
Quyền TCTT gắn liền với trách nhiệm cung cấp thông tin. Vì vậy, quyền TCTT được đảm bảo và thực hiện tốt nhất phụ thuộc rất nhiều vào quy định pháp luật về cung cấp thông tin và hiệu quả thực hiện các quy định này trên thực tế. Theo kết quả nghiên cứu, rà soát của Tổ chức Hướng tới minh bạch (TT) và Nhóm làm việc vì sự tham gia của người dân (PPWG) với 31 luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến quyền TCTT và 18 lĩnh vực thông tin phải công khai theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng thì chủ thể cung cấp thông tin được quy định rất rộng. Theo đó, “chủ thể cung cấp thông tin được quy định rộng rãi bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp ở tất cả các cấp cũng như các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị -xã hội, các doanh nghiệp nhà nước, các cơ quan cung cấp dịch vụ công”. Có thể thấy, chủ thể cung cấp thông tin được quy định ở các văn bản pháp luật khác không chỉ có cơ quan nhà nước mà còn có doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân. Trong khi Luật TCTT chỉ giới hạn chủ thể cung cấp thông tin là cơ quan nhà nước, thể hiện hệ thống pháp luật chưa có sự tương thích, còn tồn tại mâu thuẫn, chồng chéo.
Một thực trạng nữa phần lớn các cơ quan nhà nước chưa có đầu mối cung cấp thông tin, chưa có danh mục thông tin phải công khai, danh mục thông tin cung cấp có điều kiện trên các trang thông tin của cơ quan. Theo kết quả nghiên cứu, trong số 324 cổng/trang thông tin điện tử của 324 cơ quan nhà nước được khảo sát từ Trung ương đến địa phương, có đến 82,4% cơ quan chưa có đầu mối và chuyên mục TCTT, 91,3% cơ quan chưa có danh mục thông tin phải công khai, chưa thấy danh mục thông tin cung cấp có điều kiện ở tất cả 324 trang thông tin điện tử được khảo sát.[24] Việc chưa có chế tài xử lý đối với hành vi chậm chễ của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nghĩa vụ công khai thông tin như trên sẽ ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến quyền TCTT của người dân và chưa thể hiện được tinh thần quyết liệt của cơ quan nhà nước trong việc đảm bảo tốt nhất quyền TCTT của người dân.
Để quyền TCTT được đảm bảo thực hiện hiệu quả trên thực tế và để người dân có thể dễ dàng TCTT thì một trong những phương thức hữu hiệu nhất là ứng dụng công nghệ thông tin. Năm 2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2019/NĐ-CP ngày 05 tháng 9 năm 2019 quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước quy định đầu tư cho ứng dụng công nghệ thông tin để đảm bảo TCTT của người dân được ngân sách nhà nước đầu tư. Trong đó, Chính phủ đề nghị các địa phương dành ít nhất 1% ngân sách hàng năm cho ứng dụng công nghệ thông tin. Pháp luật TCTT cũng quy định ngân sách nhà nước đảm bảo kinh phí thực hiện việc cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước.[25] Như vậy, có thể thấy, nguồn vốn đầu tư cho TCTT được sử dụng từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, hiện tại chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về mức kinh phí và cách thức sử dụng ngân sách nhà nước cho việc TCTT. Việc dành 1% ngân sách địa phương hàng năm cho ứng dụng công nghệ thông tin cũng mới chỉ dừng lại ở góc độ khuyến khích của Chính phủ mà chưa có quy định cụ thể ràng buộc trách nhiệm của chính quyền địa phương cũng như mức kinh phí cụ thể hàng năm mà địa phương phải dành cho việc phát triển công nghệ thông tin, đảm bảo TCTT của người dân. Nếu so sánh với một số quốc gia khác thì mức đầu tư cho công nghệ thông tin ở Việt Nam còn thấp. Theo ông Nguyễn Trọng Đường, Phó cục trưởng Cục Tin học hóa, Bộ Thông tin và Truyền thông, các quốc gia Asean chi 1,3-1,5% GDP, còn các nước phát triển chi 2-2,5% GDP trong khi mức chi ở Việt Nam rất khiêm tốn với 0,3-0,4%GDP.[26]
Đối với NLĐ di cư, việc TCTT của nhóm đối tượng này vẫn có sự hạn chế nhất định. Theo nghiên cứu của Oxfam, 67,2% lao động di cư không biết nơi cung cấp thông tin và tư vấn về Bộ luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội, Luật BHYT. Bên cạnh đó, hạn chế trong công tác truyền thông cũng là một rào cản lớn đối với việc tiếp cận ASXH của lao động di cư. Đa số lao động di cư không có hiểu biết đầy đủ về các quyền và lợi ích của mình tại nơi làm việc và nơi cư trú, mà nguyên nhân cơ bản nhất là các chính sách ASXH ít được truyền thông đến họ. Cho đến nay, chưa có chương trình truyền thông đại chúng chuyên biệt chính thức nào dành riêng cho cộng đồng người di cư.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đảm bảo tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản của lao động di cư
Tạo hành lang pháp lý cho phép chuyển dịch cung cấp DVXHCB từ nhà nước sang khu vực tư nhân
Mặc dù trong tiến trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã xác định quan điểm nhà nước chỉ làm những gì tư nhân không làm được hoặc không muốn làm nhưng thực tế Nhà nước vẫn đang trực tiếp cung cấp nhiều dịch vụ công mà khu vực tư nhân hoàn toàn có thể làm tốt. Vì vậy, pháp luật nên được hoàn thiện theo hướng tạo hành lang pháp lý cho phép chuyển dịch dần các dịch vụ thiết yếu như giáo dục, y tế… cho khu vực tư nhân đảm nhiệm và đảm bảo người dân vẫn được tiếp cận các dịch vụ này một cách bình đẳng như Nhà nước trực tiếp cung cấp. Thực hiện điều này cần có quy định chính sách khuyến khích, ưu đãi khi đầu tư cung cấp các dịch vụ này ở vùng nông thôn, vùng miền núi, hải đảo, khu vực dân cư thưa thớt… để tạo sự bình đẳng trong tiếp cận giáo dục cơ bản, y tế cơ bản. Đồng thời, quy định ràng buộc trách nhiệm về chất lượng dịch vụ và kiểm soát chi phí, giá dịch vụ để đảm bảo người dân có thể tiếp cận.
Đối với NLĐ di cư, việc pháp luật quy định cho khu vực tư nhân cung cấp DVXHCB có ý nghĩa lớn đối với nhóm đối tượng này trong tiếp cận DVXHCB. Chẳng hạn, đối với DVGDCB, lao động di cư có thể cho con em mình học tập tại các trường tư thục dân lập với mức học phí trong khả năng chi trả trong bối cảnh các cơ sở giáo dục công lập quá tải như hiện nay. Hoặc đối với dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản, lao động di cư có thể khám bệnh, chữa bệnh BHYT tại nơi mình di cư đến tại cơ sở y tế tư nhân.
Rà soát, loại bỏ các quy định về sổ hộ khẩu, sổ tạm trú trong tiếp cận DVXHCB nhằm tương thích với Luật Cư trú mới
Theo quy định của Luật Cư trú năm 2020, thì “sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã được cấp vẫn được sử dụng và có giá trị như giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú theo quy định của Luật này cho đến hết ngày 31/12/2022” (Khoản 3, Điều 38), điều này có nghĩa, kể từ ngày 01/01/2023, sổ hộ khẩu và sổ tạm trú chính thức hết giá trị sử dụng. Tuy nhiên, hàng loạt các quy định khác liên quan đến điều kiện, thủ tục tiếp cận DVXHCB như điều kiện nhập học trường công lập, hình thức mua BHYT theo hộ gia đình, khám chữa bệnh BHYT, thủ tục xác nhận tình trạng nhà ở, sự phân bổ ngân sách… đều dựa trên hộ khẩu, dân số thường trú nhưng lại chưa có sự sửa đổi để tương thích với quy định của Luật Cư trú nêu trên. Bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú trong quản lý dân cư sẽ rất thuận tiện cho người lao động di cư trong việc tiếp cận DVXHCB. Vì vậy, để tạo sự tương thích, nhất quán trong hệ thống pháp luật thì các quy định liên quan đến điều kiện, thủ tục tiếp cận DVXHCB dựa trên sổ hộ khẩu, sổ tạm trú cần được sửa đổi, loại bỏ trong thời gian sớm nhất, tạo sự thống nhất trong thực tiễn áp dụng.
Từ thành công của các quốc gia trong việc quy định giáo dục bắt buộc 9 năm, 10 năm, 12 năm, đặc biệt là quốc gia láng giềng của Việt Nam là Trung Quốc áp dụng giáo dục bắt buộc 9 năm từ rất sớm (năm 1986). Đến năm 2001, chính phủ Trung Quốc tuyên bố đất nước đã cơ bản thành công trong việc thúc đẩy giáo dục bắt buộc 9 năm từ cấp tiểu học đến trung học cơ sở và do đó xóa nạn mù chữ ở hầu hết các vùng của đất nước. Đến năm 2010, hệ thống giáo dục bắt buộc đã bao phủ hơn 98% thanh thiếu niên cả nước.[27] Giáo dục bắt buộc có vai trò quan trọng trong việc hình thành nên những công dân có chuyên môn và tay nghề để đáp ứng những thay đổi của nền kinh tế. Hiện nay Việt Nam mới chỉ thực hiện giáo dục bắt buộc[28] ở bậc tiểu học, còn bậc mầm non 05 tuổi và trung học cơ sở mới chỉ quy định ở mức phổ cập giáo dục[29]. Thiết nghĩ, trong thời gian tới Việt Nam cũng nên ban hành luật giáo dục bắt buộc 9 năm để tăng khả năng và mức độ tiếp cận giáo dục cơ bản nhằm cải thiện chất lượng dân số và đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội.
Việc quy định giáo dục bắt buộc cần đi đôi với chính sách miễn học phí để đem lại hiệu quả cao trong tiếp cận DVGDCB. Thực tế ở Việt Nam trong một vài năm trở lại đây, một số tỉnh, thành phố của Việt Nam đã bắt đầu triển khai chính sách miễn giảm học phí cho học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông. Điển hình như thành phố Hải Phòng đã bắt đầu hỗ trợ 100% học phí cho trẻ em mầm non đang thực học tại các cơ sở giáo dục mầm non được thành lập, cấp phép hoạt động (cả công lập và tư thục). Đối với học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông và bổ túc có hộ khẩu thường trú, đăng ký tạm trú hoặc có xác nhận của công an về việc sinh sống thực tế tại Hải Phòng, ngân sách thành phố dự kiến hỗ trợ miễn học phí với khoảng hơn 300 tỉ đồng/năm. Tương tự như Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh cũng đã xây dựng lộ trình thực hiện miễn học phí cho học sinh. Từ năm 2019, thành phố thực hiện chính sách giảm học phí đối với học sinh bậc trung học cơ sở và bổ túc trung học cơ sở tại các trường công lập. Học sinh được giảm 40.000 - 55.000 đồng học phí/tháng.[30] Tuy nhiên, chính sách này hiện mới chỉ được thực hiện ở một số ít địa phương. Trong khi đó, nếu so sánh với Trung Quốc, chính sách miễn học phí cho học sinh trong thời gian giáo dục bắt buộc đã được thực hiện từ năm 2006. Việt Nam cũng cần học hỏi kinh nghiệm này từ Trung Quốc, nhanh chóng triển khai thực hiện chính sách miễn học phí giáo dục mầm non 05 tuổi và trung học cơ sở như luật Giáo dục 2019 đã đề ra. Theo đó, các tỉnh có nguồn thu ngân sách lớn như: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng... nên thực hiện miễn học phí cho bậc trung học cơ sở trước. Cùng với đó, Chính phủ cần thành lập Quỹ hỗ trợ các tỉnh khó khăn để tiến tới thực hiện chính sách này đồng bộ trên cả nước. Chính sách miễn học phí cần được thực hiện ở tất cả các trường công lập và hỗ trợ một phần học phí ở các cơ sở giáo dục ngoài công lập.
Về dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản, hiện nay ở Việt Nam chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về đối tượng hưởng, chế độ, quyền lợi hưởng mà chủ yếu các nội dung về chăm sóc y tế cơ bản được thể hiện trong các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hành động theo từng giai đoạn. Với vai trò của chăm sóc y tế cơ bản nói chung, vai trò của nó trong hệ thống ASXH quốc gia và trong mối tương quan với các DVXHCB khác, cần thiết phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về vấn đề này. Văn bản quy phạm pháp luật quy định về chăm sóc y tế cơ bản cần quy định cụ thể về đối tượng được hưởng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản, quyền lợi hưởng và phạm vi dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản, trách nhiệm của các chủ thể… Hơn nữa, ngoài 17 dịch vụ của gói chăm sóc sức khoẻ ban đầu, dự phòng và nâng cao sức khoẻ đã triển khai thực hiện trong thời gian qua, cần bổ sung thêm dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tình dục, sức khoẻ sinh sản cho độ đối tượng vị thành niên và thanh niên. Đây được coi là dịch vụ thiết yếu với sức khoẻ mỗi người trong giai đoạn trưởng thành và đóng vai trò quan trọng với chất lượng dân số của quốc gia.
Hoàn thiện pháp luật BHYT bằng việc ban hành luật mới thay thế Luật BHYT 2008 đã qua nhiều lần sửa đổi bổ sung và hướng dẫn thực hiện. Xét về cơ sở lý luận, đã đến lúc cần ban hành Luật BHYT mới bởi các nội dung không còn đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh pháp luật khi các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này liên lục thay đổi và phát triển. Đây cũng là yêu cầu cấp thiết để hoàn thiện hệ thống phápluật ASXH nói chung. Về thực tiễn, qua nhiều lần sửa đổi bổ sung và hướng dẫn thực hiện, hiện nay có quá nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện gây chồng chéo, khó thực hiện. Thêm vào đó, với hạn chế trong quy định về thông tuyến khám chữa bệnh, Luật BHYT nên được sửa đổi theo hướng thông tuyến khám chữa bệnh BHYT tại các bệnh viện tuyến huyện trên phạm vi cả nước và áp dụng thông tuyến khám chữa bệnh trong điều trị nội trú, ngoại trú bệnh viện tuyến tỉnh. Đồng thời, mở rộng phạm vi thanh toán BHYT đối với một số đối tượng, dịch vụ như: dịch vụ khám sàng lọc trẻ sơ sinh; dịch vụ khám, điều trị suy dinh dưỡng cấp tính cho trẻ dưới 6 tuổi. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người tham gia BHYT, đặc biệt là lao động di cư tham gia BHYT và tăng hấp dẫn cho BHYT nhằm sớm hoàn thành mục tiêu bao phủ BHYT toàn dân trong thời gian sớm nhất.
Để tạo điều kiện cho công nhân tại các khu công nghiệp được tiếp cận nhà ở thuận lợi, cần quy định trách nhiệm của các doanh nghiệp sử dụng số lượng lao động lớn phải dành một tỷ lệ vốn để phát triển nhà ở cho người lao động của mình. Trong đó, có sự hỗ trợ từ Nhà nước về lãi suất ưu đãi vốn vay, tiền sử dụng đất, hỗ trợ thủ tục xây dựng, hỗ trợ thuế thu nhập doanh nghiệp… Quy định doanh nghiệp phải dành một tỷ lệ nguồn kinh phí tính trên quỹ lương hoặc doanh thu để hỗ trợ người lao động thuê nhà, mua nhà. Thực hiện giải pháp này cần sự nỗi lực của chính quyền địa phương như UBND các tỉnh, thành phố trong quy hoạch, bố trí quỹ đất để doanh nghiệp, nhà đầu tư xây dựng nhà ở thương mại giá rẻ, nhà lưu trú cho công nhân đặc biệt là ở các tỉnh, thành phố tập trung nhiều khu công nghiệp với lực lượng lao động đông đảo. Nhà ở thương mại giá rẻ, nhà lưu trú cho công nhân có thể nghiên cứu xây dựng theo loại hình nhà ở căn hộ chung cư, thiết kế căn hộ khép kín, diện tích sử dụng nhỏ, phù hợp với nhu cầu sử dụng của nhiều nhóm đối tượng khác nhau như căn hộ dành cho cá nhân, căn hộ dành cho gia đình. Theo đó, diện tích căn hộ nhà ở giá rẻ có thể nghiên cứu thiết kế với diện tích từ 30m2-70m2và tuân thủ các quy định của quy chuẩn, tiêu chuẩn về quy hoạch, xây dựng hiện hành và đảm bảo đồng bộ với các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.
Hiện nay, các quy định về quyền được cung cấp nước sạch và yêu cầu đối với sản xuất, cung cấp và sử dụng nước sạch mới chỉ được ghi nhận trong văn bản pháp luật có giá trị cao nhất là Nghị định. Sosánh với hành lang pháp lý của các DVXHCB khác và tầm quan trọng của quyền tiếp cận nước sạch đầy đủ đối với sự phát triển con người, hành lang pháp lý cho tiếp cận nước sạch thể hiện sự chưa đầy đủ, chưa được đề cao. Vì vậy, cần bổ sung, hoàn thiện, nâng quy định về sản xuất, cung cấp và sử dụng nước sạch lên thành luật. Luật về cung cấp nước sạch cần quy định cụ thể đối tượng được tiếp cận nước sạch, chủ thể sản xuất, cung cấp nước sạch, việc sử dụng nước sạch, quy định về quy chuẩn, tiêu chuẩn, chất lượng nước sạch, trách nhiệm quản lý nhà nước về cấp nước, trách nhiệm của chủ thể cung cấp nước sạch, nguồn vốn đầu tư cho công trình cấp nước, quy định về xã hội hoá trong cung cấp nước, kiểm soát tài sản công trình cấp nước, trách nhiệm quản lý công trình cấp nước sau khi đầu tư đưa vào vận hành, phương pháp tính giá nước, chế tài đối với các hoạt động vi phạm pháp luật về sản xuất, cung cấp nước sạch…
Kinh nghiệm từ Nam Phi cho thấy hiệu quả bao phủ tiếp cận nước sạch ở quốc gia này một phần đến từ chính sách hỗ trợ từ Nhà nước. Nam Phi hỗ trợ miễn phí một lượng nước tối thiểu cho các hộ gia đình và nếu sử dụng quá lượng nước này thì người dân phải trả tiền. Với thực trạng tỷ lệ bao phủ sử dụng nước sạch ở Việt Nam còn thấp như hiện nay và khả năng khó hoàn thành mục tiêu phát triển bền vững về đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh cho tất cả mọi người (mục tiếu số 6) vào năm 2030[31] thì đây là một giải pháp nên cân nhắc áp dụng. Đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chủ nhà trọ thu tiền nước sạch quá cao so với giá nước được quy định.
Để thống nhất với hệ thống văn bản pháp luật quốc gia và mở rộng quyền TCTT của cá nhân, tổ chức, đồng thời thúc đẩy minh bạch, trách nhiệm giải trình và phòng, chống tham nhũng của các cơ quan, tổ chức, thiết nghĩ Luật TCTT cần mở rộng phạm vi chủ thể cung cấp thông tin. Theo đó, chủ thể có nghĩa vụ công khai, cung cấp thông tin ngoài cơ quan nhà nước còn có các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp cũng có trách nhiệm công khai, cung cấp thông tin. Lý do là vì nhu cầu được tìm kiếm, tiếp nhận thông tin của cá nhân, tổ chức không chỉ dừng lại đối với các thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra, nắm giữ mà còn có nhu cầu được biết các thông tin liên quan, ảnh hưởng tới đời sống của cá nhân, tới hoạt động của tổ chức. Ví dụ, các thông tin về cách tính giá nước sạch do các đơn vị cung cấp nước sạch áp dụng, các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh môi trường cần đáp ứng trong quá trình sản xuất, kinh doanh, thông tin về giá, thời điểm mở bán nhà ở xã hội...
Để đảm bảo TCTT cho nhóm người lao động di cư, Bộ Lao động thương binh và Xã hội cần nghiên cứu kênh thông tin dành riêng cho người lao động di cư như trang thông tin điện tử, nền tảng mạng xã hội… Trong đó cung cấp thông tin về pháp luật liên quan đến họ như quy định của pháp luật lao động, pháp luật bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, pháp luật về cư trú, ưu đãi, chính sách về nhà ở, các thông tin về thị trường lao động… Qua đó, họ có thể nắm bắt được quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia quan hệ lao động, khi cư trú ở nơi di cư đến, cơ hội về nhà ở, cơ hội tìm kiếm việc làm…
Kết luận
Đảm bảo DVXHCB cho lao động di cư là đảm bảo quyền con người, thể hiện một hệ thống an sinh xã hội tiến bộ, toàn diện và cần được thực hiện đồng bộ bằng biện pháp xã hội, biện pháp kinh tế và biện pháp pháp lý. Thực trạng pháp luật về đảm bảo tiếp cận DVXHCB của lao động di cư bên cạnh những điểm tích cực còn tồn tại những hạn chế nhất định. Trong đó, pháp luật về tiếp cận DVGDCB còn bất cập trong quy định về điều kiện học trường công lập, số năm giáo dục bắt buộc ở Việt Nam còn tương đối thấp so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản còn thiếu một số dịch vụ thiết yếu, cơ bản như chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục cho thanh thiếu niên, quy định về thông tuyến khám chữa bệnh vẫn chưa phát huy hiệu quả trong khám, chữa bệnh của lao động di cư. Nguồn tài chính đầu tư cho nước sạch, nhà ở, tiếp cận thông tin còn hạn chế cũng làm ảnh hưởng đến quyền tiếp cận DVXHCB của lao động di cư. Do vậy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật liên quan nhằm hoàn thiện pháp luật về đảm bảo tiếp cận DVXHCB của nhóm đối tượng này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Antonella Corsi-bunker, G>uide to the education system in the United States https://isss.umn.edu/publications/USEducation/2.pdf
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2021), Báo cáo Quốc gia năm 2020: tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
3. Chính phủ Ấn Độ (2012), Báo cáo của Ủy ban Kế hoạch của Nhóm Công tác về an sinh Xã hội cho Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 (2007-2012) (Planning Commission Report of the Working Group on Social Security for the Eleventh Five Year Plan), tr.17
4. Chu Zhaohui, The important of compulsory education, China Daily, 2019-07-22
5. Dạ Khánh (2021), Phát triển nhà ở giá rẻ: tìm giải pháp hiệu quả, Báo Hà Nội mới, ngày 7/1/2021https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Bat-dong-san/988002/phat-trien-nha-o-gia-re-tim-giai-phap-hieu-qua
6. Đặng Chung (2019), Các tỉnh miễn giảm, Hà Nội lại liên tục tăng học phí, báo Lao động điện từ, ngày 10/12/2019 https://laodong.vn/xa-hoi/cac-tinh-mien-giam-ha-noi-lai-lien-tuc-tang-hoc-phi-771045.ldo
7. Duy Hưng, An sinh xã hội cho lao động di cư, tạp chí Con số sự kiện - Tổng cục Thống kê https://consosukien.vn/an-sinh-xa-hoi-cho-lao-dong-di-cu.htm, truy cập ngày 6/2/2023
8. Hiếu Nguyễn, Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng chương trình giáo dục phổ thônghttps://www.bentre.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=1365%3Akinh-nghim-quc-t-v-xay-dng-chng-trinh-giao-dc-ph-thong&catid=22%3Atin-t-cac-bao&Itemid=69, truy cập ngày 1/3/2023
9. Møller, V. and L. Schlemmer (1983), Quality of Life in South Africa: Towards an Instrument for the Assessment of Quality of Life and Basic Needs, Nghiên cứu chỉ số xã hội, tập 12, số 3, tr. 225-279.
10. Nguyễn Hữu Chí (2017), Tổng quan về lao động di cư trong nước và những thách thức đặt ra ở Việt Nam, chuyên đề kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế - Vấn đề pháp luật đặt ra đối với lao động di cư – kinh nghiệm Việt Nam và Trung Quốc, Đại học Luật Hà Nội, 2017.