Về nguyên tắc sắp xếp đơn vị hành chính, Đề án nêu rõ,
việc sắp xếp đơn vị hành chính các cấp ngoài các tiêu chí về diện tích tự
nhiên, quy mô dân số theo quy định của pháp luật, cần cân nhắc thấu đáo các
tiêu chí về lịch sử, truyền thống, văn hóa, dân tộc; vị trí, điều kiện địa lý;
quy mô, trình độ phát triển kinh tế - xã hội; hạ tầng giao thông, công nghệ
thông tin; yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia và hội nhập quốc tế.
Đặt mục tiêu cao nhất là phát triển đất nước, mở rộng
không gian phát triển cho đơn vị hành chính (ĐVHC) mới, phát huy vai trò dẫn dắt
của các vùng động lực, hành lang kinh tế, cực tăng trưởng; ưu tiên sắp xếp các
ĐVHC miền núi, đồng bằng với các ĐVHC có biển; kết hợp hài hòa, hợp lý các ĐVHC
có vị trí liền kề gắn với yêu cầu định hướng phát triển để hỗ trợ lẫn nhau,
cùng thúc đẩy phát triển kinh tế của ĐVHC sau sắp xếp và yêu cầu, định hướng
phát triển nhanh, bền vững của đất nước trong giai đoạn mới. Ưu tiên bố trí các
khu thương mại tự do, khu, cụm công nghiệp, đô thị, cảng biển, logistics, hồ chứa
nước, đập thủy điện,... trong phạm vi 01 ĐVHC cấp xã để thuận lợi trong quản lý
nhà nước.
Chi tiết phương án sắp xếp đơn vị hành chính các cấp
Nguyên tắc xác định tên gọi
Đề án nêu rõ: Việc đặt tên cho ĐVHC sau sắp xếp phải
được nghiên cứu kỹ lưỡng, thấu đáo, cân nhắc thận trọng các yếu tố truyền thống,
lịch sử, văn hoá.
Ưu tiên sử dụng một trong các tên gọi của các ĐVHC trước
khi sáp nhập để đặt tên cho ĐVHC hình thành mới, hạn chế tối đa tác động ảnh hưởng
tới người dân, doanh nghiệp do phải chuyển đổi giấy tờ, chỉ dẫn địa lý liên
quan đến ĐVHC cấp tỉnh.
Tên gọi của ĐVHC mới cần dễ nhận diện, ngắn gọn, dễ đọc,
dễ nhớ, bảo đảm tính hệ thống, khoa học và phát huy được lợi thế so sánh của địa
phương, phù hợp với xu thế hội nhập.
Nghiên cứu đặt tên của xã, phường theo số thứ tự hoặc
theo tên của ĐVHC cấp huyện (trước sắp xếp) có gắn với số thứ tự để thuận lợi
cho việc số hoá, cập nhật dữ liệu thông tin.
Tên của xã, phường mới sau sắp xếp không được trùng với
tên của ĐVHC cùng cấp hiện có trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương hoặc phạm vi tỉnh, thành phố dự kiến thành lập theo định hướng sắp xếp
ĐVHC cấp tỉnh đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Nguyên tắc xác định trung tâm hành chính - chính trị
Lựa chọn trung tâm hành chính - chính trị của 01 trong
số các ĐVHC hiện nay là trung tâm hành chính - chính trị của ĐVHC mới để bảo đảm
chính quyền địa phương nhanh chóng đi vào hoạt động ổn định.
Trung tâm hành chính - chính trị của ĐVHC mới có vị
trí địa lý thuận lợi, hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, nhất là hệ thống giao
thông phát triển (sân bay, đường bộ, cảng,...), dễ dàng kết nối với các khu vực
trong nội tỉnh, thành phố và các đô thị lớn, trung tâm kinh tế của cả nước hoặc
với hệ thống không gian biển.
Trung tâm hành chính - chính trị của ĐVHC mới cần có
không gian phát triển trong tương lai; phù hợp với định hướng phát triển kinh tế
- xã hội của ĐVHC mới, bảo đảm hài hòa, hợp lý, tránh sự mất cân đối giữa các địa
phương khi sáp nhập và giữ vững quốc phòng an ninh.
Sau khi ĐVHC mới đi vào hoạt động ổn định, có thể
nghiên cứu quy hoạch, xây dựng các trung tâm hành chính - chính trị mới hợp lý,
phù hợp với xu thế phát triển chung của địa phương và tạo ra không gian phát
triển mới.
6 tiêu chí sắp xếp, sáp nhập ĐVHC cấp tỉnh
Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử hình thành, phát triển,
quá trình sắp xếp ĐVHC các cấp ở Việt Nam, cơ sở khoa học về các yếu tố cấu
thành ĐVHC cấp tỉnh và kinh nghiệm quốc tế, đề xuất 06 tiêu chí sắp xếp, sáp nhập
ĐVHC cấp tỉnh gồm: Diện tích tự nhiên; quy mô dân số; tiêu chí về lịch sử, truyền
thống, văn hoá, dân tộc; tiêu chí về địa kinh tế; tiêu chí về địa chính trị;
tiêu chí về quốc phòng, an ninh.
Căn cứ vào 6 tiêu chí và định hướng của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư tại Kết luận số 127-KL/TW ngày 28/02/2025, Kết luận số 130-KL/TW
ngày 14/3/2025 và kết luận số 137-KL/TW ngày 28/3/2025, Chính phủ đã nghiên cứu
kỹ lưỡng, đa chiều với tư duy đổi mới và tầm nhìn chiến lược xây dựng phương án
sắp xếp, sáp nhập ĐVHC cấp tỉnh trình Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương
thông qua với định hướng cụ thể như sau:
Có tổng số 52 ĐVHC cấp tỉnh thực hiện sắp xếp, gồm: 04
thành phố: Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ và 48 tỉnh: Hà
Nam, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Thái Bình, Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình,
Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Hoà Bình, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên
Bái, Hà Giang, Ninh Thuận, Quảng Trị, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Khánh
Hoà, Đắk Nông, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Thuận, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu,
Bến Tre, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Hậu Giang, Trà Vinh, Tiền Giang, Sóc Trăng, Đồng
Tháp, An Giang, Long An, Cà Mau, Quảng Nam, Bình Định, Đắk Lắk, Đồng Nai, Gia
Lai, Kon Tum, Lâm Đồng và Kiên Giang.
Riêng đối với tỉnh Cao Bằng có diện tích tự nhiên chưa
đạt theo quy định (6.700,4 km2 chỉ đạt 83,8% tiêu chuẩn) nhưng không thực hiện
sắp xếp vì các lý do: (1) Tỉnh có đường biên giới quốc gia rất dài giáp với nước
Trung Quốc, địa hình đồi núi cao chia cắt phức tạp, hiểm trở, có gần 95% dân số
là đồng bào dân tộc thiểu số; (2) Các tỉnh giáp ranh đều không phù hợp để sắp xếp,
sáp nhập: Phía Tây giáp ranh tỉnh Hà Giang đã dự kiến sáp nhập với tỉnh Tuyên
Quang thành một tỉnh mới có diện tích tự nhiên lớn. Phía Nam giáp ranh với tỉnh
Bắc Kạn nhưng đã dự kiến sáp nhập với tỉnh Thái Nguyên. Phía Đông giáp ranh với
tỉnh Lạng Sơn có diện tích lớn và đã bảo đảm đạt 100% cả 2 tiêu chuẩn về diện
tích và quy mô dân số, nếu sáp nhập tỉnh Cao Bằng và tỉnh Lạng Sơn sẽ thành một
tỉnh mới có chiều dài đường biên giới lớn, khó khăn trong công tác bảo đảm quốc
phòng an ninh.
Phương án sắp xếp cụ thể đối với 52 ĐVHC cấp tỉnh
1- Sáp nhập tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang thành 1
tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Tuyên Quang, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại
thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự
nhiên 13.795,6 km2 và quy mô dân số 1.731.600 người.
2- Sáp nhập tỉnh Lào Cai và tỉnh Yên Bái thành 1 tỉnh
mới có tên gọi là tỉnh Lào Cai, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành
phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên 13.257
km2 và quy mô dân số 1.656.500 người.
3- Sáp nhập tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Thái Nguyên thành 1 tỉnh
mới có tên gọi là tỉnh Thái Nguyên, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại
thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự
nhiên 8.375,3 km2và quy mô dân số 1.694.500 người.
4- Sáp nhập tỉnh Hòa Bình, tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Phú
Thọ để thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Phú Thọ, trung tâm hành chính -
chính trị đặt tại thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ hiện nay (giảm 2 tỉnh) có diện
tích tự nhiên 9.361,4 km2 và quy mô dân số 3.663.600 người.
5- Sáp nhập tỉnh Bắc Giang và tỉnh Bắc Ninh (đã được
quy hoạch đến năm 2030 trở thành thành phố trực thuộc trung ương) thành 1 tỉnh
mới có tên gọi là tỉnh Bắc Ninh, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành
phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên
4.718,6 km2 và quy mô dân số 3.509.100 người.
6- Sáp nhập tỉnh Thái Bình và tỉnh Hưng Yên thành 1 tỉnh
mới có tên gọi là tỉnh Hưng Yên, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành
phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên
2.514,8 km2và quy mô dân số 3.208.400 người.
7- Sáp nhập tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng
thành 1 thành phố trực thuộc trung ương có tên gọi là thành phố Hải Phòng,
trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành phố Thủy Nguyên, thành phố Hải
Phòng hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên 3.194,7 km2 và quy mô dân số
4.102.700 người.
8- Sáp nhập tỉnh Hà Nam, tỉnh Nam Định và tỉnh Ninh
Bình (đã được quy hoạch đến năm 2030, cơ bản đạt tiêu chí thành phố trực thuộc
Trung ương) thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Ninh Bình, trung tâm hành chính
- chính trị đặt tại thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình hiện nay (giảm 2 tỉnh) có
diện tích tự nhiên 3.942,6 km2 và quy mô dân số 3.818.700 người.
9- Sáp nhập tỉnh Quảng Bình và tỉnh Quảng Trị thành 1
tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Quảng Trị, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại
thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự
nhiên 12.700 km2và quy mô dân số 1.584.000 người.
10- Sáp nhập tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng thành
1 thành phố trực thuộc trung ương có tên gọi là thành phố Đà Nẵng, trung tâm
hành chính - chính trị đặt tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng hiện nay (giảm
1 tỉnh) có diện tích tự nhiên 11.859,6 km2 và quy mô dân số 2.819.900 người.
11- Sáp nhập tỉnh Kon Tum và tỉnh Quảng Ngãi thành 1 tỉnh
mới có tên gọi là tỉnh Quảng Ngãi, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại
thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự
nhiên 14.832,6 km2 và quy mô dân số 1.861.700 người.
12- Sáp nhập tỉnh Gia Lai và tỉnh Bình Định thành 1 tỉnh
mới có tên gọi là tỉnh Gia Lai, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành
phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên
21.576,5 km2 và quy mô dân số 3.153.300 người.
13- Sáp nhập tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Khánh Hòa (đã được
quy hoạch đến năm 2030 trở thành thành phố trực thuộc trung ương) thành 1 tỉnh
mới có tên gọi là tỉnh Khánh Hòa, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại
thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự
nhiên 8555,9km2 và quy mô dân số 1.882.000 người.
14- Sáp nhập tỉnh Đắk Nông, tỉnh Bình Thuận và tỉnh
Lâm Đồng thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Lâm Đồng, trung tâm hành chính -
chính trị đặt tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng hiện nay (giảm 2 tỉnh) có diện
tích tự nhiên 24.233,1 km2 và quy mô dân số 3.324.400 người.
15- Sáp nhập tỉnh Phú Yên và tỉnh Đắk Lắk thành 1 tỉnh
mới có tên gọi là tỉnh Đắk Lắk, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành
phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên
18.096,4 km2 và quy mô dân số 2.831.300 người.
16- Sáp nhập tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tỉnh Bình Dương
và Thành phố Hồ Chí Minh thành 1 thành phố trực thuộc trung ương có tên gọi là
Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại Quận 1, Thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay (giảm 2 tỉnh), có diện tích tự nhiên 6.772,6 km2 và
quy mô dân số 13.608.800 người.
17- Sáp nhập tỉnh Bình Phước và tỉnh Đồng Nai thành 1
tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Đồng Nai, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại
thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên
12.737,2 km2 và quy mô dân số 4.427.700 người.
18- Sáp nhập tỉnh Tây Ninh và tỉnh Long An thành 1 tỉnh
mới có tên gọi là tỉnh Tây Ninh, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành
phố Tân An, tỉnh Long An hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên 8.536,5
km2 và quy mô dân số 2.959.000 người.
19- Sáp nhập tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Hậu Giang và thành
phố Cần Thơ thành 1 thành phố trực thuộc trung ương mới có tên gọi là thành phố
Cần Thơ, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại quận Ninh Kiều, thành phố Cần
Thơ hiện nay (giảm 2 tỉnh), có diện tích tự nhiên 6.360,8 km2 và quy mô dân số
3.207.000 người.
20- Sáp nhập tỉnh Bến Tre, tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà
Vinh thành 1 tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Vĩnh Long, trung tâm hành chính -
chính trị đặt tại thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long hiện nay (giảm 2 tỉnh) có
diện tích tự nhiên 6.296,2 km2 và quy mô dân số 3.367.400 người.
21- Sáp nhập tỉnh Tiền Giang và tỉnh Đồng Tháp thành 1
tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Đồng Tháp, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại
thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên 5.938,7
km2 và quy mô dân số 3.397.200 người.
22- Sáp nhập tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau thành 1 tỉnh
mới có tên gọi là tỉnh Cà Mau, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại thành
phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự nhiên 7.942,4
km2 và quy mô dân số 2.140.600 người.
23- Sáp nhập tỉnh Kiên Giang và tỉnh An Giang thành 1
tỉnh mới có tên gọi là tỉnh An Giang, trung tâm hành chính - chính trị đặt tại
thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang hiện nay (giảm 1 tỉnh) có diện tích tự
nhiên 9.888,9 km2 và quy mô dân số 3.679.200 người.
Phương án tổ chức lại ĐVHC cấp xã
Trên cơ sở định hướng của Bộ Chính trị, Ban Bí thư tại
Kết luận số 127-KL/TW ngày 28/02/2025, Kết luận số 130-KL/TW ngày 14/3/2025, Kết
luận số 137-KL/TW ngày 28/3/2025 và Nghị quyết số 60-NQ/TW Hội nghị lần thứ 11
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Chính phủ đã nghiên cứu, hoàn thiện kỹ
lưỡng, đa chiều với tư duy đổi mới, từ đó đề xuất các nguyên tắc tổ chức sắp xếp,
tổ chức lại các ĐVHC cấp xã hiện nay thành các ĐVHC cấp xã mới, như sau:
Sắp xếp, tổ chức lại các ĐVHC cấp xã hiện nay theo hướng
bỏ cấp trung gian (cấp huyện), hình thành các ĐVHC cấp xã mới, gồm xã, phường
và đặc khu (không còn loại hình ĐVHC thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc
thành phố trực thuộc trung ương, thị xã, quận, huyện, thị trấn).
ĐVHC cấp xã sau sắp xếp phải đảm bảo chính quyền địa
phương cấp xã quản lý hiệu quả địa bàn, nắm chắc tình hình, gần dân, sát dân,
phục vụ nhân dân tốt nhất. Trường hợp sắp xếp phường với các ĐVHC cùng cấp thì
ĐVHC sau sắp xếp là phường; trường hợp sắp xếp xã, thị trấn thì ĐVHC mới sau sắp
xếp là xã.
Chuyển các huyện đảo, thành phố đảo hiện nay thành
ĐVHC cấp xã có tên gọi là đặc khu. Theo đó, hình thành 11 đặc khu thuộc tỉnh từ
1 huyện đảo, (11 huyện đảo, gồm: Vân Đồn, Cô Tô, Cát Hải, Trường Sa, Hoàng Sa,
Phú Quý, Kiên Hải, Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ, Lý Sơn, Côn Đảo). Riêng đối với thành
phố Phú Quốc tỉnh Kiên Giang, cấp có thẩm quyền đã đồng ý chủ trương tách xã Thổ
Châu thuộc thành phố Phú Quốc để thành lập 01 huyện riêng, theo đó nghiên cứu
thành lập 02 đặc khu: Phú Quốc và Thổ Châu.
Trường hợp thực hiện sắp xếp ĐVHC cấp xã làm thay đổi
địa giới ĐVHC cấp huyện thì không phải xem xét điều kiện, tiêu chuẩn và không
phải thực hiện quy trình, thủ tục điều chỉnh địa giới của ĐVHC cấp huyện mà
ĐVHC cấp xã đó trực thuộc.
Không bắt buộc sắp xếp đối với các ĐVHC cấp xã có vị
trí biệt lập và khó tổ chức giao thông kết nối với các ĐVHC liền kề hoặc có vị
trí đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh và việc bảo vệ chủ
quyền quốc gia.
Tổng số lượng ĐVHC xã, phường sau sắp xếp giảm còn khoảng
60 - 70% so với số lượng ĐVHC cấp xã hiện nay trên địa bàn tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; đồng thời phải bảo đảm tương quan hợp lý, tránh tạo sự giãn
cách, chênh lệch lớn về diện tích tự nhiên và quy mô dân số giữa các xã, phường
mới sau sắp xếp.
Chi tiết phương án tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp
Theo Đề án, phương án tổ chức chính quyền địa phương
02 cấp như sau: Cấp tỉnh gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; (2) cấp xã
gồm xã, phường (trong đất liền) và đặc khu (ở hải đảo). Theo đó, bỏ ĐVHC cấp
huyện và thị trấn.
Cơ cấu tổ chức chính quyền địa phương cấp tỉnh cơ bản
giữ nguyên như chính quyền địa phương cấp tỉnh như hiện nay.
Chính quyền địa phương cấp tỉnh gồm có Hội đồng nhân
dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND); HĐND tỉnh thành lập 03 Ban là Ban Pháp chế,
Ban Kinh tế - Ngân sách, Ban Văn hóa - Xã hội (đối với tỉnh có nhiều đồng bào
dân tộc thiểu số có thể thành lập thêm Ban Dân tộc). HĐND thành phố trực thuộc
trung ương thành lập 04 Ban (Ban Pháp chế, Ban Kinh tế - Ngân sách, Ban Văn hóa
- Xã hội và Ban Đô thị) theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2025.
Số lượng cán bộ, công chức, viên chức của cấp tỉnh sau
sắp xếp tối đa không vượt quá tổng số cán bộ, công chức, viên chức (số có mặt)
của cấp tỉnh trước sắp xếp và thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm trong thời hạn
05 năm cơ bản bố trí theo đúng quy định. Sau khi chính quyền địa phương cấp tỉnh
sau sắp xếp đi vào hoạt động, đề nghị Bộ Chính trị giao Ban Tổ chức Trung ương
phối hợp với Đảng uỷ Chính phủ và các cơ quan liên quan căn cứ quy mô dân số,
diện tích tự nhiên, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp
tỉnh để xây dựng, hoàn thiện vị trí việc làm trình cấp có thẩm quyền giao biên
chế cho các địa phương.
Về phương án bố trí đội ngũ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh:
Đề nghị Bộ Chính trị giao Ban Tổ chức Trung ương tham mưu, hướng dẫn bố trí, sắp
xếp đội ngũ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh (Đảng, đoàn thể, HĐND, UBND cấp tỉnh và
các Ban chuyên môn của cơ quan Đảng, đoàn thể) của các địa phương sau sáp nhập,
đặc biệt là nhân sự bố trí đối với cấp trưởng và định hướng giải quyết đối với
số lượng cấp phó dôi dư sau sáp nhập các tỉnh, thành phố. Chính phủ chỉ đạo Bộ
Nội vụ hướng dẫn việc sắp xếp, bố trí đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của
các cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND cấp tỉnh và các đơn
vị sự nghiệp công lập. Trước mắt, giữ nguyên số lượng cán bộ, công chức, viên
chức trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị; sau khi các cơ quan này đi vào hoạt động
ổn định, giao Bộ Nội vụ phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương rà soát, hoàn thiện
vị trí việc làm, xác định biên chế các địa phương trình cấp có thẩm quyền giao
biên chế của cả hệ thống chính trị ở các địa phương.
Tổ chức chính quyền địa phương cấp xã (xã, phường, đặc khu)
Chính quyền địa phương cấp xã gồm có HĐND và UBND.
HĐND cấp xã thành lập 02 Ban là Ban Pháp chế và Ban Kinh tế - Xã hội.
Về tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp xã: Do bỏ
toàn bộ ĐVHC cấp huyện, tổ chức sắp xếp lại các ĐVHC cấp xã để hình thành các
ĐVHC cấp xã có quy mô lớn hơn so với cấp xã hiện nay; đồng thời chuyển toàn bộ
nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp huyện hiện nay về cho xã,
phường, đặc khu thực hiện. Theo đó, Chính phủ dự kiến UBND cấp xã tổ chức tối
đa 04 Phòng chuyên môn và tương đương phù hợp với đặc điểm đô thị, nông thôn, hải
đảo (đặc khu).
Đối với ĐVHC cấp xã giữ nguyên trạng (không sắp xếp)
thì có thể không tổ chức Phòng chuyên môn. Chính phủ dự kiến bố trí tăng thêm
01 Phó Chủ tịch UBND và một số công chức cho UBND cấp xã nơi không tổ chức
Phòng chuyên môn và giao chính quyền địa phương cấp tỉnh quyết định cụ thể đối
với từng ĐVHC cấp xã trên địa bàn.
Đối với trường hợp sắp xếp từ 02 ĐVHC cấp xã trở lên
thành 01 ĐVHC cấp xã mới, định hướng tổ chức tối đa 04 Phòng chuyên môn và
tương đương thuộc UBND cấp xã.
Định hướng tổ chức 04 Phòng và tương đương gồm:
(1) Văn phòng HĐND và UBND (tham mưu thực hiện nhiệm vụ
chung của HĐND và UBND cấp xã);
(2) Phòng Kinh tế (đối với xã, đặc khu) hoặc Phòng
Kinh tế, Hạ tầng và Đô thị (đối với phường và đặc khu Phú Quốc);
(3) Phòng Văn hóa - Xã hội;
(4) Trung tâm phục vụ hành chính công.
Về biên chế cán bộ, công chức, viên chức cấp xã, Đề án
nêu rõ: Do quy mô ĐVHC cấp xã lớn hơn so với hiện nay và nhiệm vụ, quyền hạn của
chính quyền địa phương cấp xã tăng lên (thực hiện toàn bộ nhiệm vụ, quyền hạn của
chính quyền địa phương cấp huyện và cấp xã hiện nay). Theo đó, Chính phủ dự kiến
biên chế cán bộ, công chức, viên chức cấp xã theo định hướng như sau: Trước mắt
giữ nguyên số lượng biên chế cán bộ, công chức, viên chức của cấp huyện và cán
bộ, công chức của cấp xã hiện có trước sắp xếp để bố trí cho các ĐVHC cấp xã mới
(sau sắp xếp). Thực hiện việc rà soát, tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cấp xã đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ, bảo đảm trong thời hạn 05 năm cơ bản theo đúng quy định. Giao Bộ Nội
vụ phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương và các cơ quan liên quan căn cứ quy mô
dân số, diện tích tự nhiên, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa
phương cấp xã làm cơ sở xây dựng, hoàn thiện vị trí việc làm trình cấp có thẩm
quyền giao biên chế cán bộ, công chức, viên chức cấp xã cho các địa phương.
Kết thúc việc sử dụng người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã; giao chính quyền địa phương xem xét, có thể sắp xếp người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tham gia công tác tại
thôn, tổ dân phố; thực hiện chính sách nghỉ việc đối với người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã mà không bố trí công tác theo quy định.
Căn cứ quy mô dân số, diện tích tự nhiên, trình độ
phát triển kinh tế-xã hội của các ĐVHC cấp xã, Chính phủ định hướng giao tổng
biên chế chính quyền địa phương cấp xã cho các địa phương (dự kiến bình quân
khoảng 32 biên chế/01 cấp xã). Trên cơ sở đó, giao chính quyền địa phương cấp tỉnh
quyết định số lượng biên chế đối với chính quyền địa phương từng ĐVHC cấp xã
trên địa bàn cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Xem toàn văn Quyết định số 759/QĐ-TTg tại đây.