Tóm tắt:
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử là một trong những nguyên tắc quan trọng, chi phối hoạt mọi lĩnh vực, bao gồm cả tư pháp dân sự. Nguyên tắc Tòa án độc lập xét xử được áp dụng trong lĩnh vực tư pháp dân sự được đảm bảo để hoạt động xét xử các vụ án dân sự không chịu sức ép, bị chi phối bởi bất kỳ một yếu tố nào nhằm bảo vệ lợi ích của các bên một cách công bằng. Bài viết phân tích cách tiếp cận mới đối với việc áp dụng nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tư pháp dân sự, từ đó nêu kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc này trong giải quyết việc dân sự.
Abstract. Judges, People's Jurors are independent and obey only to the law in judicial activities is one of fundamental principles of justice in all judicial fields, including civil justice. Application of the principle of judicial independence in civil justice ensures judges and jurors are not under any pressure or influence by any factor, any person in order to fairly protect the interests of the parties. The article analyzes the new approach to applying the principle of independent judgment and only obeying the law in civil justice, thereby making recommendations to improve the effectiveness of applying this principle in resolving civil matters.
Keywords: judicial independence; civil justice; civil cases, civil matters; person conducting civil proceedings; Judge, Jury
1. Dẫn đề
Trong
xã hội dân chủ pháp quyền, xét xử độc lập của Tòa án đã trở thành một trong những
nguyên tắc hiến định ở hầu hết các quốc gia nhằm bảo
đảm sự công bằng trong việc giải quyết các tranh chấp pháp lý của Tòa án. Có ý
kiến cho rằng “không có sự độc lập của Tòa án thì sẽ không có công lý và không
có được niềm tin của nhân dân vào công lý”[1]. Độc lập của Tòa án trong hoạt động xét xử đã
trở thành giá trị đồng hành với công lý và “được coi là một trong những yêu cầu
tiên quyết của nền pháp quyền dân chủ”[2]. Ở Việt Nam, nguyên tắc Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử độc lập trong TTDS được hiểu là không ai và không một cơ
quan nào có quyền can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án; đồng thời, xét xử
độc lập còn được hiểu là sự độc lập của mỗi cấp xét xử theo thẩm quyền. Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
2. Những giá trị phổ quát và đặc thù của nguyêntắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử
vụ án dân sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Ngày nay, trên thế giới, nguyên tắc xét xử độc lập của Tòa án trở
thành giá trị mang tính phổ quát, phổ biến, được pháp luật quốc tế và pháp luật
của nhiều quốc gia ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (tại Điều 10) và Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (tại khoản 1, Điều 14) khẳng định
rằng: mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án
có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được thành lập trên cơ sở pháp luật.
Các văn
kiện quốc tế và ở các khu vực trên thế giới đều đưa ra những nguyên tắc căn bản
để các quốc gia thành viên xây dựng chế định bảo đảm Tòa án xét xử độc lập. Chẳng
hạn, Nghị quyết 40/32 ngày 29-11-1985 và
Nghị quyết 40/146 ngày 13-12-1985 quy định các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập của Tòa
án, khuyến nghị các nội dung và điều kiện tiên quyết để bảo đảm để Tòa án độc
lập, xét xử phải “vô tư, không
thiên vị”[3]. Tương
tự, Hiến
chương châu Âu về quy chế đối với Thẩm phán năm 1998; Hiến chương phổ quát về Thẩm phán năm 1999; Quy
chế Thẩm phán IberoAmerica năm 2001; Nguyên tắc ứng xử tư pháp Bangalore về đạo
đức tư pháp năm 2002 đã ghi nhận rõ nội dung tính độc lập của cá nhân Thẩm phán.
Như vậy, Tòa án độc lập là việc Tòa án giải quyết các vụ
án phải hoàn toàn có khả năng thực hiện các công việc chuyên môn mà không bị ảnh
hưởng bởi áp lực từ cơ quan lập pháp, hành pháp, của Tòa án cấp trên hay cấp
mình, hoặc bất kỳ cơ quan, cá nhân nào. Ngược lại, Tòa án độc lập là điều kiện tiên quyết nhằm bảo đảm công lý,
bảo vệ quyền con người.
Độc lập của Tòa án
phải được ghi nhận ở trong Hiến pháp hoặc ở các đạo luật quan trọng trong pháp
luật của các quốc gia. Tuyên bố Bắc Kinh (1995) về các nguyên tắc độc lập tư pháp đã nêu rõ rằng độc lập tư
pháp có nghĩa là “Cơ quan tư pháp…
không chịu sự tác động sai trái, trực tiếp hay gián tiếp của bất kỳ cá nhân, tổ
chức, hay cơ quan nào”[4].
Tương tự, Hiến pháp năm 2003 của Ý (tại Điều
104) quy định: “Tư pháp là một nhánh tự trị và độc lập với tất cả các
nhánh quyền lực khác”[5];
hay Hiến pháp năm 1996 của Cộng hòa Nam Phi (tại Điều 165) quy định: “Quyền
tư pháp của nước Cộng hoà được trao cho các toà án. Các toà án độc lập và chỉ
phải tuân thủ Hiến pháp và luật, và phải áp dụng Hiến pháp và luật một cách vô
tư, không sợ hãi hay thiên vị”[6].
Trong khi đó, Hiến pháp năm 1993 của Liên bang Nga quy định: “Các cơ quan lập
pháp, hành pháp, tư pháp độc lập với nhau”[7]
(Điều 10). Hiến pháp năm 1946 của Nhật Bản (tại Điều 76) quy định: “Các Thẩm
phán xét xử một cách độc lập, theo lương tâm, Hiến pháp và luật pháp”[8].
Điều dễ hiểu, rằng nhiều quốc gia ghi nhận và thực hiện nguyên tắc Tòa án xét
xử độc lập bởi vì “độc lập tư pháp mang lại được giá trị cao nhất cho xã
hội là người được sống trong một xã hội mà công lý ngự trị, được công lý bảo vệ
chống lại những sự xâm hại đối với tài sản, sức khỏe, nhân phẩm và tính mạng”[9].
Việc ghi nhận, thực
thi nguyên tắc Tòa án độc lập nói chung và trong xét
xử VADS nói riêng có tính đặc thù vì ở mỗi quốc gia do điều kiện chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa khác nhau. Trong khi ở nhiều quốc gia, quyền tư pháp
và sự độc lập của Tòa án là tuyệt đối do cấu trúc mô hình quyền lực nhà nước là
phân quyền cứng rắn, hay đối trọng quyền lực thì ở Việt Nam, sự độc lập của Tòa
án được
đặt trong quan hệ quyền lực nhà nước thống nhất ở Nhân dân: “Quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 3, Điều 2,
Hiến pháp năm 2013). Theo đó, quyền
tư pháp, độc lập xét xử của Tòa án là đặc trưng được thừa nhận rộng rãi, như một
giá trị không thể thiếu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), được
hiến định tại khoản 3, Điều 103, Hiến pháp năm 2013: “Thẩm phán, Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân
can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” và được ghi
nhận trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước. Gần đây, Nghị
quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam trong giai đoạn mới khẳng định: “Ðẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm
tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật”[10]. Do vậy, có quan điểm cho rằng “mức độ của tính
độc lập, mức độ của sự kiểm soát của quyền tư pháp đối với quyền hành pháp ở nước
ta cũng không giống như ở các nước theo chế độ phân quyền tuyệt đối”[11]. Tựu trung lại, ở nước ta, độc
lập của Tòa án là sự độc lập giữa các Tòa án theo thẩm quyền xét xử, độc lập giữa
các cấp xét xử bên trong hệ thống của mình; độc lập giữa Thẩm phán, Hội thẩm
khi xét xử, nghiêm cấm mọi sự can thiệp vào hoạt động xét xử. Nội hàm của nguyên tắc trên đây trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đã
tiệm cận đến các giá trị chung, phổ quát của nền tư pháp dân chủ, phù hợp với
pháp luật quốc tế.
3. Nguyên tắcThẩm phán, Hội thẩm xét xử vụ án dân sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
3.1. Độclập xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm trong xét xử vụ án dân sự
Trên cơ sở quy định tại
Hiến pháp năm 2013, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập trong
xét xử VADS đã được Bộ luật TTDS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2022) cụ thể
hóa, phát triển đầy đủ. Ngoài việc ghi nhận nội dung nguyên tắc tại Điều 12, Bộ
Luật này còn
quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán, Hội thẩm; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc giải quyết TTDS, bảo đảm sự độc lập, khách quan trong xét xử VADS. Sự độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm được xem là sự độc lập
trên thực tế đối với các yếu tố bên ngoài và những yếu tố chủ quan của Thẩm phán, Hội thẩm trong thực hiện nhiệm vụ xét xử. Trong bối cảnh
chịu nhiều áp lực, đòi hỏi Thẩm phán, Hội thẩm phải độc lập để hoàn thành tốt
nhiệm vụ xét xử. Nguyên tắc Thẩm phán,
Hội thẩm độc lập trong xét xử VADS được thực hiện trong toàn bộ các giai đoạn tố
tụng, thể hiện qua các nội dung sau đây:
Thứ nhất, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập trong nội bộ hệ
thống Tòa án. Việc quản trị nội bộ hệ thống Tòa án hiện nay ở nước ta được thực
hiện bằng cơ chế Tòa
án cấp trên quản lý các Tòa án cấp dưới về tổ chức[12].
Cơ chế quản trị này đảm bảo cho cơ quan quản lý nắm chắc năng lực, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ Tòa án trong đó có đội ngũ Thẩm phán để
đào tạo, bồi dưỡng, phân công nhiệm vụ, điều động, bổ nhiệm Thẩm phán. Bên cạnh
thẩm quyền quản lý tổ chức nhân sự, theo quy định tại Điều 47, Bộ luật TTDS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2022),
Chánh án
các Tòa án còn có thẩm quyền tổ chức công tác giải
quyết vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền. Vì vậy, Thẩm phán, Hội thẩm cần phải được độc lập với Tòa án cấp trên, với Tòa
án nơi mình công tác để tránh sự lệ thuộc đối với lãnh đạo Tòa án trong công
tác quản lý.
Thực
tiễn xét xử VADS cho thấy, cơ chế quản trị nội bộ của Tòa án có thể tác động đến
quan hệ tố tụng. Nếu không phân định rành mạch hai quan hệ này sẽ tiềm ẩn khả
năng Tòa án cấp trên có thể can thiệp hoặc gây áp lực cho Tòa án cấp dưới, chi
phối đến hoạt động xét xử của của Thẩm phán, Hội thẩm[13].
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong xét xử một số VADS, có Thẩm phán, Hội thẩm
chưa hoàn toàn được độc lập. Một số trường hợp, khi quyết định đường lối giải quyết vụ án có trường hợp Thẩm
phán, Hội thẩm phụ thuộc vào ý kiến của Ủy ban Thẩm phán. Ngoài ra, việc tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp cấp hành
chính (ở cấp tỉnh, cấp huyện) như hiện nay dễ dàng phát sinh quan hệ mệnh lệnh,
hành chính giữa các cấp Tòa án thông qua hoạt động “hướng dẫn các Tòa
án áp dụng thống nhất pháp luật” của Tòa án có thẩm quyền. Mặc dù về nguyên tắc
các “hướng dẫn” này chỉ mang tính chất tham khảo, trao đổi nghiệp vụ nhưng trước
áp lực về chuyên môn và vì muốn bảo đảm
“an toàn nghề nghiệp” nên có trường hợp “Thẩm phán Tòa án cấp dưới chưa dám xử
nếu chưa xin được ý kiến của cấp trên. Năng lực yếu, nỗi lo án hủy dẫn đến nguy
cơ không được giới thiệu tái bổ nhiệm, làm cho không ít Thẩm phán phải dựa vào
cấp trên”[14].
Thứ hai, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập trong xét xử VADS còn được thể hiện trong
mối quan hệ giữa các cấp xét xử. Pháp luật quy định việc xét xử các
VADS được thực hiện theo nguyên tắc hai cấp xét xử là cấp sơ thẩm và cấp phúc
thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm
có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến phần có kháng cáo kháng nghị. Khi xét xử,
Hội đồng xét xử (HĐXX) phúc thẩm hoàn toàn độc lập với những nhận định của Tòa
án cấp sơ thẩm về nội dung của vụ án. HĐXX phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ
thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm
khi xét xử lại vụ án vẫn độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Thứ ba, Thẩm phán, Hội thẩm phải
độc lập với Viện kiểm sát (VKS) trong việc xét xử VADS. Theo quy định của
pháp luật, trong TTDS, không phải vụ án nào VKS cũng tham gia mà chỉ chỉ tham
gia phiên tòa dân sự đối với những vụ án theo quy định của Khoản 2 Điều 21, Bộ luật TTDS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2022).
Khi tham gia phiên tòa xét xử, VKS có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật,
thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định tại khoản 3 Điều
58, điểm c khoản 1 Điều 254 và khoản 3 Điều 257, Điều 255, Điều 258, khoản 4 Điều
259, Điều 515 của Bộ luật TTDS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2022) và Điều 4 và Điều 5 của Thông tư liên tịch
số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC. Ngoài ra, VKS đề xuất hướng giải quyết TTDS
theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời,
đúng pháp luật.
Thực tiễn cho thấy, nguyên tắc quan trọng trong giải
quyết các VADS là Tòa án phải đóng vai trò là trọng tài phân xử tranh chấp của
các bên. Tuy nhiên, có vụ án Thẩm phán, Hội thẩm không hoàn toàn độc lập khi ra
quyết định. Có ý kiến cho rằng, vì “lo lắng về khả năng phán quyết có thể bị
kháng nghị trong trường hợp ý kiến của VKS và của Tòa án khác nhau quá xa về đường
lối xét xử vụ án cụ thể có thể làm Tòa án phải cân nhắc ý kiến của mình...có thể
ảnh hưởng đến sự độc lập của Tòa án”[15]. Nghiên cứu dưới góc độ bảo đảm cho nguyên tắc
độc lập xét xử của Tòa án, có học giả nhận định: “Để bảo
đảm nguyên tắc độc lập tư pháp , cần bỏ chức năng kiểm sát hoạt động xét xử của
VKS”[16] trong xét xử VADS. Thậm
chí có quan điểm rằng, việc tham gia của VKS trong xét xử VADS “chỉ có tính chất
giám sát, vẫn là yếu tố không thể chấp nhận đối với nhà nước pháp quyền. Điều
đáng nói Việt Nam là quốc gia hiếm có, nếu không phải là duy nhất, đang duy trì
một thiết chế như vậy, để kiểm soát hoạt động tư pháp”[17].
Thứ tư, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập còn thể hiện HĐXX
phải độc lập với nhau trong quá trình xét xử VADS. Pháp luật TTDS
xây dựng cơ chế giảm thiểu hoặc
tránh khả năng có thể gây ảnh hưởng từ phía Thẩm phán (là người xét xử chuyên
nghiệp) đối với Hội thẩm (là người xét xử không chuyên nghiệp, đại diện cho
nhân dân tham gia xét xử) và ngược lại. Các thành viên của HĐXX trong việc
nghiên cứu hồ sơ, xem xét, đánh giá tài liệu chứng cứ và đưa ra kết luận về vụ
án và áp dụng pháp luật không bị phụ thuộc vào quan điểm của các thành viên
khác. Cụ thể, Điều 48; Điều 49 và khoản 2 Điều 203 của Bộ luật TTDS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2022) quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi pháp luật cho phép và
độc lập với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình xét xử.
Thực
tiễn thực hiện nguyên tắc Thẩm
phán, Hội thẩm độc lập trong xét xử VADS tồn tại một số bất cập. Có ý kiến cho
rằng “quá trình xét hỏi tại
tòa, ý kiến của nhiều Hội thẩm nhiều khi chỉ là để phụ họa thêm cho Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa[18].
Thậm chí, có quan điểm nhận định: có vụ án “khi Hội thẩm khi tham gia nghị án,
họ thường thiếu lý lẽ để bảo vệ chính kiến của mình, gần như “phó thác” trách
nhiệm cho Chủ tọa”[19].
Trong khi pháp luật trao cho Hội thẩm “ngang quyền” với Thẩm phán khi thảo luận
quyết định những vấn đề của TTDS
tuy nhiên có một số Thẩm phán “thiếu kỷ năng, nghiệp vụ xét xử và không có đủ thời gian để
nghiên cứu hồ sơ vụ án như Thẩm phán, khiến họ khó có thể tự mình thực hiện được
nhiệm vụ”[20]. Vì thế, trong nhiều VADS,
Hội thẩm chưa thể độc lập, ngang hàng đối với Thẩm phán.
Thứ
năm,
Thẩm phán, Hội thẩm độc lập với các bên đương
sự trong xét xử VADS. Khoản 4, Điều 2 Luật tổ chức TAND năm 2014
và khoản 2, khoản 4 Điều 97 Bộ luật TTDS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2022) quy định Tòa án có trách nhiệm xác minh, thu thập tài
liệu, chứng cứ để giải quyết các VADS. Những quy định này nhằm bảo
đảm sự khách quan của vụ án, để ra phán quyết công bằng cho tất cả các bên. Ý
kiến ủng hộ nội dung những quy định này cho rằng, trong điều kiện của Việt Nam
hiện nay “có sự chênh lệch về khoảng cách giàu nghèo, dân trí, văn hóa, giữa
thành thị và nông thôn. Do đó, rất nhiều người dân không có điều kiện tranh tụng
một cách đầy đủ và do những khoảng cách ấy, nếu "khoán" cho các bên sẽ
rất thiệt thòi cho những người yếu thế”[21]. Do
vậy, việc quy
định về nghĩa vụ thu thập chứng cứ của Tòa án là hợp lý. Tuy nhiên, có quan điểm ngược lại, rằng: “việc
Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ sẽ vô hình chung dẫn tới việc thu thập chứng
cứ có lợi hoặc bất lợi cho một bên ảnh hưởng đến nguyên tắc vô tư, khách quan của
Tòa án”[22].
Thực tiễn vận dụng nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập trong xét xử VADS có trường hợp Thẩm
phán “chỉ căn cứ vào hồ sơ vụ án để giải quyết là chính, còn sự có
mặt của người làm chứng, tài liệu, đồ vật, ý kiến của những người được triệu tập
đến phiên tòa chỉ là một thủ tục để hoàn thiện hồ sơ vụ án và đúng trình tự
theo luật định”[23].
Có một số vụ án do Tòa án cấp sơ thẩm thiếu sự độc lập, vô tư, khách quan đối với
các bên đương sự dẫn đến có bản án, quyết định của Tòa án cấp cao
hơn hủy, sửa. Tác giả cho rằng, Tòa án phải luôn phát huy
vai trò trung lập, trọng tài trong việc xem xét các yêu cầu của đương sự, không
phụ thuộc vào các bên đương sự; phải bảo đảm tính khách quan, công bằng và đúng
pháp luật trong giải quyết TTDS; tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự;
không thiên vị với các bên đương sự trong quá trình tranh tụng.
Thứ
sáu,
Thẩm phán, Hội thẩm độc lập khi xét xử VADS
còn thể hiện sự độc lập trong mối quan hệ với các cấp chính quyền và nguyên tắc
Đảng lãnh đạo toàn diện đối với Nhà nước và xã hội. Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của
Đảng đối với cơ quan tư pháp nói chung, Tòa án nói riêng là vấn đề có tính
nguyên tắc, hiến định. Sự lãnh đạo của Đảng thông qua đường lối, chủ trương,
chính sách về công tác tư pháp mà không làm thay công việc của Tòa án. Các cấp ủy
đảng và đảng viên không được can thiệp và chi phối hoạt động xét xử của Tòa án.
Điều
221 của Bộ luật TTDS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2022), khoản 7
Điều 2 của Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định trong quá trình giải quyết vụ án
Thẩm phán, HĐXX phát hiện và kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản quy
phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
Quy định này nhằm nâng cao vai trò của Tòa án và bảo đảm Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập trong mối
quan hệ với các cấp chính quyền. Tuy nhiên, trên thực tế, có ý kiến cho rằng “đôi khi sự chỉ đạo của lãnh đạo Tòa
án cấp trên bị nhận thức là sự chỉ đạo của Đảng do lãnh đạo Tòa án các cấp đều
là đảng viên giữ cương vị lãnh đạo”[24].
3.2. Kiểmsát hoạt động tư pháp trong tố tụng dân sự
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hệ thống kiểm
soát hoạt động tư pháp trong TTDS là khá đa dạng. Kiểm soát hoạt động tư pháp trong TTDS,
bảo đảm Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập thể hiện trên các khía cạnh:
Một là, hoạt động kiểm soát của Tòa án “cấp cao hơn” đối
với toà án “cấp thấp hơn” được tiến hành ngay trong quá trình tố tụng, từ sơ thẩm
đến phúc thẩm và giám đốc thẩm. Giám sát quy trình tố tụng và năng lực chuyên
môn của Thẩm phán cũng luôn được quan tâm trong xét xử VADS. Xét xử phúc thẩm
là phương thức nổi bật trong cơ chế kiểm soát hoạt động tư pháp trong TTDS. Bởi
vì trong hoạt động xét xử, HĐXX phúc thẩm thực hiện “giám đốc việc xét xử
đối với Tòa án cấp sơ thẩm, kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản
án, quyết định sơ thẩm”[25]; góp
phần nâng cao trách nhiệm của HĐXX, bảo đảm Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập. Trong
khi đó, xét xử giám đốc thẩm là cơ chế kiểm soát đặc trưng nhất của hệ
thống Tòa án nhằm đảm bảo kiểm soát được tính đúng đắn của phán quyết nhưng
không can thiệp vào hoạt động xét xử độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm. Ngoài
ra, cơ chế kiểm soát hoạt động tư pháp trong TTDS được thực hiện thông qua
phương thức thanh tra, kiểm tra các quyết định, hành vi tố tụng của Thẩm phán
nhằm xem xét, đánh giá về quyết định và hành vi tố tụng của Thẩm phán có phù hợp
với pháp luật hay không.
Hai là, kiểm
sát hoạt động tư pháp trong tố tụng thông qua cơ quan tiến hành TTDS. VKS kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS nhằm bảo đảm cho việc giải quyết VADS đúng quy định của pháp
luật; mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý
kịp thời, nghiêm minh. Trên thực tế, kiểm sát viên vừa thực hiện quyền kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS, thực hiện các quyền yêu cầu, đề xuất ý
kiến về việc giải quyết vụ án, quyền kháng nghị vụ án; đồng thời, thực hiện kiểm
soát hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Như
vậy, VKS thể hiện mình như một cơ quan giám sát hoạt động tư pháp đồng thời lại
là cơ quan tiến hành tố tụng tư pháp.
Ba là, kiểm soát hoạt động
tư pháp trong TTDS bằng sự tham gia của Hội thẩm. Hội thẩm là những người đại
diện cho nhân dân. Hội thẩm được lựa chọn mang tính cơ cấu và xử án theo sự
phân công của Chánh án và thực hiện nhiệm vụ xét xử “ngang quyền” với Thẩm phán.
Sự tham gia của Hội thẩm trong quá trình xét xử cũng được xem như một phương thức
kiểm soát nội bộ trong hệ thống Tòa án. Độc lập xét xử tạo sức mạnh, cơ hội cho
Hội thẩm có thể kiểm soát hoạt động tư pháp của Thẩm phán. Mặc dầu vậy, phương
thức kiểm soát này cũng tồn tại những hạn chế nhất định. Qua thực tiễn xét xử cho
thấy vai trò của Hội thẩm khá mờ nhạt, mang nhiều tính hình thức. Thực tế có
nhiều trường hợp, khi xét xử Hội thẩm không nắm vững các tình tiết của vụ án
nên thụ động trong công tác xét xử, có tâm lý ỷ lại vào Thẩm phán, Chủ tọa
phiên tòa; không thể hiện được hết vai trò tại phiên tòa, nhất là vai trò phản
biện.
Bốn là,
kiểm
soát hoạt động tư pháp trong TTDS thông qua hoạt động giám sát của công dân và giám
sát xã hội, của dư luận báo chí. Công dân thực hiện quyền tố cáo không chỉ bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà còn góp phần đưa những sai phạm của
cán bộ tư pháp ra trước công chúng. Thông qua báo chí, người dân tiếp nhận
thông tin và phản hồi thông tin, phản ánh những sai phạm, yếu kém, tiêu cực
trong hoạt động của cơ quan và cán bộ tư pháp, tạo công luận để khôi phục trật
tự pháp luật và đạo lý trong hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, thực tiễn có nhiều
trường hợp công dân nhân danh thực hiện giám sát hoạt động Tòa án để gây khó
khăn cho hoạt động tư pháp. Trong khi đó, báo chí cũng có những thông tin chưa
xác thực hoặc chưa được kiểm chứng, gây khó khăn cho hoạt động xét xử.
3.3. Mộtsố điều kiện đảm bảo Thẩm phán, Hội thẩm xét xử vụ án dân sự độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật
-
Hệ thống TAND của Việt Nam cần sớm được tổ chức theo cấp xét xử. Theo đó, mỗi cấp
Tòa án chỉ xét xử một loại án hoặc sơ thẩm, hoặc phúc thẩm, hoặc giám đốc thẩm.
Các Tòa án này độc lập với nhau về mặt thẩm quyền cũng như tổ chức nhân sự,
hành chính, cán bộ. Mối quan hệ giữa các Tòa án chỉ là mối quan hệ tố tụng do
pháp luật quy định chặt chẽ và độc lập, đảm bảo tính
chuyên sâu, chuyên trách, chuyên nghiệp của mỗi cấp xét xử. Điều này góp phần
hạn chế được sự can thiệp trái pháp luật vào việc xét xử của Thẩm phán,
Hội thẩm từ nhiều phía. Trên thực tế, mô hình tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện
nay vừa theo nguyên tắc lãnh thổ, vừa theo nguyên tắc thẩm quyền xét xử; thực
hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án, Thẩm phán chưa thực sự hiệu quả. Thực
tiễn xét xử vẫn còn tồn tại các hành vi can thiệp trái pháp luật của người có
chức vụ lãnh đạo trong bộ máy tổ chức của chính quyền địa phương vào hoạt động
xét xử của Tòa án[26].
- Hệ thống
pháp luật phải xác lập đầy đủ, đồng bộ các biện pháp nhằm nhằm thực hiện nguyên
tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử VADS độc lập hiệu quả. Nguyên tắc này phải trở
thành nội dung tư tưởng, chi phối, định hướng cho hoạt động của hệ thống Tòa án
và hoạt động TTDS. Pháp luật TTDS quy định rõ ràng, đầy đủ các quyền, nghĩa vụ,
trách nhiệm của phán, Hội thẩm, của từng thành viên tham gia HĐXX; đồng thời, bảo đảm chế độ
xét xử công khai, minh bạch từ khi thụ lý vụ án cho đến khi Tòa án ra phán quyết.
Pháp luật TTDS quy định chặt chẽ mọi chứng cứ phải được làm rõ tại phiên tòa,
xác lập và thực hiện cơ chế tranh tụng tại phiên tòa; ngăn cấm và xử lý kịp thời mọi hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử.
- Cơ chế quản trị hoạt động
Tòa án phải hợp lý. Cơ chế này cần phải phân biệt rõ ràng thẩm quyền quản lý
hành chính và thẩm quyền tố tụng của Chánh án Tòa án; bảo đảm hoạt động xét xử
của Thẩm phán không bị can thiệp. Do vậy, cần thực hiện quy trình phân án ngẫu
nhiên đồng bộ, toàn diện đối với tất cả các loại án, hạn chế được sự phụ thuộc
về mặt hành chính giữa Thẩm phán và Chánh án. Mặc dù Tòa án đã triển khai thực
hiện quy định phân công án ngẫu nhiên[27],
nhưng một số địa phương vẫn còn tồn tại hình thức phân công án chỉ định, cơ chế,
cách thức vận hành còn tiềm ẩn những tác động tiêu cực đến tính độc lập xét xử
của Tòa án. Ngoài ra, các hoạt động khác như thanh tra, kiểm tra, giải quyết tố
cáo đối với các hành vi, quyết định tố tụng của Thẩm phán cần phải được thực
công khai, minh bạch và đúng thẩm quyền vì chúng tác động đến sự độc lập của Thẩm
phán.
-
Năng lực, trình độ, địa vị pháp lý, cơ
chế bảo vệ Thẩm phán, Hội thẩm cần phải được bảo đảm. Muốn Thẩm phán, Hội thẩm độc
lập trước tiên họ phải có đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ của mình. Bởi vì
“việc Thẩm phán không đủ năng lực và điều kiện làm việc cũng là nguyên nhân dẫn
đến sự phụ thuộc của họ vào các nhánh quyền lực khác”[28]. Cần
phải coi xét xử là nghề đặc biệt, là công cụ để duy trì và củng cố niềm tin của
nhân dân đối với chế độ. Vì vậy, tiêu chuẩn, chế độ, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm,
kỷ luật Thẩm phán, Hội thẩm phải sớm hoàn thiện đồng bộ để họ có thể độc lập và
yên tâm làm nhiệm vụ xét xử. Có quan điểm cho rằng “Thẩm phán phải có nhiệm kỳ lâu dài,
thậm chí có thể là suốt đời...Nếu Thẩm phán chỉ được bổ nhiệm trong một nhiệm kỳ
ngắn ngủi theo bất cứ một thể thức nào, họ sẽ không có được một tinh thần độc lập
và cương quyết”[29]. Đồng thời, chế độ,
chính sách của Thẩm phán cần được bảo đảm để họ không “chịu sự tác động, cám dỗ
vật chất nào khác từ những người tham gia tố tụng có liên quan…công lý không tồn
tại trong một nền tư pháp hối lộ, tham nhũng”[30]. Thực
tế, cơ chế bảo vệ Thẩm phán, Hội thẩm ở nước ta hiện nay chưa hiệu quả; chế độ, chính
sách của Việt Nam kém hơn so với nhiều nước, trong khi nhiều quốc gia có cơ chế
bảo vệ rõ ràng[31].
4. Mộtsố kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử vụ án
dân sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
- Đổi mới hoạt động phổ
biến, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất
là đội ngũ lãnh đạo ngành TAND, các tầng lớp nhân dân về nội dung, yêu cầu,
cũng như chủ trương, chính sách, pháp luật bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm
độc lập trong xét xử VADS. Hoàn thiện pháp luật, xử lý kịp thời, nghiêm minh đối
với các hành vi xâm phạm đến hoạt động xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
trong xét xử VADS.
- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của TAND tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả theo hướng hệ thống TAND được tổ chức độc lập theo thẩm
quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; hoàn thiện, đổi mới nhiệm
vụ, thẩm quyền của Tòa án theo cấp xét xử; phân định rõ nhiệm vụ cấp xét xử sơ
thẩm, cấp xét xử phúc thẩm mà không theo cấp hành chính như hiện nay.
- Đổi mới cơ chế quản trị nội bộ của hệ thống Tòa án, nâng cao hiệu quả
hoạt động xét xử VADS. Nghiên cứu, đổi mới thiết chế Hội đồng tuyển chọn, giám
sát Thẩm phán quốc gia theo hướng đổi mới cơ cấu tổ chức, tăng thẩm quyền quản
lý, quản trị độc lập hệ thống Tòa án
nhằm bảo đảm tính khách quan, minh bạch, tính độc lập trong hoạt động của Thẩm
phán và độc lập giữa các cấp Toà án.
- Nghiên cứu
thiết lập cơ quan hành chính chuyên trách trực thuộc Chánh án TAND tối cao, độc
lập với tiến trình tố tụng tư pháp để thực hiện các nhiệm vụ không liên quan trực
tiếp quá trình giải quyết, xét xử các VADS. Công khai quá trình giải quyết VADS
trên nền tảng số từ khâu nhận đơn, thụ lý đơn đến khi ra bản án; tạo điều kiện
thuận tiện trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với TAND. Tiếp tục hoàn
thiện cơ chế giám sát của cơ quan dân cư đối với tổ chức và hoạt động của TAND.
Nghiên cứu hạn chế, tiến tới bỏ chức năng kiểm soát hoạt động tư pháp, kiểm
soát việc tuân theo pháp luật trong xét xử VADS của VKS để bảo đảm cho Tòa án
được độc lập thực chất.
- Tiếp tục hoàn hiện pháp luật TTDS, có biện pháp áp dụng nguyên tắc
tranh tụng tại phiên tòa hiệu quả, tránh hình thức; thực hiện nghiêm túc quy định
về trách nhiệm chứng minh thuộc về đương sự; hạn chế việc Tòa án thu thập tài
liệu chứng cứ trong TTDS nhằm bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc vô tư, khách quan. Tòa án tôn trọng quyền tự quyết, tự thỏa thuận
của đương sự, người khởi kiện.
- Khoản 2 Điều 42 của Luật
tổ chức TAND năm 2014 quy định Chánh án TAND cấp tỉnh có thẩm quyền “quyết định
điều động, luân chuyển, biệt phái Thẩm phán”. Điều này có thể ảnh hưởng nhất định
đến tâm lý của Thẩm phán trong thực hiện nhiệm vụ xét xử độc lập. Để phòng ngừa
tính thiếu khách quan và bảo đảm sự công tâm của Thẩm phán, cần nghiên cứu sửa
đổi khoản 2, Điều 42; khoản 3 Điều 78; khoản 3 Điều 79 và khoản 3 Điều
80 của Luật
tổ chức TAND năm 2014 và giao thẩm quyền nay cho TAND tối cao thực hiện.
- Quy định rõ hơn trách nhiệm tổ chức công tác xét xử của Chánh án bằng
việc thực hiện phân án ngẫu nhiên đối với tất cả các loại án; quy định chặt chẽ
cơ chế thanh tra, kiểm tra đối với các VADS đang trong quá trình tố tụng; đổi mới
quy trình, tiêu chuẩn bổ nhiệm, có chính sách, chế độ thỏa đáng đối với Thẩm
phán.
- Đổi mới về tiêu chuẩn Hội thẩm theo hướng nâng cao chất lượng, bổ
sung tiêu chuẩn về kiến thức chuyên môn đối với Hội thẩm; thiện chế độ, chính
sách đối đãi ngộ thỏa đáng đối với Hội thẩm tham gia xét xử VADS. Nghiên cứu
ban hành một đạo luật độc lập về Hội thẩm, trên cơ sở pháp điển hóa các quy định
về Hội thẩm trong các văn bản pháp luật hiện hành.
- Nghiên cứu, nội luật hóa một số quy định của pháp luật quốc tế về sự
độc lập của Tòa án, của Thẩm phán trong xét xử phù hợp với Việt Nam; nghiên cứu,
tham khảo kinh nghiệm các nước có mô hình tổ chức hệ thống Tòa án tiên tiến nhằm
hoàn thiện cơ chế bảo đảm Thẩm phán, Hội thẩm xét xử VADS độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật.
5. Kếtluận
Trên thế giới, nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án được
coi như giá trị phổ quát, văn minh, tiến bộ; đồng hành với công lý dân chủ và
pháp quyền. Ở Việt Nam, Nguyên tắc
“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử vụ án dân sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” ngày được
ghi nhận đầy đủ hơn trong hệ thống pháp luật và không ngừng bảo đảm thực hiện. Trong
điều kiện tiếp tục đẩy mạnh chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp
quyền, nguyên tắc này cần được nhận thức đầy đủ và thực hiện nghiêm túc hơn để
Tòa án luôn là hiện thân của công lý, thật sự là thiết chế hữu hiệu bảo vệ bảo
vệ quyền con người, quyền công dân.
TÀI LIỆUTHAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 2013
2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 số 92/2015/QH13 (sửa
đổi, bổ sung năm 2022)
3. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 số
62/2014/QH13
4. ĐÀO TRÍ ÚC, QUYỀN TƯ PHÁP TRONG CƠ CHẾ QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
THEO HIẾN PHÁP 2013, BÌNH LUẬN KHOA HỌC HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 2013 (SÁCH CHUYÊN KHẢO), NXB LAO ĐỘNG, HÀ NỘI (2014)
5. LÊ HỒNG HẠNH
(CHỦ BIÊN), ĐỘC LẬP TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ, (SÁCH CHUYÊN KHẢO), NXB HỒNG ĐỨC,
HÀ
NỘI (2015)
6. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Nguyen-tac-co-ban-ve-tinh-doc-lap-cua-toa-an-1985-275836.aspx
7. https://tapchitoaan.vn/ve-tinh-doc-lap-va-quyen-mien-tru-cua-tham-phan
8. NGUYỄN ĐĂNG DUNG- PHẠM HỒNG THÁI- LÃ KHÁNH TÙNG- VŨ
CÔNG GIAO (ĐỒNG CHỦ BIÊN), TUYỂN TẬP HIẾN PHÁP CỦA
MỘT SỐ QUỐC GIA, (TÀI LIỆU THAM KHẢO), NXB. HỒNG ĐỨC, HÀ NỘI (2012)
9.https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-27-nqtw-ngay-09112022-hoi-nghi-lan-thu-sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-ve-tiep-tuc-xay-dung-va-9016
10. Võ Khánh Vinh, Về quyền tư pháp và chế độ tư pháp ở Việt Nam, nguồn:
https://tapchitoaan.vn/ve-quyen-tu-phap-va-che-do-tu-phap-o-nuoc-ta
11. Trần Văn Độ,
Bảo đảm nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo quốc gia: Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu
quả cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, BCĐ xây dựng Đề
án Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm
2030, định hướng đến năm 2045, Hà Nội (2022)
12. Lê Hồng Hạnh,
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Kỷ yếu hội thảo quốc gia, những
vấn đề lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
BCĐ xây dựng Đề án Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, Hà Nội (2021)
13. LƯU TIẾN
DŨNG, ĐỘC LẬP TƯ PHÁP TRONG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM, NXB.TƯ PHÁP (2012)
14. Hoàng Thế
Liên, Mục tiêu, quan điểm, định hướng cải
cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; Kỷ yếu hội thảo quốc gia, tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu
quả cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, BCĐ xây dựng Đề
án chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm
2030, định hướng đến năm 2045, Hà Nội (2022)
15. Lê Hồng Hạnh,
Suy nghĩ về những điểm đột phá cần thực
hiện trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; Kỷ yếu Hội thảo
quốc gia, Những vấn đề mới, đột phá trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, BCĐ xây dựng Đề án
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm
2030, định hướng đến năm 2045, Hà Nội (2022)
16. Nguyễn
Văn Pha, Một số vấn đề về đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội
thẩm nhân dân; https://tapchitoaan.vn/mot-so-van-de-ve-doi-moi-to-chuc-hoat-dong-cua-hoi-tham-nhan-dan5595.html.
17. Lê Văn Sua, Chế định về Hội thẩm, vai trò của
Hội thẩm khi tham gia xét xử - Một số kiến nghị hoàn thiện; https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1862.
18. NGUYỄN
HÒA BÌNH, ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ
NHÂN DÂN THAM GIA XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP (SÁCH
CHUYÊN KHẢO); NXB.CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THÂT, HÀ NỘI (2022)
19. https://quochoi.vn/hoatdongcuaquochoi/cackyhopquochoi/quochoikhoaXIII/Pages/
danh-sach-ky-hop.aspx?ItemID=82414&CategoryId=0
20. https://vbpq.toaan.gov.vn/webcenter/portal/htvb/chi-tiet-vbdt?dDocName=TAND
290836
21. http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?
tintucid=208390
22. Mai Thanh
Hiếu, “Khái niệm hiệu lực của kháng cáo,
kháng nghị trong theo thủ tục phúc thẩm tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật học,
(01) (2015)
23. https://tienphong.vn/canh-cao-pho-chu-tich-hdnd-tinh-gia-lai-vi-can-thiep-hoat-dong-to-tung-post1258019.tpo
24. Thông
tư số 01/2022/TT-TANDTC ngày 15/12/2022 của Chánh án TANDTC về quy định phân
công Thẩm phán giải quyết, xét xử vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án
nhân dân.
25. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao (2011), Tư pháp độc lập: Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn (kỳ 1), http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=207922
26. Nguyễn Đăng Dung, Nguyên tắc độc
lập của Tòa án và quy định của Hiến pháp năm 2013; http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208218
27.
Trần
Văn Độ, Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân, bảo
đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; https://tapchitoaan.vn/doi-moi-to-chuc-toa-an-nhan-dan-bao-dam-nguyen-tac-tham-phan-hoi-tham-xet-xu-doc-lap-va-chi-tuan-theo-phap-luat
28.
https://vtv.vn/chinh-tri/chanh-an-tand-toi-cao-khong-bao-che-tham-phan-vi-pham-xu-ly-khong-co-vung-cam-20230320120644465.htm
* ThS.
Hoàng Minh Sơn, Trưởng phòng Thanh tra, Tòa án Nhân dân Tối cao. Duyệt đăng 26/3/2024. Email: minhsontatc@gmail.com
[1] ĐÀO TRÍ ÚC, QUYỀN TƯ PHÁP TRONG CƠ CHẾ QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
THEO HIẾN PHÁP 2013, BÌNH LUẬN KHOA HỌC HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 2013 (SÁCH CHUYÊN KHẢO), NXB LAO ĐỘNG, HÀ NỘI, TR.478,
TR.479 (2014)
[2] LÊ HỒNG HẠNH, ĐỘC LẬP TƯ PHÁP Ở VIỆT
NAM VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ, (SÁCH CHUYÊN KHẢO),
NXB HỒNG ĐỨC, HÀ
NỘI, TR.10, TR.12 (2015)
[3] Các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập
của tòa án năm 1985 (được thông qua tại Hội nghị Liên Hợp Quốc lần thứ 7 về
Phòng chống tội phạm và đối xử với người phạm tội, tổ chức tại Milan từ ngày
26/8 đến 6/9/1985, sau đó được thông qua bằng Nghị quyết 40/32 ngày 29/11/1985
và Nghị quyết 40/146 ngày 13/12/1985 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc). Nguồn https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Nguyen-tac-co-ban-ve-tinh-doc-lap-cua-toa-an-1985-275836.aspx
[4] Xem: Tuyên bố Bắc Kinh về các nguyên tắc độc lập tư pháp (Tuyên bố
này được thông qua bởi Chánh án Toà án tối cao của 20 nước, trong đó có Việt
Nam, ngày 19-8-1995, tại Hội nghị của Chánh án Toà án tối cao khu vực Châu
Á-Thái Bình Dương lần thứ 6 tổ chức tại Bắc Kinh). Dẫn theo:
https://tapchitoaan.vn/ve-tinh-doc-lap-va-quyen-mien-tru-cua-tham-phan
[5] Nguyễn Đăng Dung- Phạm Hồng Thái- Lã Khánh Tùng- Vũ Công Giao (đồng
chủ biên) (2012), Tuyển tập Hiến pháp của một số quốc gia, (tài liệu
tham khảo), NXB. Hồng Đức, Hà Nội, tr.371.
[6] Nguyễn Đăng Dung- Phạm Hồng Thái- Lã Khánh Tùng- Vũ Công Giao, tlđd,
tr.652.
[7] Nguyễn Đăng Dung- Phạm Hồng Thái- Lã Khánh Tùng- Vũ Công Giao,
tlđd, tr.391.
[8] Nguyễn Đăng Dung- Phạm Hồng Thái- Lã Khánh Tùng- Vũ Công Giao,
tlđd, tr.30.
[9] Lê
Hồng Hạnh, tlđd, tr.21.
[10]Xem:
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-27-nqtw-ngay-09112022-hoi-nghi-lan-thu-sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-ve-tiep-tuc-xay-dung-va-9016
[11]Võ Khánh Vinh, Về quyền
tư pháp và chế độ tư pháp ở Việt Nam, Tạp chí Toà
án nguồn:
https://tapchitoaan.vn/ve-quyen-tu-phap-va-che-do-tu-phap-o-nuoc-ta
[12]Xem: Điều 18 Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014, nguồn: http://thuvienphapluat.vn
[13]Xem: Trần Văn Độ, Bảo đảm nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo quốc gia: Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu
quả cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, BCĐ xây dựng Đề
án Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm
2030, định hướng đến năm 2045, Hà Nội, tr. 185.
[14]Lê Hồng Hạnh, Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Kỷ yếu hội thảo quốc gia, những vấn đề
lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, BCĐ xây
dựng Đề án Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, Hà Nội, tr.176.
[15]LƯU TIẾN DŨNG, ĐỘC LẬP TƯ PHÁP TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở
VIỆT NAM, NXB.TƯ PHÁP, TR.142 (2012)
[16]Xem: Hoàng Thế Liên, Mục tiêu, quan điểm, định hướng cải cách tư
pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, trong Kỷ yếu hội thảo quốc gia, tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu
quả cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, BCĐ xây dựng Đề
án chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm
2030, định hướng đến năm 2045, Hà Nội, tr.38.
[17]Lê Hồng Hạnh, Suy nghĩ về những điểm đột phá cần thực hiện
trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; Kỷ yếu Hội thảo quốc
gia, Những vấn đề mới, đột phá trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, BCĐ xây dựng Đề án Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định
hướng đến năm 2045, Hà Nội, tr.116.
[18]Nguyễn Văn Pha, Một số
vấn đề về đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội thẩm nhân dân, Tạp chí
Toà án
https://tapchitoaan.vn/mot-so-van-de-ve-doi-moi-to-chuc-hoat-dong-cua-hoi-tham-nhan-dan5595.html.
[19] Lê Văn Sua, Chế định
về Hội thẩm, vai trò của Hội thẩm khi tham gia xét xử - Một số kiến nghị hoàn
thiện;
https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1862.
[20] NGUYỄN HÒA BÌNH, ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ NHÂN DÂN THAM
GIA XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP (SÁCH CHUYÊN KHẢO);
NXB.CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THÂT, TR.46 (2022)
[21]Tổng thuật trực tiếp
chiều 22/11/2023: Quốc hội thảo luận về Dự án Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa
đổi). Nguồn
https://quochoi.vn/hoatdongcuaquochoi/cackyhopquochoi/quochoikhoaXIII/Pages/danh-sach-ky-hop.aspx?ItemID=82414&CategoryId=0
[22] Tòa
án nhân dân tối cao, Tờ trinh đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân,
https://vbpq.toaan.gov.vn/webcenter/portal/htvb/chi-tiet-vbdt?dDocName=TAND290836
[23] Phạm Hồng Phong, Thực
trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt
động xét xử; http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx? tintucid=208390
(truy cập ngày 27/01/2024)
[24]Xem: Lê Hồng Hạnh, Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Kỷ yếu hội thảo quốc gia, những vấn đề
lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, BCĐ xây
dựng Đề án Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, Hà Nôi, tr.177.
[25] Mai
Thanh Hiếu, “Khái niệm hiệu lực của kháng
cáo, kháng nghị trong theo thủ tục phúc thẩm tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật
học, (01), tr.26 (2015)
[26] Xem: Cảnh cáo Phó chủ tịch HĐND tỉnh Gia Lai
vì can thiệp vào hoạt động tố tụng,
https://tienphong.vn/canh-cao-pho-chu-tich-hdnd-tinh-gia-lai-vi-can-thiep-hoat-dong-to-tung-post1258019.tpo
[27]Thông tư số
01/2022/TT-TANDTC ngày 15/12/2022 của Chánh án TANDTC về quy định phân công Thẩm
phán giải quyết, xét xử vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Tài
liệu lưu Tòa án nhân dân tối cao. Hà Nội.
[28]Nguyễn Đăng Dung, Vũ
Công Giao, Tư pháp độc lập: Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn (kỳ 1). Nguồn http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=207922
(2011)
[29]Nguyễn
Đăng Dung, Nguyên tắc độc lập của Tòa án và
quy định của Hiến pháp năm 2013;
http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208218
[30]Trần Văn Độ, Đổi mới
tổ chức Tòa án nhân dân, bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật;
https://tapchitoaan.vn/doi-moi-to-chuc-toa-an-nhan-dan-bao-dam-nguyen-tac-tham-phan-hoi-tham-xet-xu-doc-lap-va-chi-tuan-theo-phap-luat
[31]Xem: Ý kiến của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
https://vtv.vn/chinh-tri/chanh-an-tand-toi-cao-khong-bao-che-tham-phan-vi-pham-xu-ly-khong-co-vung-cam-20230320120644465.htm