Nghiên cứu lý luận

Pháp luật về hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa

Nguyễn Minh Hằng* Nguyễn Thị Hương** Thứ tư, 29/10/2025 - 12:56
Nghe audio
0:00

(PLPT) - Bài viết nghiên cứu hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa tại Việt Nam.

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa tại Việt Nam. Nội dung tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm pháp lý, cơ chế giao kết và thực hiện các loại hợp đồng này, đồng thời phân tích thực trạng pháp luật hiện hành, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong khuôn khổ pháp lý và thực tiễn áp dụng. Từ đó, đề tài đề xuất các giải pháp hoàn thiện nhằm đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả và an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao dịch trên thị trường hàng hóa có tổ chức.

Từ khóa: Hợp đồng kỳ hạn, pháp luật về hợp đồng kỳ hạn, Sở giao dịch hàng hóa, giao dịch kỳ hạn, giao dịch tương lai

Keywords: Forward contract, forward contract law, commodity exchange, forward trading, futures trading.

Lời mở đầu

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của thị trường hàng hóa thế giới, việc hình thành và vận hành các sở giao dịch hàng hóa (SGDHH) đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết giá cả, phòng ngừa rủi ro và thúc đẩy thương mại. Tại Việt Nam, mô hình giao dịch hàng hóa qua SGDHH đang từng bước phát triển, đặc biệt với sự xuất hiện của các loại hợp đồng phái sinh như hợp đồng kỳ hạn. Đây là những công cụ giao dịch hiện đại, cho phép các doanh nghiệp và nhà đầu tư bảo hiểm rủi ro giá cả, đồng thời tạo cơ hội sinh lợi từ biến động thị trường.

Tuy nhiên, hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động giao dịch qua SGDHH nói chung, và hợp đồng kỳ hạn nói riêng vẫn còn nhiều khoảng trống và bất cập. Các quy định pháp luật hiện hành còn rời rạc, thiếu tính thống nhất và chưa theo kịp thực tiễn giao dịch trên thị trường hàng hóa có tổ chức. Điều này gây khó khăn trong việc thực hiện giao kết, giải quyết tranh chấp và bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và chuyên sâu về “Pháp luật về hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hoá” là yêu cầu cấp thiết. Kết quả nghiên cứu không chỉ góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật mà còn là cơ sở để kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập kinh tế toàn cầu.

1. Khái quát pháp luật về hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hoá

1.1. Khái niệm hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hoá

Hợp đồng kỳ hạn là một thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết nhận hàng hóa vào một thời điểm ấn định trong tương lai theo giá cả được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng . Hợp đồng kỳ hạn không có sự hiện diện của hàng hóa tại thời điểm giao kết, mà hướng đến việc giao nhận hàng hóa tại thời điểm đã thống nhất, nhằm bảo vệ lợi ích của các bên trước biến động thị trường. Tại thời điểm giao kết hợp đồng kỳ hạn, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng, chưa hiện hữu, và việc thực hiện hợp đồng được xác định vào thời điểm tương lai nhằm ổn định giá cả, hạn chế rủi ro thị trường cho các bên.

Bên cạnh khái niệm được nêu tại Luật Thương mại 2005, nhiều học giả quốc tế và tổ chức chuyên ngành cũng đưa ra định nghĩa cụ thể hơn về hợp đồng kỳ hạn, Giáo sư John C. Hull cho rằng đây là “thỏa thuận giữa hai bên nhằm mua hoặc bán một tài sản vào một thời điểm xác định trong tương lai, với mức giá được ấn định tại thời điểm hiện tại” . Từ góc độ pháp lý, Black’s Law Dictionary định nghĩa hợp đồng kỳ hạn là “một hợp đồng được đàm phán riêng nhằm mua hoặc bán hàng hóa hoặc công cụ tài chính vào một ngày cụ thể trong tương lai với giá đã xác lập từ trước” . Các định nghĩa này cho thấy hợp đồng kỳ hạn mang bản chất là một công cụ phái sinh song phương, không thực hiện ngay tại thời điểm giao kết, mà hướng đến việc bảo vệ lợi ích các bên trước rủi ro biến động giá cả. Tuy nhiên, sự đồng nhất về đặc điểm giao kết trong tương lai cũng khiến khái niệm hợp đồng kỳ hạn dễ bị nhầm lẫn với hợp đồng tương lai, một công cụ giao dịch khác cũng hướng đến thời điểm thực hiện trong tương lai nhưng được chuẩn hóa về nội dung, khối lượng, thời hạn và thực hiện tập trung thông qua sở giao dịch với sự tham gia của tổ chức bù trừ. Trong khi đó, hợp đồng kỳ hạn, xét về bản chất, là giao dịch song phương có tính cá nhân hóa cao, không niêm yết và thường không có tổ chức bù trừ đứng giữa. Việc chưa có sự phân định rõ ràng giữa hai loại hợp đồng này trong pháp luật Việt Nam hiện nay dễ dẫn đến sự nhầm lẫn về cơ chế giao kết, chủ thể tham gia và phương thức thực hiện.

1.2. Đặc điểm hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hoá

Hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hoá có những đặc điểm đặc biệt sau:

Thứ nhất, hợp đồng kỳ hạn được chuẩn hóa bởi các quy tắc của SGDHH. Các điều khoản thiết yếu trong hợp đồng kỳ hạn như tên hàng hóa, chất lượng, quy mô giao dịch, thời điểm giao nhận hàng hóa và địa điểm giao hàng đều được tiêu chuẩn hóa một cách nghiêm ngặt bởi các quy chế hoạt động của SGDHH. Điểm khác biệt nổi bật của hợp đồng kỳ hạn so với hợp đồng mua bán thông thường hoặc hợp đồng tương lai trên thị trường phi tập trung (OTC) chính là việc các bên không có sự tự do tuyệt đối trong việc xác định các nội dung căn bản của hợp đồng. Khi giao kết hợp đồng kỳ hạn, các bên chỉ lựa chọn trong khuôn khổ những điều kiện đã được sở giao dịch quy định sẵn, nhằm đảm bảo tính minh bạch, nhanh chóng và hạn chế tối đa các tranh chấp có thể phát sinh từ việc bất đồng ý chí.

Thứ hai, thời điểm giao nhận và thanh toán được xác định tại tương lai, trong khi giá cả được ấn định tại thời điểm giao kết hợp đồng. Điểm then chốt của hợp đồng kỳ hạn là các bên thống nhất mức giá hàng hóa ngay tại thời điểm giao kết hợp đồng, bất kể biến động giá thị trường xảy ra sau đó. Điều này nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của các bên trước sự biến động khó lường của thị trường. Việc xác định giá trước không chỉ là yếu tố pháp lý trọng tâm, mà còn là cơ sở phân biệt giữa hợp đồng kỳ hạn với hợp đồng giao ngay, trong đó giá được xác định sát với thời điểm giao hàng.

Thứ ba, hợp đồng kỳ hạn có tính thanh khoản cao thông qua cơ chế thanh toán bù trừ tại SGDHH . Một đặc tính nổi bật của hợp đồng kỳ hạn trên SGDHH là khả năng thanh khoản cao. Phần lớn các hợp đồng kỳ hạn không dẫn đến việc giao nhận hàng hóa thực tế mà được thanh lý trước hạn thông qua nghiệp vụ thanh toán bù trừ, bằng việc thực hiện các giao dịch ngược lại với vị thế ban đầu. Nhờ cơ chế này, các chủ thể có thể liên tục giao dịch, tạo điều kiện linh hoạt trong quản lý rủi ro và cơ hội kinh doanh, giúp giảm thiểu tối đa nghĩa vụ giao hàng thực tế. Trên thực tế, chỉ một tỷ lệ nhỏ (khoảng 2-3%) hợp đồng kỳ hạn là được tất toán thông qua giao nhận hàng thực tại thời điểm đáo hạn hợp đồng.

Như vậy, hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động giao dịch hàng hóa qua SGDHH không chỉ là một cơ chế pháp lý hiệu quả trong bảo vệ lợi ích kinh tế trước các rủi ro thị trường mà còn phản ánh trình độ phát triển cao của thị trường hàng hóa hiện đại với tính thanh khoản và tính chuẩn hóa cao.

1.3. Khái niệm pháp luật hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hoá

Hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH là một dạng hợp đồng thương mại đặc thù, phản ánh sâu sắc bản chất hàng hóa – tiền tệ của quan hệ mua bán trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Không giống với hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường, hợp đồng kỳ hạn mang tính chuẩn hóa cao, được thực hiện trong một môi trường tổ chức chuyên biệt, nơi mà các yếu tố như chủ thể tham gia, điều kiện hợp đồng, phương thức thanh toán, thời gian và địa điểm giao hàng đều tuân theo các quy chuẩn do SGDHH thiết lập và giám sát.

Chính vì mang tính đặc thù cao, hợp đồng kỳ hạn trong giao dịch qua SGDHH đòi hỏi phải được điều chỉnh bởi một hệ thống quy phạm pháp luật chuyên biệt, độc lập với các quy định về mua bán hàng hóa thông thường. Hệ thống pháp luật này không chỉ điều chỉnh các yếu tố nội dung hợp đồng, mà còn quy định về cơ chế giám sát thị trường, nghĩa vụ thông tin, cơ chế phòng ngừa rủi ro và giải quyết tranh chấp, thể hiện tính toàn diện và chặt chẽ trong kiểm soát giao dịch.

Pháp luật điều chỉnh hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH, vì vậy, có vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật về mua bán hàng hóa nói riêng và pháp luật thương mại nói chung. Hệ thống quy phạm này không chỉ góp phần nâng cao tính minh bạch, an toàn và hiệu quả trong hoạt động thương mại, mà còn tạo cơ sở pháp lý vững chắc để phát triển các công cụ phòng ngừa rủi ro giá cả và thu hút đầu tư vào thị trường hàng hóa phái sinh – một lĩnh vực đang ngày càng mở rộng tại Việt Nam và quốc tế.

Từ những yêu cầu thực tiễn nêu trên, có thể thấy rằng việc nghiên cứu, đánh giá và làm rõ các quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH là yêu cầu tất yếu, đặt nền móng cho việc hoàn thiện thể chế pháp luật về thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và phát triển thị trường hàng hóa hiện đại.

Chúng ta có thể hiểu: Pháp luật về hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH là một hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình ký kết, thực hiện và thanh toán hợp đồng kỳ hạn được thiết lập thông qua SGDHH.

Nội dung pháp luật về hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH được thể hiện cụ thể thông qua các nhóm quy phạm đặc thù, bao gồm: (1) Quy phạm về chủ thể tham gia hợp đồng kỳ hạn (thành viên giao dịch, khách hàng đầu tư, tổ chức môi giới); (2) Quy phạm về đối tượng của hợp đồng kỳ hạn (loại hàng hóa giao dịch, phẩm cấp, đơn vị hợp đồng,…); (3) Quy phạm về nội dung hợp đồng kỳ hạn (giá cả, kỳ hạn, địa điểm giao hàng, bước nhảy giá, giới hạn vị thế, phương thức thanh toán, quy mô hợp đồng…); (4) Các quy phạm điều chỉnh các vấn đề phát sinh như ký quỹ, bù trừ, xử lý vi phạm, cơ chế giám sát của cơ quan Nhà nước và SGDHH.

2. Quy định của pháp luật về hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hoá

2.1. Chủ thể của hợp đồng kỳ hạn

Chỉ những thành viên kinh doanh của SGDHH mới được phép thực hiện các hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở, dưới hai hình thức là tự doanh hoặc nhận ủy thác từ khách hàng . Để trở thành thành viên kinh doanh, thương nhân phải đáp ứng các điều kiện chặt chẽ về pháp lý (là doanh nghiệp hợp pháp), tài chính (vốn pháp định từ 75 tỷ đồng trở lên), và năng lực quản lý. Các doanh nghiệp không đáp ứng các điều kiện này không được trực tiếp đứng tên trong hợp đồng, kể cả khi là bên có nhu cầu thực sự mua hoặc bán hàng hóa. Về mặt pháp lý, hợp đồng kỳ hạn được xác lập giữa các thành viên kinh doanh của SGDHH, không phải trực tiếp giữa các khách hàng cuối. Điều này dẫn đến một số hệ quả pháp lý phức tạp:

Một là, nếu một thành viên kinh doanh đồng thời thực hiện hoạt động tự doanh và nhận ủy thác từ khách hàng đối ứng, có thể xảy ra trường hợp thành viên đó vừa là bên mua vừa là bên bán của một hợp đồng – vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.

Hai là, nếu thành viên nhận ủy thác từ hai khách hàng trái chiều và khớp lệnh nội bộ, thì hợp đồng được hình thành trên danh nghĩa chỉ một chủ thể pháp lý, gây xung đột với Điều 388 Bộ luật Dân sự 2015 về điều kiện chủ thể của hợp đồng.

Quy định pháp luật hiện hành cũng chưa phân định rạch ròi giữa khái niệm “thành viên môi giới” và “thành viên kinh doanh”, trong khi thực tiễn quốc tế (như ở Mỹ, Anh, Hàn Quốc) lại có sự phân biệt rõ. Thành viên môi giới chỉ thực hiện kết nối, còn thành viên kinh doanh chỉ thực hiện tự doanh. Sự không rõ ràng này tiềm ẩn rủi ro vi phạm nguyên tắc đại diện, dẫn đến xung đột lợi ích hoặc ảnh hưởng đến hiệu lực pháp lý của hợp đồng.

2.2. Đối tượng của hợp đồng kỳ hạn

Khác hoạt động mua bán hàng hóa thông thường, Đối tượng của hợp đồng kỳ hạn (hay hợp đồng tương lai, theo pháp luật các nước) là hàng hóa (commodities). Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hàng hóa giao dịch tại SGDHH do Bộ Công Thương quy định trong từng thời kỳ , nhưng theo quy định của pháp luật các nước, hàng hóa giao dịch tại SGDHH do từng sở giao dịch quy định. Dù được chủ thể nào quy định, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng kỳ hạn hay hợp đồng tương lai phải thỏa mãn các điều kiện phù hợp với đặc trưng của giao dịch tương lai, đó là: (i) Có thể tích trữ, bảo tồn một thời gian tương đối dài; (ii) Dễ phân loại phẩm chất, đẳng cấp; (iii) Có thể giao dịch hàng loạt với số lượng lớn; (iv) Giá cả không cố định, biến động tương đối phức tạp; (v) Có nhiều công chúng là chủ mua, chủ bán .

Thứ nhất, khi các bên giao kết hợp đồng kỳ hạn hướng tới việc giao, nhận hàng trên SGDHH, đối tượng của hợp đồng là hàng hoá. Nếu hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng rất đa dạng, chủ yếu là các hàng hóa đã có sẵn và phục vụ cho mục đích giao ngay thì đối tượng của hợp đồng kỳ hạn bị giới hạn, chủ yếu thuộc ba nhóm hàng: nông sản, năng lượng và kim loại. Đây là những mặt hàng tồn tại sự biến động lớn về giá cả và luôn tuân theo quy luật cung cầu mà không chủ thể nào có thể chi phối được. Về mặt lý thuyết, không có sự hạn chế về loại hàng hóa được giao dịch trên thị trường hàng hóa tương lai. Tuy nhiên, thực tiễn giao dịch hàng hóa tương lai cho thấy, những hàng hóa có sự biến động lớn về giá cả và dễ bị ảnh hưởng từ sự thay đổi của thị trường là những hàng hóa phát sinh nhu cầu mua bán hàng hóa tương lai nhiều nhất.

Ở Việt Nam, căn cứ Điều 63 Luật Thương mại 2005, Điều 32 Nghị định 158/2006/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 51/2018/NĐ-CP), các loại hàng hóa mua bán qua SGDHH được quy định như sau: (i) Đối với các mặt hàng thuộc danh mục hàng hóa kinh doanh có điều kiện, hạn chế kinh doanh: Trường hợp này, SGDHH phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền chấp thuận để niêm yết giao dịch trên SGDHH; (ii) Đối với những mặt hàng không thuộc danh mục hàng hóa bị cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện. Theo Quyết định 4361/QĐ-BCT ngày 18 tháng 08 năm 2010 của Bộ Công thương về việc công bố Danh mục hàng hóa được phép giao dịch qua SGDHH, các mặt hàng là đối tượng của hợp đồng kỳ hạn giao dịch trên các SGDHH chỉ bao gồm cà phê, cao su và thép. Đây là những mặt hàng có thế mạnh của chúng ta, đồng thời cũng là những hàng hóa có sự biến động lớn và ảnh hưởng nhiều từ sự thay đổi của thị trường.

Qua nghiên cứu pháp luật một số nước trên thế giới, quy định hàng hóa là đối tượng của hợp đồng kỳ hạn khá đa dạng. Theo Luật mua bán hàng hóa tương lai của bang Ontario, Canada (ban hành năm 1990, sửa đổi lần cuối năm 2023) thì:

Hàng hóa được hiểu là hàng hóa nông sản, lâm sản, hải sản, khoáng sản, kim loại, nhiên liệu hydrocarbon, tiền tệ hoặc đá quý, và bất kỳ một loại hàng hóa, vật phẩm, dịch vụ quyền hoặc lợi ích, dù ở dạng gốc hay đã qua chế biến được lựa chọn làm hàng hóa theo các quy định trong Luật này. Với quy định này, Bang Otario, Canada đã có những quy định mở rộng đối tượng của hợp đồng tương lai hơn so với pháp luật Việt Nam . Đó không chỉ dừng lại ở các mặt hàng nông sản, năng lượng và kim loại mà còn mở rộng ra nhiều loại mặt hàng khác nhau ở dạng sản phẩm hay dịch vụ, dù ở dạng gốc hay đã qua chế biến. Điều này cũng dễ lý giải, bởi lẽ với bang Ontario của Canada, hoạt động mua bán hàng hóa tương lai đã tồn tại lâu đời và mang tính chất chuyên nghiệp, còn với Việt Nam chúng ta, hoạt động này mới ở giai đoạn đầu phát triển, năng lực hiểu biết cũng như cơ sở vật chất chưa hoàn thiện nên pháp luật cần giới hạn một số mặt hàng thế mạnh trước tiên, nhằm đảm bảo những bước đi vững chắc hơn cho hoạt động mua bán hàng hóa tương lai còn non trẻ ở Việt Nam .

Hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH là hoạt động mua bán hàng hóa tương lai, vì thế, đối tượng của hợp đồng kỳ hạn phải là những hàng hóa sẽ hình thành trong tương lai (mua bán lúa non, cà phê trước vụ thu hoạch…). Tuy nhiên, tác giả không hoàn toàn đồng tình với quan điểm trên. Phần lớn hàng hóa hình thành trong tương lai là đối tượng của hợp đồng kỳ hạn nhưng đó không phải là tất cả, có những hợp đồng kỳ hạn vẫn giao dịch những hàng hóa đã tồn tại tại thời điểm giao kết hợp đồng. Về bản chất, hợp đồng kỳ hạn là cam kết mua bán với giá cả tại thời điểm giao kết hợp đồng, giao nhận hàng hóa trong tương lai; điều này có nghĩa việc giao nhận hàng sẽ được thực hiện vào một thời điểm xác định trong tương lai mà không mang tính chất “giao ngay” như hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường, chứ không bắt buộc hàng hóa phải được hình thành trong tương lai. Mục đích bảo hộ rủi ro về giá cả mới chính là ý nghĩa quan trọng của hình thức hợp đồng này.

Thứ hai, khi các bên giao kết hợp đồng kỳ hạn tất toán hợp đồng bằng lệnh đối ứng, đối tượng của hợp đồng chính là hợp đồng hàng thực (giao dịch gốc) đã được giao kết trước đó. Đây là một dạng đối tượng hợp đồng đặc biệt chỉ xuất hiện trên thị trường mua bán hàng hóa cao cấp. Các bên tham gia mua bán hàng hóa tại SGDHH không chỉ nhằm mục đích giao dịch hàng thực (hàng hóa) mà còn nhằm mục đích đầu cơ. Do đó, chính những hợp đồng kỳ hạn (giao dịch gốc) lại trở thành đối tượng mua đi bán lại trong các giao dịch trên Sở. Thông thường, khi hợp đồng đã được giao kết đồng nghĩa với việc phát sinh nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các bên, sẽ khó khăn khi các bên muốn chuyển nghĩa vụ này cho người khác nếu không được sự đồng ý của bên kia. Tuy nhiên, đối với hợp đồng kỳ hạn, với cơ chế linh hoạt của mình, Sở giao dịch cho phép các bên mua và bên bán có thể đặt các lệnh đối ứng để bán các hợp đồng kỳ hạn đã thiết lập, bù trừ nghĩa vụ. Khi đó, bên mua trong hợp đồng kỳ hạn gốc (hợp đồng kỳ hạn mua bán lần đầu) lại trở thành bên bán trong hợp đồng kỳ hạn mua bán lần hai, bên mua mới sẽ thế vào vị trí của bên mua để thực hiện nghĩa vụ với bên bán trong hợp đồng gốc và ngược lại. Cứ như thế, hợp đồng kỳ hạn ban đầu được mua đi bán lại nhiều lần cho đến trước khi hết hạn – đến thời gian thực hiện hợp đồng. Những giao dịch mua đi bán lại các hợp đồng kỳ hạn này được gọi là giao dịch hợp đồng phái sinh từ hợp đồng gốc. Khi đó đối tượng của các hợp đồng phái sinh không phải là hàng hóa, mà chính là hợp đồng kỳ hạn. Vì thế, hợp đồng kỳ hạn đã trở thành đối tượng được mua bán trên SGDHH, thậm chí đây mới thực sự là đối tượng phổ biến của các giao dịch, khi mục đích đầu cơ trên những biến động giá cả hàng hóa là mục đích chủ yếu của các chủ thể tham gia thị trường tương lai này.

2.3. Nội dung của hợp đồng kỳ hạn

Thứ nhất, tháng giao hàng theo hợp đồng: Luật Thương mại 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành đều không có quy định cụ thể về tháng giao hàng theo hợp đồng. Thông thường, tháng giao hàng sẽ được quy định tại một số tháng cụ thể trong năm. Khi khách hàng thiết lập quan hệ mua bán hàng hóa qua SGDHH thông qua thành viên sở giao dịch, họ không thể yêu cầu thực hiện việc giao hàng và thanh toán theo ý chí của mình. Trong trường hợp các loại hàng phải thu hoạch như đối với hàng nông sản, SGDHH thường xác lập các tháng giao hàng tương ứng với các tháng thu hoạch. Ví dụ như: tại Sở giao dịch hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn tài chính quốc tế London (London International Financial Futures and Options Exchange – LIFFE), các tháng giao hàng đối với cà phê là các tháng 1, 3, 5, 7, 9, và 11 ; tại SGDHH Chilongpour Malaixia, các tháng giao hàng đối với dầu thô là các tháng 12, 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9, 11 . Việc quy định như trên làm cho việc mua bán hàng hóa qua SGDHH hoàn toàn khác biệt so với mua bán hàng hóa thông thường và mua bán hàng hóa tương lai ngoài sở giao dịch, nơi người mua, người bán có thể thỏa thuận giao hàng và thanh toán vào bất kỳ thời điểm nào thích hợp đối với cả hai bên.

Pháp luật Việt Nam không đưa ra quy định cụ thể về tháng giao hàng theo hợp đồng kỳ hạn là hợp lý. Các SGDHH cũng xác lập những tháng giao hàng cụ thể đối với từng loại hàng hóa được phép giao dịch. Việc để mở quy định này vừa tạo điều kiện cho các SGDHH trong nước chủ động thiết lập những hợp đồng kỳ hạn phù hợp với nhu cầu đa dạng của khách hàng, với đặc tính của sản phẩm; đặc biệt phù hợp với điều kiện thực tế sản xuất hàng hóa trong nước. Quy định này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế khi hầu hết pháp luật các nước trên thế giới cũng để mở quy định này cho các SGDHH tự lựa chọn. Tháng giao hàng chính là mốc để các bên xác định thời gian hết hạn của hợp đồng, từ đó có phương án cho việc thu hoạch hoặc sản xuất đảm bảo kịp tiến độ giao hàng thực; đối với các nhà đầu cơ, tháng giao hàng chính là căn cứ để họ đưa ra những phương án đầu cơ thích hợp.

Hơn nữa, một khi tháng giao hàng (tháng hết hạn hợp đồng) đã được xác định, SGDHH quyết định một ngày giao dịch cuối cùng. “Ngày cuối cùng giao dịch hợp đồng là ngày do SGDHH ấn định để kể từ sau ngày đó hợp đồng này không còn được phép giao dịch” . Ngày này có thể là bất cứ ngày nào trong tháng, nhưng những ngày thường hay được dùng nhất là ngày thứ sáu, thứ ba trong tháng làm việc và ngày làm việc trước ngày làm việc cuối cùng của tháng. Ngày giao hàng đầu tiên cũng phải được xác định. Hầu hết các hợp đồng cho phép giao hàng trong bất cứ ngày nào trong tháng sau một ngày nào đó. Thường thường ngày giao hàng thích hợp đầu tiên là ngày làm việc đầu tiên của tháng, nhưng đối với một số hợp đồng thanh khoản bằng tiền mặt, việc thanh khoản được tiến hành trong ngày giao dịch cuối cùng hoặc vào ngày sau ngày giao dịch cuối cùng.

Việc các quy định của pháp luật Việt Nam không đưa ra quy định cụ thể về tháng giao hàng theo hợp đồng kỳ hạn, và điều này được đánh giá là phù hợp với thông lệ quốc tế, song theo tác giả vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định cụ thể như sau: (1) Thiếu cơ sở pháp lý thống nhất để đảm bảo tính minh bạch và ổn định thị trường. Việc để ngỏ quy định tháng giao hàng và giao cho các SGDHH tự xác lập trên thực tế là một giải pháp linh hoạt. Tuy nhiên, chính sự “mở” này lại có thể dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất giữa các sở giao dịch hoặc giữa các loại hàng hóa; (2) Khó khăn trong việc chuẩn hóa hợp đồng kỳ hạn trên toàn thị trường, gây rối cho các nhà đầu tư mới hoặc nước ngoài khi tìm hiểu và tham gia; (3) Thiếu cơ chế giám sát và chuẩn hóa tối thiểu từ phía Nhà nước có thể làm suy giảm tính minh bạch và khả năng quản lý tập trung đối với toàn bộ thị trường hợp đồng kỳ hạn. Vì vậy, cần xem xét ban hành khung pháp lý định hướng hoặc danh mục khuyến nghị về tháng giao hàng chuẩn, vừa bảo đảm tính linh hoạt cho SGDHH, vừa tạo nền tảng thống nhất cho quản lý nhà nước.

Thứ hai, giá cả trong hợp đồng: Khi ký kết một hợp đồng, một trong những điều các bên đặc biệt quan tâm là giả cả trong hợp đồng. Có thể nói, giá cả chính là cơ sở để xác định mức lỗ lãi mà các bên có thể đạt được, đặc biệt trong kinh doanh điều này càng trở nên quan trọng. Xa hơn, việc nắm bắt và tận dụng đúng những thời cơ về giá cả còn phản ánh được chiến lược cũng như năng lực của các nhà bảo hộ, nhà đầu cơ khi tham gia ký kết hợp đồng. Nếu hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường, giá cả được xác định là giá giao ngay tại thời điểm ký kết hợp đồng, hay nói cách khác đó là giá trên thị trường hiện thời hoặc giá thanh toán ngay thì đối với hợp đồng kỳ hạn tại SGDHH, giá cả ở đây là giá giao sau. Điều này có nghĩa giá cả ở đây không phải giá thị trường tại thời điểm ký kết hợp đồng, cũng không phải giá trong tương lai, mà đây chính là giá được trả tại thời điểm ký kết hợp đồng mà các bên có thể chấp nhận (giá dự kiến). Giá này được tính dựa trên mức giá giao ngay và một số thông số khác phỏng đoán về mức tăng, giảm của giá cả hàng hóa tính cho đến thời điểm hàng thực sự được giao, nhận. Khi ký kết hợp đồng kỳ hạn, bên bán kỳ vọng giá sản phẩm sẽ giảm trong tương lai và bên mua kỳ vọng giá sẽ tăng trong tương lai. Nếu giá hàng hóa tại thời điểm xác định trong tương lai (thời điểm giao hàng) thấp hơn giá thỏa thuận theo hợp đồng kỳ hạn đã ký, bên bán hàng hóa được coi là thu được lợi nhuận. Ngược lại, nếu vào thời điểm tương lai, giá thị trường cao hơn giá đã đặt tại thời điểm mua và bán theo hợp đồng, lợi nhuận sẽ thuộc về bên mua.

Đơn vị yết giá và bước nhảy về giá cũng được quy định tại hợp đồng. Đơn vị yết giá chỉ đơn thuần là đơn vị mà theo đó giá được quy định. Chẳng hạn: cà phê Robusta được yết giá theo VNĐ/tấn và USD/tấn tại BCCE; tại VNX tất cả các mặt hàng cà phê, cao su hay thép đều được yết giá theo VNĐ. Có thể nói, đơn vị yết giá không nhất thiết phải cứng nhắc, nhưng hầu hết phải dễ hiểu và thông dụng. Trong hầu hết các trường hợp, đơn vị yết giá của thị trường giao ngay được lấy ra sử dụng.

Có liên quan gần gũi với đơn vị yết giá là bước nhảy về giá. Bước nhảy về giá thường là đơn vị báo giá nhỏ nhất và những biến động giá tối thiểu không vượt qua bước nhảy về giá này. Ví dụ: Hợp đồng tương lai dầu thô WTI (NYMEX). Trên NYMEX, hợp đồng tương lai WTI Crude Oil có kích thước hợp đồng là 1.000 thùng dầu. Bước nhảy giá tối thiểu (tick size) được xác định là 0,01 USD mỗi thùng. Nếu giá hiện tại là 50,00 USD/thùng, mức điều chỉnh tiếp theo chỉ có thể là 50,01 USD hoặc 49,99 USD — đúng một bước nhảy . Bước nhảy về giá này được xác định cụ thể ngay trong hợp đồng và chỉ nằm trong biến động giá tối thiểu đã định sẵn. Thông thường không có giao dịch nào trên hoặc dưới giá tới hạn được phép giao dịch. Vì thế, sẽ không có trường hợp giá lên quá cao hay tụt xuống quá thấp. Một số hợp đồng có mức tới hạn chỉ trong những phút mở cửa, một số hợp đồng khác lại có mức tới hạn ở giữa hoặc cuối phiên giao dịch, nếu giá giữ ở mức giới hạn trong một giai đoạn kéo dài thì SGDHH có thể quyết định ngừng phiên giao dịch. Điều này giúp cho việc quản lý và khống chế giá cả tốt hơn, tránh tình trạng biến động giá quá lớn gây mất kiểm soát, dẫn đến tình trạng khủng hoảng và phá sản. Bên cạnh những ưu điểm trên thì hiện nay pháp luật hiện hành về giá cả trong hợp đồng kỳ hạn còn tồn tại nhiều hạn chế như:

Một là, thiếu quy định cụ thể và thống nhất về cơ chế xác lập giá giao sau. Pháp luật Việt Nam hiện hành, bao gồm Luật Thương mại 2005 và các văn bản dưới luật, chưa có quy định cụ thể nào về cách thức hình thành giá trong hợp đồng kỳ hạn. Trong khi đó, giá trong hợp đồng kỳ hạn là “giá giao sau” – tức là được xác lập tại thời điểm ký kết, nhưng để thực hiện tại một thời điểm trong tương lai.

Hiện nay, việc xác định giá này hoàn toàn phụ thuộc vào thỏa thuận nội bộ giữa các thành viên kinh doanh và SGDHH, mà không có chuẩn hóa cơ sở định giá (pricing model), như mô hình tính theo giá giao ngay cộng với chi phí lưu kho và các chi phí vốn và Phương pháp tính dựa trên chỉ số thị trường tham chiếu. Điều này dẫn đến việc thiếu chuẩn chung, dễ dẫn đến sự chênh lệch giá bất hợp lý giữa các SGDHH hoặc giữa giá thị trường và giá hợp đồng. Tăng rủi ro pháp lý và tranh chấp giữa các bên, nhất là trong bối cảnh thị trường biến động mạnh và làm suy yếu khả năng phát triển của các sản phẩm phái sinh liên kết với giá kỳ hạn.

Hai là, quy định của pháp luật hiện nay chưa pháp điển hóa khái niệm “giá dự kiến” và cơ chế cập nhật giá. Giá trong hợp đồng kỳ hạn là “giá dự kiến” được chấp nhận tại thời điểm giao kết, nhưng pháp luật hiện hành chưa định nghĩa “giá dự kiến” là gì? Không có quy định về cơ chế điều chỉnh giá, trong trường hợp thị trường biến động bất thường giữa thời điểm giao kết và thời điểm thực hiện. Điều này dẫn tới việc lúng túng cho cơ quan xét xử khi phát sinh tranh chấp liên quan đến việc xác định lại giá do sự kiện bất khả kháng và thiếu căn cứ để bảo vệ nhà đầu tư cá nhân, nhất là bên yếu thế trong các giao dịch đầu cơ.

Ba là, bước nhảy giá và giới hạn giá chưa được quy định trong văn bản pháp luật. Hiện nay, các yếu tố kỹ thuật như: Bước nhảy giá (tick size), Đơn vị yết giá (quote unit), Giới hạn biến động giá (price limit) đều do các SGDHH tự xác định trong hợp đồng mẫu, chưa được luật hóa hoặc hướng dẫn cụ thể trong bất kỳ văn bản pháp luật nào. Điều này dẫn tới việc thiếu đồng bộ giữa các sản phẩm giao dịch và khó khăn trong việc so sánh giữa các loại hợp đồng. Nhà đầu tư khó theo dõi, dễ bị ảnh hưởng bởi thao túng giá thông qua các bước nhảy giá nhỏ bất thường. Ví dụ: Trong khi NYMEX ấn định bước nhảy dầu WTI là 0,01 USD/thùng, thì ở Việt Nam không có cơ sở pháp lý buộc SGDHH tuân theo một giới hạn nào, làm mất tính minh bạch và kiểm soát biến động giá.

Thứ ba, quy mô hợp đồng: Quy mô hợp đồng nghĩa là một hợp đồng có một số lượng đơn vị cụ thể của một loại hàng hóa . Số này được quy định khác nhau giữa các loại hàng hóa, có thể định danh là số thùng, số tấn, số kg… tùy thuộc vào tính chất của từng loại hàng hóa. Quyết định quy mô hợp đồng là vấn đề quan trọng. Nếu quy mô nhỏ quá, nhà tự bảo hiểm và nhà đầu cơ sẽ phải chịu chi phí giao dịch cao hơn vì việc giao dịch mỗi hợp đồng phải chịu một chi phí nhất định. Ngược lại, nếu quy mô quá lớn, các nhà đầu cơ và nhà tự bảo hiểm nhỏ sẽ không có khả năng tham gia thị trường và vì thế dẫn đến nguy cơ không có đủ số hợp đồng khớp nhau.

Quy mô hợp đồng cũng là một trong những điều khoản mở trong pháp luật Việt Nam, hay nói chính xác, Luật Thương mại 2005, Nghị định 158/2006/NĐ-CP, Nghị định 51/2018/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/06/2018 và các văn bản hướng dẫn thi hành không có quy định về vấn đề này. Quy mô của từng hợp đồng phù hợp với từng loại hàng hóa sẽ được các SGDHH quy định cho phù hợp với điều kiện hoạt động của mình. Điều này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời tạo tính chủ động cho các SGDHH trong việc điều hành và quản lý hoạt động mua bán hàng hóa tại Sở mình. Trên thế giới, quy mô hợp đồng thể hiện rất đa dạng, phù hợp với sự đa dạng của hàng hóa được giao dịch qua các SGDHH. Chẳng hạn: quy mô hợp đồng tương lai ngô, yến mạch, đỗ tương, lúa mì trên CBOT (CME) là 5.000 thùng, trên MCE (SGDHH Trung Mỹ) là 1.000 thùng; quy mô hợp đồng tương lai đại gia súc sống, lợn, dạ dày lợn tại CME là 40.000 thùng, trong khi tại MCE chỉ có 20.000 thùng; quy mô hợp đồng tương lai dầu thô tại NYMEX (SGDHH New York) là 1.000 bảng; tại COMEX thì vàng có quy mô hợp đồng là 100 troi ao – xơ, bạc là 5.000 troi ao – xơ, đồng là 25.000 bảng ; hợp đồng tương lai đậu nành trên SGDHH CME là 5000 giạ ~ 136 tấn ; hợp đồng tương lai dầu cọ thô (FCPO), dầu cọ Kernel thô (FPKO) tại SGDHH Malaysia là 25 tấn .

Hiện nay, số lượng mặt hàng và quy mô hợp đồng kỳ hạn tại các SGDHH ở Việt Nam (đặc biệt là MXV) vẫn còn khá hạn chế. Điều này xuất phát từ thực tế thị trường còn mới mẻ và năng lực tham gia của các nhà đầu tư còn yếu so với tầm quốc tế. Ví dụ: Trước đây (ví dụ như ở BCCE và VNX): Hợp đồng kỳ hạn cà phê Robusta có quy mô 10 tấn/lô; Hợp đồng cà phê Robusta loại 1, Arabica và cao su RSS3: 1 tấn/lô; Thép cuộn cán nóng: 5 tấn/lô. Tuy nhiên, theo báo cáo cập nhật của MXV năm 2024, sàn giao dịch đã quản lý gần 30 thành viên kinh doanh khắp cả nước và liên thông giao dịch tới 46 sản phẩm với các sở giao dịch lớn trên thế giới . Có thể thấy, các hợp đồng kỳ hạn được các SGDHH ở Việt Nam đưa ra với quy mô khá nhỏ so với thế giới, điều này xuất phát từ thực tế mới mẻ của hoạt động mua bán này ở thị trường Việt Nam cũng như năng lực còn hạn chế của người tham gia thị trường.

Thứ tư, phân cấp cơ bản của hàng hóa. Một trong những đặc trưng cơ bản của hợp đồng kỳ hạn là sự chuẩn hóa về phẩm cấp cơ bản của hàng hóa. Mỗi SGDHH chỉ được phép giao dịch những loại hàng hóa nhất định như đã đăng ký. Hàng hóa đó có rất nhiều loại phẩm cấp khác nhau, mỗi loại sẽ điều tiết một mức giá khác nhau theo chất lượng trên thị trường giao ngay. Trong các hợp đồng kỳ hạn phải quy định phẩm cấp được chấp nhận cho giao hàng. Có thể nói, đây là quy định cứng trong hợp đồng buộc các bên tham gia mua bán phải tuân theo. Nếu hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường và hợp đồng mua bán hàng hóa tương lai trên thị trường OTC, hàng hóa được mua bán với phẩm cấp, chất lượng do các bên tự thỏa thuận và có thể thay đổi nếu các bên đạt được thỏa thuận mới thì trong hợp đồng kỳ hạn, phẩm cấp của hàng hóa đã được SGDHH công bố sẵn qua cơ chế công khai của mình. Do đó, dường như không có sự thỏa thuận về phẩm cấp của hàng hóa, các bên buộc phải tuân thủ những quy định chặt chẽ về phẩm cấp và chất lượng của hàng hóa đưa ra giao dịch. Nếu hàng hóa không đáp ứng tiêu chuẩn đồng nghĩa hợp đồng sẽ không được ký kết. Đồng thời, vấn đề chất lượng của sản phẩm cũng được SGDHH đảm bảo thông qua cơ chế này. Chính điều này đã tạo nên sự khác biệt và thể hiện tính ưu việt của hợp đồng kỳ hạn so với các hợp đồng mua bán hàng hóa khác. Sự chuẩn hóa về phẩm cấp cơ bản của hàng hóa vừa tiết kiệm thời gian các bên gặp gỡ nhau bàn về đối tượng của hợp đồng, vừa đảm bảo chất lượng của hàng hóa được nâng cao và chính xác hơn, vừa đảm bảo thực hiện đúng nghĩa vụ về chủng loại hàng hóa đã cam kết.

Để làm rõ loại hàng hóa được phép mua bán trong hợp đồng kỳ hạn được mua bán qua SGDHH, Bộ Công thương đã ban hành Quyết định 4361/QĐ-BCT ngày 18 tháng 08 năm 2010 về việc công bố Danh mục hàng hóa được phép giao dịch qua SGDHH, theo đó phẩm cấp hàng hóa được mua bán trong hợp đồng kỳ hạn trên các SGDHH của Việt Nam được xác định như sau .

Hiện tại, pháp luật Việt Nam chưa có hệ thống pháp lý thống nhất và đầy đủ về tiêu chuẩn, phân cấp, phân loại hàng hóa áp dụng chung cho các loại hàng hóa giao dịch kỳ hạn. Quy định về phẩm cấp chỉ được đề cập một cách gián tiếp thông qua Danh mục hàng hóa được phép giao dịch tại SGDHH (QĐ 4361/QĐ-BCT ngày 18/8/2010), nhưng không có hệ thống tiêu chuẩn quốc gia hay hướng dẫn kỹ thuật cụ thể kèm theo.

Các SGDHH buộc phải tự xây dựng hoặc tham khảo tiêu chuẩn quốc tế cho từng loại hàng hóa, tạo ra nguy cơ thiếu đồng bộ, đặc biệt với những mặt hàng có nguồn gốc trong nước hoặc ít phổ biến quốc tế.

Dễ dẫn đến xung đột trong thực tiễn giao hàng, nhất là khi phát sinh tranh chấp về phẩm cấp nhưng không có căn cứ pháp lý rõ ràng hoặc cơ quan giám định độc lập tiêu chuẩn hóa được pháp luật chỉ định.

Thứ năm, về địa điểm và thời điểm thực hiện hợp đồng kỳ hạn: Việc giao, nhận hàng hóa theo hợp đồng kỳ hạn được thực hiện tại địa điểm thống nhất là trung tâm giao nhận hàng hoá của sở giao dịch vào một số ngày xác định trong tháng do sở giao dịch công bố. Trong pháp luật Việt Nam, Luật thương mại năm 2005 là văn bản luật đầu tiên quy định về hợp đồng kỳ hạn. Điều 64 Luật thương mại năm 2005 quy định: “Hợp đồng kỳ hạn là thỏa thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết nhận hàng hoá tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng”. Như vậy, pháp luật chưa quy định rõ ràng và cụ thể về địa điểm, thời điểm thực hiện hợp đồng kỳ hạn. Luật Thương mại 2005 mới chỉ dừng ở việc định nghĩa hợp đồng kỳ hạn một cách khái quát, chưa đi sâu vào các điều khoản cơ bản của hợp đồng, bao gồm: địa điểm giao hàng, thời điểm thực hiện nghĩa vụ giao, nhận. Hiện nay, việc xác lập địa điểm và thời điểm giao nhận chủ yếu được SGDHH tự công bố, không có một khung quy định pháp lý tối thiểu từ cơ quan quản lý Nhà nước.

Từ các phân tích trên, có thể nhận thấy, định nghĩa này rõ ràng chưa nêu rõ được bản chất của hợp đồng kỳ hạn với tính chất là một loại hợp đồng mua bán trong tương lai được kí kết tại thị trường giao sau có tổ chức (sở giao dịch). Thực tiễn mua bán theo hợp đồng kỳ hạn và pháp luật về vấn đề này ở một số nước cho thấy, có thể tiếp cận khái niệm về hợp đồng kỳ hạn một cách đầy đủ hơn, đúng bản chất của nó hơn, đó là hợp đồng kỳ hạn là thỏa thuận về việc mua bán hàng hóa tương lai được ký kết tại sở giao dịch hàng hoá, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết nhận hàng hoá tại một thời điểm trong tương lai theo kỳ hạn và giá giao sau của hợp đồng. Điều này dẫn đến việc giảm tính minh bạch và khả năng bảo vệ pháp lý đối với bên giao dịch khi có tranh chấp về nơi – thời điểm giao hàng. Việc chỉ định địa điểm giao hàng tại trung tâm giao nhận hàng hóa duy nhất do SGDHH quy định có thể gây khó khăn cho các doanh nghiệp địa phương ở xa trung tâm này, làm tăng chi phí hậu cần và logistics. Thiếu linh hoạt trong những trường hợp đặc biệt như thiên tai, dịch bệnh, gián đoạn chuỗi cung ứng, khi đó không có cơ chế pháp lý để thay đổi địa điểm/thời điểm thực hiện hợp đồng phù hợp thực tiễn.

3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hoá

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh, hợp đồng kỳ hạn đóng vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa rủi ro và ổn định thị trường hàng hóa. Tuy nhiên, khung pháp lý điều chỉnh loại hợp đồng này tại Việt Nam, mặc dù đã được thiết lập nền tảng thông qua Luật Thương mại 2005 và các văn bản hướng dẫn, vẫn còn tồn tại nhiều bất cập cả về khái niệm, chủ thể, đối tượng, nội dung cũng như cơ chế thực thi. Trên cơ sở tham khảo pháp luật một số quốc gia phát triển, đặc biệt là Luật mua bán hàng hóa tương lai của bang Ontario, Canada, bài viết đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam như sau:

Thứ nhất, cần sửa đổi và bổ sung khái niệm hợp đồng kỳ hạn. Cần làm rõ đây là hợp đồng mua bán hàng hóa tương lai được chuẩn hóa và giao dịch thông qua SGDHH, với đặc điểm giá giao sau và thời điểm thực hiện trong tương lai. Khái niệm hiện hành tại Điều 64 Luật Thương mại 2005 còn đơn giản, chưa phản ánh đầy đủ bản chất pháp lý và cơ chế hoạt động của hợp đồng này.

Thứ hai, phân định rõ ràng các chủ thể tham gia thị trường. Pháp luật cần xác định rạch ròi giữa “thành viên môi giới” và “thành viên kinh doanh”, tương tự như mô hình pháp lý tại Canada hoặc Hoa Kỳ. Đồng thời, cần giới hạn hoạt động vừa tự doanh vừa nhận ủy thác trong cùng một hợp đồng để tránh xung đột lợi ích và đảm bảo nguyên tắc đại diện. Xây dựng quy trình minh bạch về giao kết hợp đồng cho khách hàng cuối, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của khách hàng trong mối quan hệ với thành viên SGDHH để đảm bảo an toàn pháp lý và bảo vệ người yếu thế.

Thứ ba, mở rộng và đa dạng đối tượng hàng hóa giao dịch. Cần xem xét sửa đổi Quyết định 4361/QĐ-BCT theo hướng mở rộng danh mục hàng hóa được giao dịch, không chỉ giới hạn ở cà phê, cao su và thép mà cần bao gồm cả các loại hàng hóa chế biến, dịch vụ hoặc tài sản vô hình mà theo hướng tiệm cận với khái niệm rộng trong Luật của bang Ontario (Canada), bao gồm cả quyền tài sản, năng lượng tái tạo, carbon credit, dịch vụ... Điều này phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo điều kiện phát triển thị trường.

Thứ tư, Bổ sung quy định cụ thể về địa điểm và thời điểm thực hiện hợp đồng. Quy định rõ ràng trong văn bản pháp luật các tiêu chí lựa chọn địa điểm giao nhận hàng hóa, thay vì để SGDHH toàn quyền quyết định. Bổ sung các trường hợp ngoại lệ được phép thay đổi địa điểm hoặc thời điểm giao nhận, có cơ chế xin ý kiến hoặc xác nhận từ cơ quan quản lý nhà nước trong các tình huống bất khả kháng. Cho phép phát triển hệ thống trung tâm giao nhận hàng hóa vệ tinh, thay vì chỉ tập trung tại một trung tâm duy nhất, nhằm giảm chi phí logistics, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp vùng sâu, vùng xa

Thứ năm, thừa nhận và pháp điển hóa cơ chế tất toán hợp đồng thông qua giao dịch đối ứng: Pháp luật nên ghi nhận rõ cơ chế này như một phương thức chuyển nhượng nghĩa vụ đặc thù, đồng thời quy định cụ thể về điều kiện, trình tự và hệ quả pháp lý để đảm bảo tính minh bạch, an toàn pháp lý và giảm thiểu rủi ro.

Thứ sáu, bổ sung quy định về quy mô hợp đồng, đơn vị yết giá và bước nhảy giá: Các yếu tố kỹ thuật này cần được chuẩn hóa và hướng dẫn cụ thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cả nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư cá nhân tiếp cận thị trường. Luật hóa định nghĩa “giá dự kiến” và quy trình xác lập giá kỳ hạn, bao gồm phương pháp tham chiếu như giá spot + chi phí vốn + phí lưu kho, mô hình định giá pricing model minh bạch và được chuẩn hóa trên toàn hệ thống SGDHH. Ban hành hướng dẫn pháp lý về bước nhảy giá, giới hạn biến động giá và đơn vị yết giá để đảm bảo tính minh bạch và chống thao túng giá. Xây dựng cơ chế điều chỉnh giá hợp đồng trong tình huống biến động mạnh, khủng hoảng, để bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, đặc biệt là bên yếu thế.

Thứ bảy, Chuẩn hóa quy định về quy mô hợp đồng. Xây dựng khung pháp lý hướng dẫn về quy mô hợp đồng tối thiểu và tối đa cho từng loại hàng hóa theo phân nhóm ngành (nông sản, kim loại, năng lượng, sản phẩm tài chính...), vừa đảm bảo chi phí giao dịch hợp lý, vừa mở rộng cơ hội cho nhà đầu tư nhỏ. Khuyến khích SGDHH thiết kế hợp đồng linh hoạt để phù hợp với năng lực tài chính còn hạn chế của nhà đầu tư trong nước, đồng thời hỗ trợ hoạt động bảo hiểm rủi ro cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Thứ tám, tăng cường kiểm soát rủi ro và giám sát thực thi. Cần thiết lập cơ chế giám sát độc lập đối với các thành viên giao dịch, đặc biệt trong các giao dịch ủy thác nhằm đảm bảo tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch và chống thao túng giá.

Kết luận:

Hợp đồng kỳ hạn là công cụ quan trọng trong giao dịch hàng hóa hiện đại, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa rủi ro và ổn định thị trường. Tuy nhiên, để phát huy vai trò này, pháp luật cần tiếp tục hoàn thiện nhằm đảm bảo tính minh bạch, đồng bộ và phù hợp với thực tiễn thị trường. Việc rà soát, điều chỉnh và chuẩn hóa các quy định liên quan không chỉ giúp nâng cao hiệu lực thực thi mà còn tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững của thị trường hàng hóa phái sinh tại Việt Nam. Trong thời gian tới, cần đặt trọng tâm vào việc xây dựng hành lang pháp lý ổn định, hiện đại và tiệm cận thông lệ quốc tế nhằm thu hút nhà đầu tư, nâng cao năng lực quản trị rủi ro và thúc đẩy vai trò điều tiết của SGDHH trong nền kinh tế số.

Danh mục tài liệu tham khảo


1. Bộ Công thương (2010), Quyết định 4361/QĐ-BCT, ngày 18/ 08/ 2010, về việc công bố Danh mục hàng hóa được phép giao dịch qua SGDHH, Hà Nội.

2. Bộ Thương mại (2000), “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để hình thành thị trường hàng hóa giao sau của Việt Nam”, Hà Nội.

3. Nguyễn Thị Dung (2007), “Hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn trên thị trường hàng hóa giao sau”, Tạp chí Luật học, Đại học Luật Hà Nội, (10), tr. 09-13.

4. Nguyễn Thị Yến (2011), Pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa qua SGDHH ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

5. Hồ Thúy Ngọc, Đào Trung Kiên (2013), “Báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm Luật các nước về SGDHH”, Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Vụ Pháp chế và Vụ Thị trường trong nước, Bộ Công Thương, Hà Nội.

6. John C. Hull, “Options, Futures, and Other Derivatives”, 10th ed., Pearson, 2018.

7. Black’s Law Dictionary, 11th edition, 2019

8. Mai Minh Nguyệt (2016) “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa qua SGDHH ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học Quốc Gia

9. Nguyễn Hữu Quỳnh (1998), Đại Từ điển Kinh tế thị trường, Viện Nghiên cứu và Phổ biến tri thức bách khoa, Hà Nội. tr. 1278.

10. Nguyễn Thị Mùi, Giáo trình Thị trường hàng hóa và công cụ phái sinh, Đại học Kinh tế Quốc dân, 2019

11. Hồ Thúy Ngọc, Đào Trung Kiên (2013), “Báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm Luật các nước về Sở giao dịch hàng hóa”, Dự án Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế của Vụ Pháp chế và Vụ Thị trường trong nước, Bộ Công Thương, Hà Nội.

12. Thi Thu Huong Dinh, Nguyen Giac Tri, (2023) “Research to complete the legal framework for development of Vietnam's stock market to meet international trends, Russian Law Journal, Volume XI (2023), Issue 3

13.Mua bán cà phê Robusta bằng hợp đồng tương lai qua LIFFE, ngày 24/05/2007, http://www.saga.vn/view.aspx?id=418

14. Nguyễn Hữu Quỳnh (1998), Đại Từ điển Kinh tế thị trường, Viện Nghiên cứu và Phổ biến tri thức bách khoa, Hà Nội. tr. 1264

15. What are futures contract specs?. https://robinhood.com/us/en/learn/articles/what-are-futures-contract-specs/? Truy cập 00: 21 ngày 20/6/02025

16. http://commodity.vietinbank.vn/2012/03/30/ho%CC%A3p-do%CC% 80 ng-tuong-lai-ha%CC%80 ng ho%CC%81a---futures-132, Hợp đồng tương lai hàng hóa – Futures.

17. Điều kiện vĩ mô cải thiện sẽ mở ra cơ hội đầu tư trên thị trường giao dịch hàng hóa năm 2025. https://thitruongtaichinhtiente.vn/dieu-kien-vi-mo-cai-thien-se-mo-ra-co-hoi-dau-tu-tren-thi-truong-giao-dich-hang-hoa-nam-2025-65447.html, Truy cập 22:00 ngày 15/5/2025

Cùng chuyên mục

Xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài sản

Xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài sản

Nghiên cứu lý luận -  2 tuần trước

(PLPT) - Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài sản đóng vai trò quan trọng trong việc xác định chủ thể có quyền tham gia giao kết hợp đồng bảo hiểm cũng như quyền lợi của họ khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Việc tuân thủ nguyên tắc này là điều kiện tiên quyết để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản theo quy định pháp luật Việt Nam.

Pháp luật một số quốc gia về khai thác, sử dụng không gian ngầm dưới mặt đất và gợi mở cho Việt Nam

Pháp luật một số quốc gia về khai thác, sử dụng không gian ngầm dưới mặt đất và gợi mở cho Việt Nam

Nghiên cứu lý luận -  4 tuần trước

(PLPT) - Bài viết trình bày về tầm quan trọng của việc phát triển không gian ngầm và công trình ngầm để giải quyết vấn đề thiếu đất ở các đô thị lớn, đặc biệt trong bối cảnh tốc độ đô thị hóa nhanh chóng được xem là xu thế tất yếu để sử dụng tài nguyên đất một cách tối ưu.

Cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền tác giả đối với sản phẩm đầu ra của trí tuệ nhân tạo - Thực tiễn pháp lý quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt  Nam

Cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền tác giả đối với sản phẩm đầu ra của trí tuệ nhân tạo - Thực tiễn pháp lý quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Nghiên cứu lý luận -  4 tuần trước

(PLPT) - Bài viết nghiên cứu những tác động của trí tuệ nhân tạo (AI) đến luật bản quyền và sự cần thiết phải điều chỉnh khung pháp lý để cân bằng lợi ích giữa các bên

Miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường: Phân tích so sánh giữa Chỉ thị 2004/35/EC của EU và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 của Việt Nam

Miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường: Phân tích so sánh giữa Chỉ thị 2004/35/EC của EU và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 của Việt Nam

Nghiên cứu lý luận -  1 tháng trước

(PLPT) - Bài viết nghiên cứu và so sánh cơ chế miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường giữa Chỉ thị 2004/35/EC (ELD) của EU và Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam năm 2020 nhằm chỉ ra những hạn chế trong luật pháp Việt Nam và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường.

Phòng, chống gian lận trong kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản: Kinh nghiệm Hàn Quốc và gợi mở cho Việt Nam

Phòng, chống gian lận trong kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản: Kinh nghiệm Hàn Quốc và gợi mở cho Việt Nam

Nghiên cứu lý luận -  1 tháng trước

(PLPT) - Gian lận trong kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản là một vấn đề dai dẳng và phức tạp tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Sử dụng lẽ công bằng để điều chỉnh quan hệ dân sự ở Pháp và khuyến nghị đối với Việt Nam

Sử dụng lẽ công bằng để điều chỉnh quan hệ dân sự ở Pháp và khuyến nghị đối với Việt Nam

Nghiên cứu lý luận -  1 tháng trước

(PLPT) - Ở Việt Nam, lẽ công bằng đã trở thành một nguồn của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, việc áp dụng lẽ công bằng vẫn chưa hiệu quả do các quy định về áp dụng lẽ công bằng còn hẹp cả về chức năng, lĩnh vực và chủ thể áp dụng.

Nhận diện những khoảng trống pháp lý khi thể chế hóa chủ trương của Nghị quyết số 18-NQ/TW vào Luật Đất đai 2024 và khuyến nghị hoàn thiện

Nhận diện những khoảng trống pháp lý khi thể chế hóa chủ trương của Nghị quyết số 18-NQ/TW vào Luật Đất đai 2024 và khuyến nghị hoàn thiện

Nghiên cứu lý luận -  1 tháng trước

(PLPT) - Bài viết phân tích quá trình thể chế hóa chủ trương của Nghị quyết 18-NQ/TW vào Luật Đất đai 2024, ghi nhận những đổi mới đột phá như áp dụng giá đất theo thị trường, bảo vệ người dân khi thu hồi đất và hiện đại hóa quản lý.

Quyền cư trú của lao động di trú trong ASEAN: Cơ hội và thách thức trong tiến trình phát triển bền vững

Quyền cư trú của lao động di trú trong ASEAN: Cơ hội và thách thức trong tiến trình phát triển bền vững

Nghiên cứu lý luận -  1 tháng trước

(PLPT) - Quyền cư trú của lao động di trú trong ASEAN đóng vai trò quan trọng, góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế, ổn định xã hội trong khu vực và phát triển bền vững.