Tóm tắt:
Phát triển đại lý hải quan là quá trình tăng trưởng và mở rộng quy mô,
nhằm nâng cao hiệu suất, khả năng cạnh tranh và giá trị thương hiệu trên thị
trường của đại lý hải quan. Hiện nay, các quốc gia phát triển, thủ tục hải quan
đều được thực hiện trên hệ thống tự động hóa cùng với hệ thống đại lý hải quan
phát triển chuyên nghiệp, hiệu quả, đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội. Ở Việt Nam,
đại lý hải quan hoạt động chưa đúng với bản chất của đại lý hải quan mà chủ yếu
làm dịch vụ khai thuê hải quan. Theo đó, đại lý hải quan chưa phát huy được vai
trò là “cánh tay nối dài” của cơ quan Hải quan. Điều này đang đi ngược lại xu
thế phát triển của đại lý hải quan, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi số.
Bài viết chỉ ra những bất cập, vướng mắc về pháp lý thông qua thực trạng phát
triển và thực tiễn hoạt động của đại lý hải quan ở Việt Nam. Qua đó có một số
gợi mở hoàn thiện pháp luật, tạo môi trường pháp lý thuận lợi hơn cho sự phát
triển của đại lý hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số.
Từ khóa:
đại
lý hải quan, phát triển đại lý hải quan, chuyển đổi số, vấn đề pháp lý
Summary:
The development of customs brokerage agencies is the process of growth and
expansion aimed at improving efficiency, competitiveness, and brand value in
the market. In developed countries, customs procedures are carried out through
automated systems in combination with professionally developed and efficient
customs brokerage networks that effectively meet societal needs. In Vietnam,
however, customs brokers have not been operating in accordance with their
intended role, mainly providing outsourced customs declaration services. As a
result, they have not fulfilled their function as an “extended arm” of the
Customs authority, which goes against the global trend in customs broker
development-especially amid digital transformation. This article highlights
legal shortcomings and practical obstacles in the current state and operations
of customs brokers in Vietnam, offering recommendations to improve the legal
framework and create a more favorable environment for their development in the
digital age.
Keywords: customs broker, customs broker development,
digital transformation, legal issues
1. Dẫn đề
Đại lý hải quan (ĐLHQ)
được hình thành vào đầu thế kỷ 19 ở Mỹ và một số quốc gia Châu Âu như Anh,
Pháp, Tây Ban Nha..., xuất phát từ những khó khăn trong việc tổ chức sắp xếp
đưa hàng hoá qua biên giới giữa các quốc gia, trong điều kiện các quy định về thủ
tục của các nước phức tạp, và chưa có chuẩn mực thống nhất. Cùng với sự phát
triển của hoạt động thương mại quốc tế, khi được chuyên môn hóa, việc cung cấp
dịch vụ thủ tục hải quan đã trở thành một nghề độc lập. Đến giai đoạn chủ nghĩa
tư bản phát triển, các nhà trung gian làm thủ tục hải quan từng bước lớn mạnh
cả về số lượng và chất lượng dịch vụ và trở thành một khâu giao nhận hàng hóa,
tăng tính hiệu quả và duy trì sự thông suốt trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
ĐLHQ theo thuật ngữ
tiếng Anh chuyên ngành là “Customs Broker”. Do tập quán thương mại và lịch sử
hình thành khác nhau nên tên gọi ĐLHQ ở mỗi quốc gia cũng khác nhau: Ở
Indonesia, gọi là “công ty môi giới hải quan”, Philippine là “môi giới hải quan”,
Trung Quốc là “xí nghiệp khai thuê hải quan”, Nhật Bản là “môi giới hải quan”,
Hàn Quốc là “công ty môi giới hải quan”, Pháp là “đơn vị được chấp nhận làm
người ăn hoa hồng về hải quan”, Hoa Kỳ là “người môi giới hải quan”[1]…
và ở Việt Nam được gọi là “đại lý làm thủ tục Hải quan”.[2]
Ở hầu hết
các quốc gia, ĐLHQ là một loại hình dịch vụ rất phát triển trong hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu (XNK), đây là một khâu trong chuỗi dịch vụ giao nhận hàng hóa
mà nhiều nước đã áp dụng hiệu quả.[3] Việc
đẩy mạnh phát triển ĐLHQ không những giúp cơ quan hải quan giải quyết được mâu
thuẫn, hoạt động XNK ngày càng gia tăng, nguồn nhân lực hải quan có hạn mà còn
giúp doanh nghiệp thông quan hàng hóa nhanh, tránh được những vi phạm trong quá
trình làm thủ tục hải quan và tiết kiệm được chi phí như chi phí đầu tư về nhân
sự, trang thiết bị, phương tiện hiện đại phục vụ cho việc làm thủ tục hải quan
và tăng năng lực cạnh tranh trên thương trường quốc tế.
Với vai trò
trung gian quan trọng trong việc thực hiện các thủ tục XNK, ĐLHQ đã và đang
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đặc biệt là công cuộc
chuyển đổi số. Chuyển đổi số là bước phát triển tiếp theo của tin học hóa, là
quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách làm việc
và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số. Đây là một xu hướng không
thể phủ nhận trong hầu hết các lĩnh vực kinh doanh và phát triển dịch vụ hiện
nay. Mục tiêu của chuyển đổi
số là nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng khả năng cạnh tranh và tạo ra giá
trị mới cho khách hàng. Phát triển ĐLHQ trong bối cảnh chuyển đổi số là việc mở
rộng quy mô, nâng cao chất lượng dịch vụ trên cơ sở nền tảng số. Trong quá
trình này, hải quan, doanh nghiệp sẽ áp dụng công nghệ số như trí tuệ nhân tạo
(AI), blockchain, học máy, IoT (Internet of Things), big data, cloud computing… để tối ưu hóa quy trình làm việc, tăng
cường hiệu suất và khả năng sáng tạo, cũng như cung cấp dịch vụ tốt hơn cho
khách hàng. Bản chất của chuyển đổi số không chỉ đề cập đến việc
triển khai công nghệ mới, mà còn là một quá trình tái cơ cấu toàn diện về cách
thức tổ chức hoạt động và tư duy làm việc. Khái niệm chuyển đổi số bao hàm: (i) Số hóa thông tin - Digitization;
(ii) Số hoá quy trình - Digitalization; (iii) Số hoá toàn diện - Digital
Transformation. Trong dòng chảy thương mại điện tử xuyên biên giới, chuyển đổi
số trong lĩnh vực hải quan khiến ĐLHQ không chỉ là một mắt xích quan trọng của
chuỗi cung ứng dịch vụ toàn cầu mà còn giúp cơ quan hải quan thực hiện được mục
tiêu hải quan số, hải quan thông minh.
2. Thực tiễn phát triển đại lý hải quan ở Việt Nam
2.1. Về quy mô hoạt động
Hoạt động
ĐLHQ ở Việt Nam ra đời từ những năm 90 của thế kỷ XX trên cơ sở Pháp lệnh Hải
quan ngày 20/02/1990 và Nghị định số 171/HĐBT ngày 25/07/1991 của Hội đồng Bộ
trưởng cho phép người thứ ba thay mặt chủ hàng khai báo hải quan. Từ năm 1991
đến năm 1995, đã có hơn 200 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận
vận tải và khai báo hải quan ra đời để đáp ứng nhu cầu cho hàng nghìn doanh
nghiệp kinh doanh XNK.[4] Việc
phát triển hệ thống ĐLHQ đã được chú trọng và thường xuyên đẩy mạnh trong thời
gian qua. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan (nay là Cục hải quan) đã công nhận
hoạt động ĐLHQ đối với hơn 1.600 doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình hoạt
động có một số ĐLHQ bị tạm dừng, chấm dứt hoạt động do không còn đáp ứng được
các các điều kiện theo quy định hoặc một phần do doanh nghiệp chuyển đổi hoạt
động kinh doanh, do vậy số lượng ĐLHQ hiện đang hoạt động khoảng 1.200 đại lý.[5] Về
nhân viên ĐLHQ, Tổng cục Hải quan đã thực hiện cấp mã số nhân viên ĐLHQ cho
khoảng 3.200 nhân viên. Trong quá trình hoạt động, một số mã số nhân viên ĐLHQ
bị thu hồi, do vậy, cả nước hiện nay có khoảng 1.700 mã số nhân viên ĐLHQ đang
hoạt động. Số lượng nhân viên ĐLHQ trên mỗi ĐLHQ thấp, chỉ xấp xỉ 1,4 nhân
viên/đại lý[6].
Trình độ nghiệp vụ của nhân viên ĐLHQ chưa đồng đều. Việc đào tạo và cập nhật
kiến thức cho các ĐLHQ chưa được thực hiện thường xuyên, khiến một số đại lý
không kịp thời nắm bắt được những thay đổi về chính sách, pháp luật và công
nghệ mới. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ và làm tăng nguy cơ vi phạm
quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan của các ĐLHQ [7].
Các ĐLHQ tập trung chủ
yếu ở một số thành phố có hoạt động XNK phát triển, có hoạt động của các khu
công nghiệp, khu chế xuất như: TP. Hồ Chí Minh (năm 2022 có 300 ĐLHQ), Hà Nội
(năm 2018 có 208 ĐLHQ được công nhận và đến năm 2023 tăng lên là 379 đại lý,
chiếm khoảng 24,3% tổng số ĐLHQ trên toàn quốc), Hải Phòng, Đồng Nai, Bình
Dương, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh… Số lượng ĐLHQ ở một số địa phương còn
khiêm tốn so với tiềm năng, lợi thế của địa phương và thậm chí có những địa bàn
không có ĐLHQ như: Đắk Lắk, Điện Biên, Hà Giang, Bình Phước.[8]
2.2. Về chất lượng dịch vụ khai hải quan
Theo thống
kê số liệu từ tờ khai hải quan, việc sử dụng dịch vụ ĐLHQ trong khai báo hải
quan còn thấp so với tổng số tờ khai XNK. Số lượng ĐLHQ thực hiện đầy đủ các
công việc của ĐLHQ từ các khâu tư vấn, khai báo đến nộp thuế, hàng hóa được
thông quan và kiểm tra sau thông quan hiện nay khá thấp. Trong 6 tháng đầu năm
2024, toàn quốc có 156 ĐLHQ đứng tên trên tờ khai thay cho chủ hàng thực hiện
hoạt động XNK, chiếm 14,1% trên tổng số ĐLHQ. Trong đó, số lượng tờ khai XNK
của ĐLHQ thực hiện là 503.734 tờ khai chiếm 6,11% trên tổng số 8.241.170 tờ
khai XNK, với kim ngạch XNK là 26,54 triệu USD, chiếm 5,81% trên tổng số 450,75
triệu USD kim ngạch XNK của cả nước.[9]Các ĐLHQ
này chủ yếu là các đại lý lớn, có tiềm lực và họ ký kết hợp đồng chủ yếu với
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hoặc hoạt động thuê các cá nhân,
doanh nghiệp làm “dịch vụ khai thuê” thông qua thỏa thuận vẫn là chủ yếu, việc
đứng tên trên tờ khai hải quan, thực hiện các nghĩa vụ thuế, phí, lệ phí và các
khoản thu khác vẫn do chủ hàng tự đứng ra thực hiện. Bên cạnh đó một số doanh
nghiệp, tập đoàn lớn họ không lựa chọn ĐLHQ trên địa bàn mà lựa chọn thuê các
đại lý thuộc sự quản lý của các Cục Hải quan tỉnh, thành phố khác để thực hiện
thủ tục hải quan dẫn đến khó khăn trong công tác theo dõi, quản lý và xử lý vi
phạm của ĐLHQ.[10]
Với số lượng
ĐLHQ hiện còn rất khiêm tốn so với tiềm năng, lợi thế cùng với số lượng tờ
khai, trị giá kim ngạch XNK, số thuế thu nộp thông qua các ĐLHQ cũng còn rất
thấp. Điều này cho thấy sự hạn chế trong năng lực của ĐLHQ nên nhiều doanh
nghiệp có hàng hoá XNK chưa thấy được lợi ích và hiệu quả lâu dài khi thực hiện
thủ tục hải quan qua các ĐLHQ. Doanh nghiệp XNK không muốn thuê ĐLHQ mà muốn tự
mình trực tiếp làm thủ tục hải quan để chủ động giải quyết các vướng mắc phát
sinh, đồng thời cũng để giảm bớt chi phí khác như chi phí thuê làm thủ tục hải
quan, thuế giá trị gia tăng.[11]
Ngoài ra, ĐLHQ phải cạnh tranh với các cá nhân hoạt động tự do, tự phát cộng
thêm những rủi ro pháp lý của các ĐLHQ trong quá trình tác nghiệp đã cản trở sự
phát triển của ĐLHQ. Kết quả là, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan,
chỉ có khoảng 7% tờ khai hải quan của doanh nghiệp được thực hiện thông qua đại
lý.[12]
Trong khi đó mỗi năm, ở Việt Nam có hàng triệu tờ khai hải quan, dẫn đến tình
trạng quá tải, đặc biệt là tại các cảng biển lớn và các khu vực kinh tế trọng
điểm. Con số này là quá thấp so với một số nước phát triển như Nhật Bản, Hàn
quốc ....số tờ khai được thực hiện thông qua ĐLHQ chiếm khoảng trên 90%.
2.3. Về hỗ trợ cơ quan hải quan trong quản lý hàng hóa XNK
ĐLHQ ở Việt Nam chưa hỗ
trợ nhiều cho các cơ quan quản lý nhà nước về hải quan, và cũng chưa thực sự là
“cánh tay nối dài” của cơ quan Hải quan. Điều này đang đi ngược lại xu thế phát
triển của ĐLHQ trong bối cảnh kinh tế số. Hiện nay ở các nước phát triển, mức
độ kiểm tra hàng hóa tùy thuộc vào từng nước, nhưng tổng thể nếu 90% hàng hóa
đã được kiểm soát bởi cơ quan Hải quan thì sẽ không bị các cơ quan khác của
Chính phủ kiểm tra trực tiếp. Một phần là do sự hỗ trợ từ ĐLHQ với sự am hiểu
về thông tin hàng hóa và các quy định thông quan của cơ quan Hải quan các nước.[13]
Bên cạnh đó, các ĐLHQ ở Việt Nam chưa tạo
điều kiện cho hiện đại hóa công tác quản lý hải quan cũng như chuyển đổi số
hướng tới mô hình hải quan thông minh. Vì việc làm thủ tục hải quan hiện nay
chưa được tập trung về một số đầu mối là ĐLHQ, do vậy việc kết nối, chia sẻ dữ
liệu, thông tin giữa ĐLHQ với cơ quan hải quan còn hạn chế.
3. Một số vấn đề pháp lý đặt ra từ thực tiễn hoạt động đại lý hải quan ở Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số và kiến nghị hoàn thiện
3.1. Về khái niệm “Đại lý hải quan”
Công ước Kyoto là công
ước quốc tế về đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục hải quan, là Công ước “xương
sống” về thủ tục hải quan.[14] Công
ước quốc tế này không đưa ra định nghĩa cụ thể về đại lý hải quan mà hướng tới
các nguyên tắc chung về thủ tục hải quan bằng cách tạo ra một khuôn khổ chung
cho thủ tục hải quan. Tuy nhiên, Công ước Kyoto góp phần tạo điều kiện cho các
quốc gia phát triển các quy định chi tiết hơn về các hoạt động hải quan, bao
gồm cả quy định về đại lý hải quan để đảm bảo sự tuân thủ và hiệu quả. Cụ thể
Công ước Kyoto sửa đổi, năm 1999 quy định “Luật
pháp quốc gia phải quy định những điều kiện trong đó một người có thể hoạt động
vì và thay mặt cho một người khác trong quan hệ với cơ quan Hải quan và phải
định rõ trách nhiệm của bên thứ ba đó về các khoản thuế hải quan và thuế khác
cũng như về bất cứ hành vi vi phạm nào”[15]
Theo quy định của pháp
luật Việt Nam hiện nay, ĐLHQ là bên thay mặt chủ hàng thực hiện trách nhiệm
khai hải quan và thực hiện các công việc khác về thủ tục hải quan theo thoả
thuận trong hợp đồng.[16]
Với khái niệm đó và cùng với thuật ngữ “Đại
lý làm thủ tục hải quan”, dường như khái niệm ĐLHQ đang được tiếp cận với
tư cách là “Đại lý chủ hàng”, vì vậy
ĐLHQ chỉ làm đơn giản mỗi một việc là khai thuê tức là ký hợp đồng với chủ hàng
để tiếp xúc với cơ quan Hải quan nhằm thông quan hàng hóa. Quy định về ĐLHQ ở
Việt Nam hiện nay đang lúng túng trong việc xác định địa vị pháp lý của ĐLHQ,
chưa làm rõ được “tư cách pháp lý kép” của ĐLHQ: (i) vừa là người cung cấp dịch
vụ khai hải quan; (ii) vừa là chủ thể được cơ quan hải quan ủy quyền thực hiện
một số hành vi quản lý liên quan đến thủ tục hải quan. Tại nhiều quốc gia,
trước khi hàng đến, cơ quan Hải quan kiểm tra Bản lược khai hàng hóa do ĐLHQ
cung cấp. Thay vì duy trì mối quan hệ trực tiếp với các nhà nhập khẩu hoặc xuất
khẩu thì ĐLHQ là người sẽ thực hiện tất cả các hoạt động và thủ tục thương mại
nước ngoài trên danh nghĩa của các nhà nhập khẩu hoặc xuất khẩu đó. Trách nhiệm
của ĐLHQ là kiểm soát và cung cấp tất cả các thông tin cho cơ quan Hải quan để
đảm bảo sự an toàn về hàng hóa.[17]
Đồng thời ĐLHQ là đầu mối quan trọng nhập dữ liệu với tính đầy đủ, chính xác
cao nhất, từ đó giảm thiểu được công việc của các công chức hải quan trong khâu
tiếp nhận và xử lý tờ khai, góp phần thực hiện tinh giản bộ máy của cơ quan hải
quan có hiệu quả hơn. Cùng với đó, ĐLHQ trên cơ sở theo dõi thường xuyên sự di
chuyển của hàng hóa XNK, phương tiện vận tải xuất nhập cảnh thông qua việc làm
thủ tục hải quan cho khách hàng, và với sự hợp tác chặt chẽ với cơ quan Hải
quan về mặt nghiệp vụ, có thể phát hiện sớm những hành vi vi phạm pháp luật,
cung cấp cho cơ quan Hải quan những thông tin cần thiết nhằm kịp thời ngăn ngừa
các gian lận thương mại. Do vậy, cần chỉnh sửa khái niệm ĐLHQ trên cơ sở tư
cách pháp lý kép của ĐLHQ, từ đó xác định rõ địa vị pháp lý của ĐLHQ trong mối
quan hệ với chủ hàng và cơ quan Hải quan, đặc biệt là mối quan hệ giữa hải quan
với ĐLHQ. Trong mối quan hệ này cần có các quy định hoặc cho phép cơ quan Hải
quan được ủy quyền cho ĐLHQ thực hiện một số hành vi/nghiệp vụ quản lý trong quá
trình thực hiện thủ tục hải quan trên cơ sở một thỏa thuận, cam kết hợp tác
giữa cơ quan hải quan với ĐLHQ để phát huy vai trò “cánh tay nối dài” của cơ
quan Hải quan. Theo đó, khái niệm ĐLHQ cần được quy định trong Luật Hải quan và
nên dùng cụm từ “Đại lý hải quan” thay cho cụm từ “Đại lý làm thủ tục hải
quan”.
3.2. Về điều kiện để được công nhận đại lý hải quan
Đại lý nói
chung và ĐLHQ nói riêng là hoạt động/ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Vì
vậy, để được công nhận là ĐLHQ, doanh nghiệp phải đáp ứng đủ các điều kiện: (i)
Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
có ngành, nghề kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa hoặc đại lý làm thủ tục
hải quan; (ii) Có nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan; (iii) Có hạ tầng công
nghệ thông tin đáp ứng điều kiện để thực hiện khai hải quan điện tử và các điều
kiện khác theo quy định. ĐLHQ là doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện trên thay
mặt người có hàng hóa XNK thực hiện việc khai hải quan; nộp, xuất trình bộ hồ
sơ hải quan có liên quan đến lô hàng XNK theo quy định và thực hiện toàn bộ
hoặc một phần các công việc liên quan đến thủ tục hải quan theo thỏa thuận
trong hợp đồng ký với chủ hàng.[18]Nhìn
chung các điều kiện đó khá tương đồng với quy định pháp luật các nước. Tuy
nhiên trong bối cảnh chuyển đổi số thì điều kiện có hạ tầng công nghệ thông tin
chỉ đáp ứng điều kiện để “thực hiện khai hải quan điện tử” không còn phù hợp
với giai đoạn 3 “Số hoá toàn diện”. Bởi khai hải quan chỉ là một nội dung của
thủ tục hải quan và hạ tầng công nghệ thông tin đáp ứng điều kiện khai hải quan
điện tử đang ở mức độ 1 và 2 của chuyển đổi số. Vì vậy, nên sửa đổi điều kiện
này để phù hợp với giai đoạn “Số hoá toàn diện” và hướng tới mô hình hải quan
thông minh.
Điều kiện về
nhân viên ĐLHQ là công dân Việt Nam: (i) Có trình độ cao đẳng kinh tế, luật, kỹ
thuật trở lên; (ii) Có chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan; (iii) Được cơ quan
hải quan cấp mã số nhân viên ĐLHQ.[19] Quy định
về điều kiện để được làm nhân viên ĐLHQ phải có bằng cấp từ cao đẳng trở lên
chuyên ngành luật, kinh tế, kỹ thuật là quá bó hẹp và không còn phù hợp. Một số
ngành/chuyên ngành đáp ứng tốt cho việc thực hiện dịch vụ khai hải quan trong
bối chuyển đổi số hiện nay như ngành công nghệ, quản trị nhân lực, logistics
....Vì vậy, cần mở rộng đối tượng để họ có cơ hội tham dự các kỳ thi chứng chỉ
nghiệp vụ khai hải quan, đáp ứng điều kiện nhân viên ĐLHQ. Ngoài ra để đảm bảo
tính chuyên nghiệp và hành nghề cao của ĐLHQ cũng cần bổ sung thêm điều kiện
phải có thời hạn hoạt động thực tiễn tại các ĐLHQ trong một thời hạn nhất định.[20]
3.3. Về quyền và nghĩa vụ của đại lý hải quan
Trên cơ sở
xác định lại địa vị pháp lý của ĐLHQ, cần chỉnh sửa, bổ sung thêm các quyền và
nghĩa vụ của ĐLHQ. Hiện nay pháp luật hải quan mới dừng lại ở việc xác định
ĐLHQ với tư cách là người khai hải quan, do vậy ĐLHQ và nhân viên ĐLHQ có các
quyền và nghĩa vụ của người khai hải quan[21], như: a) Khai hải quan và làm thủ tục hải quan theo quy
định của Luật Hải quan; b) Cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin để cơ quan Hải
quan thực hiện xác định trước mã số, xuất xứ, trị giá hải quan đối với hàng
hóa; c) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự xác thực của nội dung đã khai và
các chứng từ đã nộp, xuất trình; về sự thống nhất nội dung thông tin giữa hồ sơ
lưu tại doanh nghiệp với hồ sơ lưu tại cơ quan Hải quan; d) Thực hiện quyết
định và yêu cầu của cơ quan Hải quan, công chức hải quan trong việc làm thủ tục
hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa, phương tiện vận tải; e)
Bố trí người, phương tiện thực hiện các công việc liên quan để công chức hải
quan kiểm tra thực tế hàng hóa, phương tiện vận tải; g) Nộp thuế và thực hiện
các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật về thuế, phí, lệ phí và
quy định khác của pháp luật có liên quan. Tuy nhiên nghĩa vụ lưu giữ hồ sơ hải
quan đối với hàng hóa đã được thông quan; xuất trình hồ sơ, cung cấp thông tin,
chứng từ liên quan khi cơ quan hải quan yêu cầu kiểm tra (kiểm tra hồ sơ hải
quan, kiểm tra sau thông quan tại trụ sở cơ quan hải quan, kiểm tra sau thông
quan tại trụ sở người khai hải quan) là điều cần thiết. ĐLHQ sẽ là đầu mối để
cơ quan hải quan thực hiện kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa XNK một
cách hiệu quả. Vì vậy cần bổ sung nghĩa vụ này cho ĐLHQ mà không nên loại trừ
như quy định của pháp luật hiện nay.[22]
Ngoài các quyền và nghĩa
vụ nói trên được quy định tại Luật Hải quan thì ĐLHQ còn phải thực hiện một số
quyền và nghĩa vụ khác được quy định cụ thể tại Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài
chính.[23]
Cụ thể, ĐLHQ phải ký hợp đồng đại lý với chủ hàng; Khai và làm thủ tục hải quan
trên cơ sở hợp đồng đại lý đã ký với chủ hàng; Ký tên, đóng dấu trên tờ khai
hải quan và các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan; và thực hiện báo cáo định kỳ
hoạt động đại lý với cơ quan hải quan. Tuy nhiên, qua thực tiễn vận hành cho
thấy các quy định này bộc lộ một số bất cập trong quá trình thực hiện, cụ thể:
Thứ nhất, Về việc ký hợp đồng đại lý với chủ hàng, khai
và làm thủ tục hải quan trên cơ sở hợp đồng đại lý đã ký. Theo báo cáo của Cục
Giám sát quản lý về hải quan, qua kết quả kiểm tra cho thấy nhiều hợp đồng đã
ký không có thỏa thuận sử dụng chữ ký số của ĐLHQ để khai và làm thủ tục hải
quan. Các hợp đồng như vậy là chưa đáp ứng yêu cầu của pháp luật[24]
về một hợp đồng ĐLHQ, thực chất đây là hợp đồng khai thuê hải quan và chủ hàng
vẫn chịu trách trước pháp luật về thủ tục hải quan đối với lô hàng, chứ không
phải ĐLHQ. Tuy nhiên, các thỏa thuận trong hợp đồng này giữa ĐLHQ và chủ hàng
nếu không thuộc các trường hợp bị vô hiệu theo quy định của Bộ Luật Dân sự 2015
thì vẫn đảm bảo có hiệu lực[25].
Vì vậy, hợp đồng mà các ĐLHQ ký với chủ hàng để thực hiện thủ tục hải quan
không đúng với bản chất hoạt động của ĐLHQ vẫn tồn tại khá phổ biến. Bên cạnh
đó, trong thực tiễn, có một số ĐLHQ còn ký hợp đồng với bên thứ ba để thực hiện
một phần công việc trong hợp đồng ĐLHQ. Vì vậy, cần bổ sung quy định trong
trường hợp ĐLHQ ký hợp đồng với bên thứ 3 thực hiện một phần công việc trong
hợp đồng ĐLHQ thì bên ĐLHQ vẫn phải chịu trách nhiệm với chủ hàng về các công
việc đã thỏa thuận trong hợp đồng đại lý.
Thứ hai,
Về việc ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan và các chứng từ thuộc hồ sơ hải
quan. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ tục hải quan đang được thực
hiện theo phương thức điện tử (trừ một số trường hợp đặc thù)[26], do
đó việc ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan và các chứng từ thuộc hồ sơ hải
quan được thực hiện bằng chữ ký số. Tuy nhiên, như đã nêu trên, có nhiều hợp
đồng đã ký không có điều khoản/thỏa thuận sử dụng chữ ký số của ĐLHQ để khai và
làm thủ tục hải quan nên các ĐLHQ đã không sử dụng chữ ký số của mình trên tờ
khai hải quan và các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan mà sử dụng chữ ký số, ID của
chủ hàng để thực hiện khai báo hải quan và thông quan hàng hóa. Do vậy, trong
trường hợp khai không đúng, bị phạt, cưỡng chế hoặc phát sinh nợ…đều quy trách
nhiệm về chủ hàng dẫn đến có những tranh chấp pháp lý kéo dài, ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp các bên liên quan. Vì vậy, cần quy định rõ khi tham gia
vào hoạt động ĐLHQ bắt buộc các ĐLHQ phải sử dụng chữ ký số của chính đại lý[27] và
trong hợp đồng đại lý phải có thỏa thuận rõ sử dụng chữ ký số của ĐLHQ để phân
định rõ trách nhiệm pháp lý giữa ĐLHQ với chủ hàng và với cơ quan hải quan cũng
như chịu trách nhiệm trước pháp luật trong “mối quan hệ tay ba” này.
Cùng với nghĩa vụ của ĐLHQ là trách nhiệm của
chủ hàng phải thông báo cho cơ quan hải quan danh sách ĐLHQ được thay mặt chủ
hàng để làm thủ tục hải quan (thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải
quan) trước khi ĐLHQ thực hiện việc khai và làm thủ tục hải quan đối với hàng
hóa XNK.[28]Việc
thông báo danh sách ĐLHQ thay mặt chủ hàng khai và làm thủ tục hải quan nhằm
ngăn chặn nguy cơ đại lý lợi dụng thông tin của doanh nghiệp XNK để làm thủ tục
hải quan, thực hiện hành vi gian lận, vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, một số chủ
hàng không thực hiện trách nhiệm trên vì trong hợp đồng không có thỏa thuận sử
dụng chữ ký số của ĐLHQ để khai báo hải quan và thực hiện thông quan hàng hóa.
Bên cạnh đó, hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan chưa xử lý được việc ngăn
chặn ngay khai báo của các đại lý chưa được chủ hàng ủy quyền mà vẫn thực hiện
khai báo trên hệ thống.
Như vậy, đối
chiếu với quy định tại Thông tư số 12/2015/TT-BTC[29] có một số
ĐLHQ cũng như chủ hàng không thực hiện đúng các yêu cầu đối với hoạt động của
đại lý trong lĩnh vực hải quan. Tuy nhiên, điều đáng nói là hiện nay các văn
bản pháp luật chưa có quy định xử lý trường hợp ĐLHQ không hoạt động với tư
cách đại lý mà chỉ hoạt động dịch vụ khai thuê hải quan.[30]Vì vậy,
cần bổ sung quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với ĐLHQ khi không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng quy định của pháp luật trong quá trình hoạt động
của ĐLHQ. Đây sẽ là một trong những tiêu chí quan trọng xếp hạng ý thức tuân
thủ pháp luật của ĐLHQ để xem xét công nhận ĐLHQ ưu tiên cũng như áp dụng
nguyên tắc quản lý rủi ro đối với ĐLHQ.
Thứ ba,
về Báo cáo định kỳ tình hình hoạt động của các ĐLHQ: Hiện nay các ĐLHQ phải nộp
báo định kỳ theo quý cho cơ quan hải quan[31], tuy
nhiên trong thực tế, nghĩa vụ này chỉ mang tính hình thức, không giúp được cơ
quan hải quan trong việc quản lý tình trạng hoạt động của các ĐLHQ. Vì vậy, nên
bỏ quy định này, trong mô hình hải quan số, hải quan thông minh hoạt động Báo
cáo định kỳ này là không cần thiết. Bởi cơ quan Hải quan sẽ nắm được tất cả các
thông tin hoạt động của ĐLHQ thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu của cơ quan hải
quan, thông qua cơ chế kết nối và trao đổi dữ liệu giữa cơ quan hải quan với
ĐLHQ mà không cần ĐLHQ có nghĩa vụ phải báo cáo, cung cấp.
Thứ tư,
Về việc cử người đại diện khi làm thủ tục hải quan và các thủ tục hành chính
khác với cơ quan Hải quan. Trong thực tế, khi làm thủ tục hải quan và các thủ
tục hành chính khác với cơ quan hải quan, nhân viên các ĐLHQ hoạt động đúng bản
chất của đại lý sử dụng Giấy giới thiệu của ĐLHQ, nhân viên các ĐLHQ hoạt động
dịch vụ khai thuê hải quan sử dụng Giấy giới thiệu của chủ hàng. Vậy vấn đề đặt
ra là, Giấy giới thiệu của chủ hàng giới thiệu nhân viên ĐLHQ không thuộc thẩm
quyền quản lý của mình và việc cơ quan Hải quan chấp nhận Giấy giới thiệu của
chủ hàng trong trường hợp này để làm thủ tục hải quan và các thủ tục hành chính
khác có đúng với quy định của pháp luật hay không? Ngoài bất cập vướng mắc đó,
thì quy định này là không phù hợp với bối cảnh chuyển đổi số đặc biệt khi đã
thực hiện số hóa toàn diện trong hoạt động hải quan. Vì vậy, nên quy định sử
dụng mã số nhân viên ĐLHQ đã được cập nhật trên hệ thống xử lý dữ liệu của cơ
quan Hải quan. Điều này cũng sẽ thống nhất với quy định “Mã số nhân viên ĐLHQ
được Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan cấp sẽ được cập nhật vào hệ thống cơ sở
dữ liệu của cơ quan Hải quan. Trường hợp việc khai hải quan thực hiện bằng
phương thức điện tử, cơ quan Hải quan sẽ cấp tên người sử dụng và mật khẩu cho
người được cấp mã số nhân viên ĐLHQ để truy cập vào hệ thống. Người được cấp mã
số nhân viên ĐLHQ chịu trách nhiệm bảo mật các thông tin do cơ quan Hải quan
cung cấp. Khi thực hiện các thủ tục hành chính trực tiếp với cơ quan Hải quan,
nhân viên ĐLHQ phải xuất trình mã số nhân viên ĐLHQ”.[32]
3.4. Về trách nhiệm của cơ quan Hải quan
ĐLHQ là một chủ thể được
thành lập xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của hoạt động XNK (theo thông lệ quốc
tế), với mục đích góp phần làm giảm gánh nặng cho cơ quan Hải quan, giúp Hải
quan giải phóng hàng nhanh hơn, hiệu quả hơn. Tuy nó không phải thuộc tổ chức
bộ máy của cơ quan Hải quan nhưng là đồng minh tin cậy của ngành Hải quan, là
cánh tay nối dài của hải quan. Theo đó, việc huấn luyện, đào tạo, cung cấp và
cập nhật tài liệu, ấn chỉ, hướng dẫn về thủ tục hải quan, thủ tục thuế và tạo
điều kiện thuận lợi cho ĐLHQ là nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan Hải quan.
Trong đó và trước hết là trách nhiệm đào tạo nghiệp vụ hải quan như phân loại
hàng hóa, xác định trị giá hải quan, xác định xuất xứ hàng hóa v.v…Do vậy, pháp
luật cần có các quy định cụ thể về cơ chế thực hiện đối với trách nhiệm này của
cơ quan Hải quan phù hợp với bối cảnh chuyển đổi số. Ngoài ra trong mô hình hải
quan số, hải quan thông minh các quy định của pháp luật cũng cần hướng tới xây
dựng hệ sinh thái dữ liệu ĐLHQ tích hợp trong đó hải quan giữ vai trò là trung
tâm điều phối. Theo đó, cơ quan Hải quan phải có trách nhiệm hỗ trợ ĐLHQ mà
trước tiên là hỗ trợ kết nối, chia sẻ, trao đổi thông tin, dữ liệu liên quan
đến nghiệp vụ hải quan kể cả trước thông quan, trong thông quan, sau thông quan
và còn mở rộng đến các khâu khác của chuỗi cung ứng.
Về trách
nhiệm của cơ quan Hải quan trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động và việc thực
hiện các quy định tại Luật Hải quan và Thông tư quy định về ĐLHQ và nhân viên
ĐLHQ:[33]
Kiểm tra, giám sát ĐLHQ là hoạt động của cơ quan hải quan nhằm đảm bảo các ĐLHQ
thực hiện đúng quy định của pháp luật trong quá trình làm thủ tục hải quan,
quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu cũng như tuân thủ các quy trình, thủ tục hải
quan.[34]
Thực tế hiện nay cho thấy mới chỉ dừng ở mức kiểm tra qua hồ sơ, việc kiểm tra
thực tế tại trụ sở đại lý chủ yếu được thực hiện tại thời điểm ban đầu để cấp
chứng nhận đủ điều kiện hoạt động ĐLHQ, sau thời điểm đó hầu như không được
kiểm tra[35].
Tuy nhiên, việc kiểm tra các các thông tin về XNK của doanh nghiệp thông qua
các ĐLHQ là hết sức quan trọng vừa hiệu quả, vừa giảm chi phí, giảm đầu mối
kiểm tra, giám sát của cơ quan hải quan bằng việc thay vì kiểm tra tại hàng
nghìn doanh nghiệp xuất nhập khẩu hàng hóa thì chỉ cần kiểm tra tại các đầu mối
ĐLHQ. Bên cạnh đó, cũng cần có các quy định đặc thù về kiểm tra, giám sát ĐLHQ,
chủ yếu hoạt động này nhằm đánh giá năng lực, trình độ, đạo đức nghề nghiệp của
đại lý hải quan, đảm bảo tuân thủ các quy định về hành nghề của ĐLHQ. Đồng thời
cần có các quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện kiểm
tra, giám sát và quản lý hoạt động của ĐLHQ, đảm bảo việc kết nối liên thông
với cơ quan hải quan, các cơ quan quản lý chuyên ngành và một cửa Quốc gia đáp
ứng yêu cầu tự động hoá trong quản lý đại lý hải quan và xây dựng cơ sở dữ liệu
về đại lý hải quan.
Ngoài các
trách nhiệm trên, cơ quan hải quan có trách nhiệm đăng tải công khai trên Cổng
thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan (nay là Cục Hải quan) các thông tin bao
gồm: Danh sách doanh nghiệp được công nhận là ĐLHQ, nhân viên ĐLHQ được cấp mã
số; Danh sách ĐLHQ bị đình chỉ hoạt động, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt
động; nhân viên ĐLHQ bị đình chỉ, bị thu hồi mã số nhân viên ĐLHQ.[36] Nội
dung đăng tải gồm: Tên ĐLHQ, địa chỉ trụ sở chính, mã số thuế, năm thành lập,
số điện thoại, người đại diện theo pháp luật, danh sách nhân viên ĐLHQ, mã số
nhân viên và các thông tin cần thiết khác có liên quan. Tuy nhiên, đến nay,
việc này chưa được thực hiện đầy đủ công khai trên Cổng thông tin điện tử của
Cục Hải quan. Do vậy cơ quan hải quan thiếu thông tin để quản lý ĐLHQ trong bối
cảnh chuyển đổi số hiện nay. Về trách nhiệm cấp và thu hồi mã nhân viên ĐLHQ,
hiện nay việc cấp mật khẩu/mã riêng cho từng nhân viên ĐLHQ chưa được thực hiện
mà đang cấp chung cho đại lý, do đó, khi nhân viên bị thu hồi mã số thì cơ quan
hải quan phải làm công văn gửi đại lý để xác minh tài khoản khai báo của nhân
viên bị thu hồi mã số để khóa tài khoản khai báo mà nhân viên sử dụng.
Như vậy,
ngoài việc cơ quan hải quan chưa thực hiện hết trách nhiệm của mình, hiện nay
pháp luật cũng đang thiếu vắng các quy định về trách nhiệm của cơ quan hải quan
đối với ĐLHQ với vị thế, tư cách là đối tác, là “người bạn đồng hành” và với
vai trò “cánh tay nối dài” của cơ quan hải quan. Trong bối cảnh chuyển đổi số,
các văn bản pháp luật về ĐLHQ cần xác định rõ vai trò phối hợp, hỗ trợ của cơ
quan hải quan trong việc kết nối, trao đổi thông tin giữa cơ quan hải quan với
ĐLHQ gồm kết nối kỹ thuật và trao đổi dữ liệu nghiệp vụ. Đối với kết nối kỹ
thuật như thiết lập giao diện kỹ thuật giữa hệ thống công nghệ thông tin, sử
dụng các chuẩn giao tiếp dữ liệu (API, Web Service, EDI...), đảm bảo khả năng
tích hợp, truy xuất và xử lý dữ liệu đồng bộ giữa cơ quan hải quan với ĐLHQ.
Đối với trao đổi dữ liệu nghiệp vụ, cần có quy định cụ thể về danh mục dữ liệu
bắt buộc chia sẻ và dữ liệu chia sẻ theo thỏa thuận. Từ đó xác định rõ trách
nhiệm của ĐLHQ và cơ quan hải quan. Bên cạnh đó, cần hỗ trợ ĐLHQ thực hiện chuyển
đổi số, sử dụng các phần mềm tương thích với phần mềm quản lý của cơ quan hải
quan.
3.5. Về chế độ ưu tiên đối với đại lý hải quan
Cũng như các nước trên
thế giới để phát triển ĐLHQ, pháp luật Việt Nam cũng có những quy định áp dụng
các chế độ ưu tiên đối với ĐLHQ, trong đó có áp dụng Chương trình doanh nghiệp
ưu tiên-Authorized Economic Operator (AEO). Hiện nay, các tiêu chí công nhận
đại lý ưu tiên, quy định tại Thông tư 72/2015/TT-BTC ngày 12/5/2015 và Thông tư
07/2019/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định áp dụng chế độ ưu tiên trong
việc thực hiện thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa
XNK của doanh nghiệp. Tuy nhiên, quy định ĐLHQ phải đạt 20.000 tờ khai/năm là
tiêu chuẩn khá cao và không khả thi đối với đại lý hải quan ở Việt Nam hiện
nay. Qua đánh giá, tổng hợp từ Cục Hải quan TP. Hà Nội: xét theo tiêu chí tờ
khai, có 20/300 đại lý có số lượng trên 500 tờ khai xuất nhập khẩu/01 quý phục
vụ cho khách hàng (trên 2.000 tờ khai/năm), trong khi đặc thù địa bàn Hà Nội có
khối lượng lớn các tờ khai giá trị thấp và chủ yếu là tờ khai đối với hàng hóa
gửi qua dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh.[37]
Thực tế đó cho thấy các quy định chính sách ưu tiên chưa phù hợp với doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ như ĐLHQ, chưa rõ chính sách đối với ĐLHQ, nhân viên
đại lý được công nhận ưu tiên, chế độ thưởng, phạt, xử lý đối với ĐLHQ và nhân
viên đại lý, nên chưa có nhiều ĐLHQ quan tâm đến việc được công nhận là ĐLHQ ưu
tiên. Theo đó, hiện nay vẫn chưa có ĐLHQ nào được công nhận là “đại lý ưu tiên”[38].
Xuất phát từ địa vị pháp lý cũng như vai trò của ĐLHQ đã được quy định tại Công
ước Kyoto (RKC) và Hiệp định tạo thuận lợi thương mại (TFA); khung tiêu chuẩn
an ninh và tạo thuận lợi thương mại toàn cầu (SAFE); kinh nghiệm của các nước
trong khu vực và trên thế giới điển hình Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa kỳ… để công
nhận đại lý ưu tiên cần hướng tới các điều kiện về tuân thủ hơn là quy định về
số lượng tờ khai. Khi rõ về tiêu chí và định lượng được các tiêu chí đó như số
lượng tờ khai thực hiện; số lượng tờ khai đúng/sai; tỷ lệ tuân thủ, vi phạm
pháp luật; quản trị doanh nghiệp, cập nhật kiến thức pháp luật hải quan ...)
thì đủ điều kiện để công nhận đại lý ưu tiên.[39] Và
đối với việc quy định doanh nghiệp ưu tiên là ĐLHQ cần được quy định tại Nghị
định của Chính phủ (Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan và kiểm
soát hải quan).[40]
Ngoài ra,
hiện nay các quy định của pháp luật chưa tạo ra được sự khác biệt và có cơ chế
ưu tiên đối với ĐLHQ so với các doanh nghiệp XNK tự làm thủ tục hải quan hoặc
các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ khác có thực hiện dịch vụ khai hải quan. Chỉ
khác là, để thực hiện khai hải quan và thông quan hàng hóa cho chủ hàng, ĐLHQ
cần phải có nhân viên được đào tạo, được cấp chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan
và phải được cấp mã số nhân viên ĐLHQ. Trong khi đó doanh nghiệp XNK hoặc doanh
nghiệp dịch vụ khác thì không cần đáp ứng bất cứ điều kiện gì, thậm chí là cũng
không cần có chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan vẫn khai báo hải quan và thực
hiện thủ tục hải quan bình thường. Do vậy, làm giảm tính cạnh tranh của ĐLHQ.
Chính việc chưa có sự khác biệt nhiều trong việc khai báo hải quan giữa ĐLHQ
với các doanh nghiệp XNK và các đơn vị cung ứng dịch vụ khác, dẫn đến doanh nghiệp
chưa nhận thức đầy đủ được vai trò của ĐLHQ, từ đó làm giảm sức cạnh tranh của
ĐLHQ.[41] Bản
thân các đại lý hiện tại cũng chưa "mặn mà" với việc thúc đẩy hoạt
động đại lý của mình. Mặt khác, do có những rủi ro về pháp lý mà các ĐLHQ có
thể gặp phải trong quá trình hoạt động dẫn đến ĐLHQ dè dặt trong hoạt động
ĐLHQ. Hơn nữa, chi phí cho hoạt động khai báo của ĐLHQ cao hơn các đơn vị cung
ứng dịch vụ thông thường, trong khi đó giá trị dịch vụ không có nhiều sự khác
biệt, dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp hơn.[42] Do vậy,
cần xây dựng tiêu chí công nhận ĐLHQ ưu tiên, nhân viên ĐLHQ ưu tiên sát với
tình hình thực tế hoạt động của các ĐLHQ hiện nay. Theo đó, cần nghiên cứu xây
dựng bộ tiêu chí đo lường sự tuân thủ của ĐLHQ. Cơ quan Hải quan có thể đo
lường hiệu quả hoạt động/sự tuân thủ của các ĐLHQ theo bộ các tiêu chí có liên
quan đến hoạt động của ĐLHQ. Nhằm nâng cao năng lực ĐLHQ, tạo môi trường cạnh
tranh công bằng, bền vững cho ĐLHQ, nâng cao ý thức tự nguyện tuân thủ pháp
luật của đại lý, giúp ĐLHQ nhận được sự công nhận của các bên có liên quan,
cũng như nâng cao hiệu quả quản lý ĐLHQ, Hải quan phối hợp với Hiệp hội doanh
nghiệp logistics Việt Nam xây dựng Bộ chỉ số đánh giá năng lực ĐLHQ. Trong đó
tiêu chuẩn nghiệp vụ, sự chuyên nghiệp, tuân thủ pháp luật của ĐLHQ là các trụ
cột chính trong việc đánh giá, xếp loại ĐLHQ.[43] Việc quy
định bộ tiêu chí này phải trên cơ sở tổng hợp các tiêu chuẩn quốc tế, chuẩn mực
của Tổ chức Hải quan thế giới, khuyến nghị của chuyên gia nước ngoài, chuyên
gia trong nước cũng như đặc điểm kinh tế, khung pháp lý quy định đối với hoạt
động ĐLHQ tại Việt Nam.
Và cũng cần nghiên cứu
một số nội dung để triển khai áp dụng chế độ ưu tiên đối với doanh nghiệp là
ĐLHQ. Khi doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện về tuân thủ pháp luật về hải
quan, pháp luật về thuế, kim ngạch, số lượng lô hàng đã khai báo tuân thủ pháp
luật hải quan, thời gian không vi phạm... thì được công nhận là ĐLHQ ưu tiên,
đồng nghĩa với việc được hưởng các chế độ ưu tiên. Tuy nhiên không nên quy định
chế độ ưu tiên đối với ĐLHQ tương đồng với chế độ ưu tiên áp dụng cho doanh
nghiệp XNK và cũng không nên quy định chủ hàng hóa, chủ phương tiện cũng được
hưởng chế độ ưu tiên khi ủy quyền cho đại lý ưu tiên làm thủ tục hải quan.[44]
3.6. Về các thủ tục hành chính đối với đại lý hải quan
Gắn liền với trách nhiệm
của cơ quan hải quan đối với ĐLHQ là việc thực hiện các thủ tục hành chính. Về
các thủ tục hành chính liên quan đến ĐLHQ, hiện nay đang có 13 thủ tục: Tổ chức
thi, cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan; Cấp chứng chỉ nghiệp vụ khai hải
quan đối với công chức hải quan đã chuyển công tác, nghỉ hưu hoặc nghỉ việc;
Công nhận ĐLHQ; Tạm dừng hoạt động ĐLHQ; Chấm dứt hoạt động ĐLHQ; Tiếp tục hoạt
động ĐLHQ; Cấp mã số nhân viên ĐLHQ; Gia hạn mã số nhân viên ĐLHQ; Thu hồi mã
số nhân viên ĐLHQ; Cấp lại mã số đối với nhân viên ĐLHQ; Thay đổi thông tin ĐLHQ; Công nhận doanh nghiệp, ĐLHQ ưu tiên;
Cấp, thu hồi, xác nhận user ID liên quan ĐLHQ. Tuy nhiên, suy cho cùng các thủ
tục hành chính này chủ yếu liên quan đến tư cách pháp lý hoạt động ĐLHQ và nhân
viên ĐLHQ cũng như sự quản lý của cơ quan hải quan đối với đại lý. Tuy nhiên,
hiện nay quy định các thủ tục hành chính này được thực hiện cả bản giấy và điện
tử, dẫn đến hiện tượng hồ sơ gửi bị thất lạc, không đến được địa chỉ hoặc bị
trả về. Trong bối cảnh chuyển đổi số, các thủ tục hành chính liên quan đến tư
cách pháp lý của ĐLHQ và nhân viên ĐLHQ cần được quy định thực hiện theo phương
thức điện tử và được cập nhật công khai trên Cổng dịch vụ công trực tuyến, đảm
bảo tối đa thủ tục được cung cấp dịch vụ công ở mức độ 4 và được thực hiện trên
nhiều phương tiện khác nhau, mọi lúc, mọi nơi. Đồng thời cần có các quy định về
ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện các thủ tục hành chính như
thông qua nhận diện khuôn mặt hoặc sinh trắc học, số hiệu quản lý căn cước công
dân có kết nối với dữ liệu thông tin cá nhân trên hệ thống hải quan điện tử;
hoặc trong việc cung cấp dữ liệu khai báo do ĐLHQ đã khai trong tháng/quý để rà
soát dữ liệu chính xác.
4. Kết luận:
ĐLHQ vừa là người bạn đồng hành vừa là đối tác quan trọng của cơ
quan Hải quan trong việc thực thi pháp luật hải quan, đồng thời là một phần của
chuỗi cung ứng dịch vụ toàn cầu, vì vậy việc định hướng phát triển, nâng cao
năng lực ĐLHQ được đặt ra trong Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2030 và
tầm nhìn đến năm 2045. Trong những năm qua, ĐLHQ được hình thành với kỳ vọng
giúp cơ quan Hải quan cũng như doanh nghiệp hoạt động XNK giảm tải áp lực công
việc khi khối lượng hàng hóa ngày một gia tăng; hoạt động ĐLHQ đã có những đóng
góp trong chuỗi cung ứng hoạt động XNK hàng hóa. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát
triển của nền kinh tế số mà cốt lõi là dựa trên phương thức sản xuất số, hoạt
động của các ĐLHQ ở Việt Nam hiện nay chưa đạt được mục tiêu yêu cầu. Chính vì
vậy, phát triển ĐLHQ theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp, tin cậy là yêu cầu cấp
thiết trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của
ĐLHQ trong bối cảnh chuyển đổi số, cần phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành
chính, hoàn thiện hệ thống pháp lý và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào
công nghệ. Đồng thời, việc nâng cao năng lực của đội ngũ nhân viên hải quan về
kiến thức và kỹ năng công nghệ là yếu tố quan trọng giúp các ĐLHQ có thể tận
dụng tối đa lợi thế từ chuyển đổi số. Để thực sự phát triển bền vững, các ĐLHQ
cần phải không ngừng đổi mới và sáng tạo, tiếp cận và áp dụng những công nghệ
mới nhất, nhằm đáp ứng được yêu cầu của thị trường quốc tế và xu thế chuyển đổi
số trong lĩnh vực hải quan trên cơ sở có một nền tảng pháp lý thuận lợi.
Tài liệu tham khảo
1.
Customs Broker.com. (n.d.). Truy cập
tại https://www.customsbroker.com
2.
Đào Duy Tám, Phát triển dịch vụ đại lý
hải quan ở Việt Nam- Thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp, (Luận văn thạc
sỹ), Đại học Kinh tế quốc dân (2012)
3.
Ewa Gwardzińska, The role of customs brokers in facilitating international
trade. World Customs Journal, 8(1),
63-70 (2014)
4.
Jon Sasaki, Customs broker exam study
guide & how to start your own customs brokerage business, Chb Solutions
(2010)
5.
Ngô Minh Hải, Sử dụng đại lý hải quan
trong hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay, Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài
chính, (2009)
6.
Nguyễn Văn Thọ, Giải pháp phát triển đại
lý hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số, Báo cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ,
Bộ Tài chính, (2024)
7.
P.G. Arul. International logistics
management. Pondicherry University, Directorate of Distance Education
(2018)
8.
Tạp chí Tài chính, Phát triển đại lý hải quan cả về lượng và chất, (13/11/2023) Truy
cập tại https://tapchitaichinh.vn/phat-trien-dai-ly-hai-quan-ca-ve-luong-va-chat.html
9.
Thái Bùi Hải An, Quản lý đại lý làm thủ
tục hải quan ở Việt Nam, (Luận án tiến sỹ), Học viện Tài chính (2015)
10.
Thời báo Tài chính Việt Nam, Cần có cơ
chế ưu tiên đối với doanh nghiệp là đại lý làm thủ tục hải quan, (14/10/2024)
Truy cập tại https://thoibaotaichinhvietnam.vn/can-co-co-che-uu-tien-doi-voi-doanh-nghiep-la-dai-ly-lam-thu-tuc-hai-quan-158709.html
11.
Trần Bình Minh, Quản lý của Hải quan Việt
Nam đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong nền kinh tế chia sẻ, Mã số:
BTC/ĐT/2019-67, Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính, (2019)
12.
Trần Đức Hùng, Quản lý Hải quan đối với
hàng hóa xuất, nhập khẩu trong hoạt động thương mại điện tử, Mã số:
BTC/ĐT/2020-03, Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính, (2020)
13.
USA International Business Publications. China
Customs, Trade Regulations And Procedures Handbook, (2009).
14.
World Customs Organization, Công ước quốc
tế về đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục hải quan (Công ước Kyoto sửa đổi),
(1999)
15.
World Customs Organization, Customs
brokers guideline (2018, June)
[*] Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Giảng viên cao cấp- Học viện Tài chính. Email: nguyenthuonghuyen@hvtc.edu.vn, ngày duyệt đăng 28/10/2025
[1] Ngô Minh Hải “Sử dụng đại lý hải quan trong hoạt động xuất
nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay” Đề tài cấp Bộ - Bộ Tài chính, 18 (2009)
[2] Điều 20, Luật Hải quan – Luật số: 54/2014/QH13, ngày 23
tháng 6 năm 2014
[3] P.G. Arul. International
logistics management. Pondicherry University, Directorate of Distance
Education, 95 (2018)
[4] Đào Duy Tám, Phát triển dịch vụ
đại lý hải quan ở Việt Nam- Thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp, (Luận văn
thạc sỹ), Đại học Kinh tế quốc dân, 45 (2012)
[5] Tổng hợp các Báo cáo Tổng kết của Tổng cục Hải
quan qua các năm 2020, 2021, 2022, 2023, 2024
[6] Tổng hợp các Báo cáo Tổng kết của Tổng cục Hải
quan qua các năm 2020, 2021, 2022, 2023, 2024
[7] Trần Bình Minh, Quản lý của Hải
quan Việt Nam đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong nền kinh tế chia sẻ,
MS: BTC/ĐT/2019-67, Đề tài cấp Bộ, Bộ tài chính 52 (2019)
[8] Nguyễn Văn Thọ, Giải pháp phát triển đại lý hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số,
Báo cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính, 83 (2024)
[9] Tổng hợp theo “số liệu thống kê về kim ngạch XNK 6 tháng đầu năm, năm 2024” của
Cục Công nghệ thông tin &
Thống kê hải quan – Tổng cục Hải quan
[10] Nguyễn Văn Thọ, Giải pháp phát triển đại lý hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số, Báo
cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính, 87 (2024)
[11] Trần Đức Hùng, Quản lý Hải quan
đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu trong hoạt động thương mại điện tử, MS:
BTC/ĐT/2020-03, Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính, 102 (2020)
[12] Nguyễn Văn Thọ, Giải pháp phát triển đại lý hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số, Báo
cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính, 89 (2024)
[13] Ewa Gwardzińska. The role of customs brokers in
facilitating international trade. World
Customs Journal, 8(1), 63-70 (2014)
[14] Công ước Kyoto về “Đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục Hải quan” năm 1993
và sửa đổi, bổ sung năm 1999 (gọi tắt Công ước Kyoto sửa đổi)
[15] Chuẩn mực 8.2, Chương VIII, Công ước Kyoto sửa
đổi, năm 1999
[16] Khoản 1, Điều 5, Thông tư 12/2015/TT-BTC, ngày
30/01/2025, quy định chi tiết thủ tục cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải
quan; cấp và thu hồi mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan; trình tự, thủ
tục công nhận và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan
[17] Jon Sasaki. Customs
broker exam study guide & how to start your own customs brokerage business.
Chb Solutions, (2010)
[18] Điều 5 Thông tư số 12/2015/TT-BTC (được sửa
đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 1 Thông tư số 22/2019/TT-BTC) “Đại lý làm thủ tục
hải quan là doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật
Hải quan năm 2014, trong phạm vi được ủy quyền theo thỏa thuận trong hợp đồng
ký với người có hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (gọi là chủ hàng) thay mặt chủ
hàng thực hiện toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ của người khai hải quan quy định
tại khoản 3 Điều 18 Luật Hải quan”.
[19] Khoản 2, Điều 20, Luật Hải quan năm 2014
[20] Trước đây quy định điều kiện để được làm nhân
viên đại lý hải quan thì phải có thời gian làm việc cho đại lý hải quan nơi
được cấp thẻ ít nhất là 03 (ba) tháng (Tiết d, Khoản 1, Điều 3, NĐ 14/2011/NĐ-CP ngày 16/2/2011)
thì nay không quy định nội dung này.
[21] Khoản 4,
Điều 20, Luật Hải quan năm 2014 “Đại lý làm thủ tục hải quan và nhân viên đại
lý làm thủ tục hải quan thực hiện quyền và nghĩa vụ của người khai hải quan quy
định tại Điều 18 của Luật này”.
[22] Khoản 3, Điều 18, Luật Hải quan năm 2014:
“Người khai hải quan là đại lý làm thủ tục hải quan, người khác được chủ hàng
hóa, chủ phương tiện vận tải ủy quyền thực hiện nghĩa vụ quy định tại các điểm
a, b, c, d, e và g khoản 2 Điều này trong phạm vi được ủy quyền. Người khai hải
quan là người điều khiển phương tiện vận tải thực hiện nghĩa vụ quy định tại
các điểm a, c, d, e và g khoản 2 Điều này”.
[23] Điều 5 Thông tư số 12/2015/TT-BTC, được sửa
đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 1 Thông tư số 22/2019/TT-BTC
[24] Khoản 2 Điều 5 Thông tư số 12/2015/TT-BTC, được
sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 1 Thông tư số 22/2019/TT-BTC
[25] Điều 123 đến Điều 130 Bộ luật dân sự 2015
[26] Điều 25, Nghị định số 08/2015/NĐ-CP ngày 21/01/2015 quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải
quan, kiểm tra, giám sát hải quan và kiểm soát hải quan;
[27] Hoàn thiện Thông tư sửa đổi, bổ sung hoặc thay
thế Thông tư 22/2019/TT-BTC ngày 16/4/2019, Thông tư số 12/2015/TT-BTC ngày
30/1/2015 của Bộ Tài chính quy định chi tiết thủ tục cấp Chứng chỉ nghiệp vụ
khai hải quan; cấp và thu hồi mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan;
trình tự, thủ tục công nhận và hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan; chuẩn hóa Cơ sở dữ liệu quản lý đại lý
làm thủ tục hải quan.
[28] Khoản 6, Điều 14, Thông tư 22/2019/TT-BTC “Khi
phát sinh hợp đồng đại lý làm thủ tục hải quan, chủ hàng thông báo danh sách
đại lý làm thủ tục hải quan được thay mặt chủ hàng khai và làm thủ tục hải quan
đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử
hải quan trước khi đại lý làm thủ tục hải quan thực hiện việc khai và làm thủ
tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu”
[29] Quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư số
12/2015/TT-BTC (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 1 Thông tư số
22/2019/TT-BTC)
[30] Điều 7 Thông tư số 12/2015/TT-BTC (được sửa
đổi, bổ sung tại Thông tư số 22/2019/TT-BTC) của Bộ Tài chính
[31] Đại lý hải quan có trách nhiệm báo cáo định kỳ
tình hình hoạt động của mình cho Cục Hải quan tỉnh, thành phố nơi đại lý có trụ
sở. Báo cáo này được nộp vào ngày 05 của tháng đầu quý sau, hoặc theo yêu
cầu cụ thể của cơ quan Hải quan.
[32] Khoản 8, Điều 1 Thông tư số 22/2019 sửa đổi, bổ
sung khoản 1 Điều 12 Thông tư số 12/2015
[33] Điều 15 Thông tư số 12/2015/TT-BTC ngày
30/1/2015 quy định Quyền, trách nhiệm của cơ quan Hải quan
[34] Thái Bùi Hải An, Quản lý đại lý làm thủ tục hải
quan ở Việt Nam,
(luận án tiến sỹ), Học viện Tài chính, 130 (2015)
[35] Báo cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ “Giải pháp phát triển đại lý hải quan trong
bối cảnh chuyển đổi số”, Bộ Tài chính,
109 (2024)
[36] Điểm b, Khoản 7, điều 15 Thông tư
12/2015/TT-BTC quy định quyền, trách nhiệm của cơ quan Hải quan
[37] Tổng hợp Báo cáo tổng kết Cục Hải quan T.P Hà Nội qua các năm 2020, 2021, 2022, 2023, 2024
[38] Nguyễn Văn Thọ, Giải pháp phát triển đại lý hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số, Báo
cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài
chính, 116 (2024)
[39] Tài liệu tham khảo hướng dẫn dành cho đại lý hải quan của Tổ chức Hải
quan thế giới (WCO) (“Customs brokers guideline - tháng 6/2018)
[40]Hiện nay là Nghị định 08/2015/NĐ-CP và Nghị định
59/2018/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 08/2015/NĐ-CP.
[41] https://thoibaotaichinhvietnam.vn/can-co-co-che-uu-tien-doi-voi-doanh-nghiep-la-dai-ly-lam-thu-tuc-hai-quan-158709.html
[42] https://tapchitaichinh.vn/phat-trien-dai-ly-hai-quan-ca-ve-luong-va-chat.html
[43]
Tài liệu tham khảo hướng dẫn dành cho đại lý hải quan của
Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) (“Customs brokers guideline - tháng 6/2018)
[44] Chế độ ưu tiên đối với doanh nghiệp quy định tại
Điều 43 Luật Hải quan: được miễn kiểm tra chứng từ thuộc hồ sơ hải quan, miễn
kiểm tra thực tế hàng hóa, được làm thủ tục hải quan bằng tờ khai chưa hoàn
chỉnh hoặc chứng từ thay thế, được ưu tiên thực hiện thủ tục hải quan trước;
Được ưu tiên khi thực hiện thủ tục về thuế đối với hàng hóa theo quy định của
pháp luật về thuế....; và chủ hàng hóa, chủ phương tiện cũng được hưởng chế độ
ưu tiên khi ủy quyền cho đại lý ưu tiên.