Nghiên cứu lý luận

Phát triển đại lý hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam và những vấn đề pháp lý đặt ra

Nguyễn Thị Thương Huyền* Thứ tư, 29/10/2025 - 22:19
Nghe audio
0:00

(PLPT) - Đại lý hải quan tại Việt Nam hiện mới dừng ở dịch vụ khai thuê, chưa phát huy vai trò “cánh tay nối dài” của cơ quan Hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số. Nhiều vướng mắc pháp lý đang cản trở sự phát triển chuyên nghiệp của mô hình này, đòi hỏi hoàn thiện khung pháp luật để phù hợp với xu thế tự động hóa và hội nhập.

Tóm tắt: Phát triển đại lý hải quan là quá trình tăng trưởng và mở rộng quy mô, nhằm nâng cao hiệu suất, khả năng cạnh tranh và giá trị thương hiệu trên thị trường của đại lý hải quan. Hiện nay, các quốc gia phát triển, thủ tục hải quan đều được thực hiện trên hệ thống tự động hóa cùng với hệ thống đại lý hải quan phát triển chuyên nghiệp, hiệu quả, đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội. Ở Việt Nam, đại lý hải quan hoạt động chưa đúng với bản chất của đại lý hải quan mà chủ yếu làm dịch vụ khai thuê hải quan. Theo đó, đại lý hải quan chưa phát huy được vai trò là “cánh tay nối dài” của cơ quan Hải quan. Điều này đang đi ngược lại xu thế phát triển của đại lý hải quan, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi số. Bài viết chỉ ra những bất cập, vướng mắc về pháp lý thông qua thực trạng phát triển và thực tiễn hoạt động của đại lý hải quan ở Việt Nam. Qua đó có một số gợi mở hoàn thiện pháp luật, tạo môi trường pháp lý thuận lợi hơn cho sự phát triển của đại lý hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số.

Từ khóa: đại lý hải quan, phát triển đại lý hải quan, chuyển đổi số, vấn đề pháp lý

Summary: The development of customs brokerage agencies is the process of growth and expansion aimed at improving efficiency, competitiveness, and brand value in the market. In developed countries, customs procedures are carried out through automated systems in combination with professionally developed and efficient customs brokerage networks that effectively meet societal needs. In Vietnam, however, customs brokers have not been operating in accordance with their intended role, mainly providing outsourced customs declaration services. As a result, they have not fulfilled their function as an “extended arm” of the Customs authority, which goes against the global trend in customs broker development-especially amid digital transformation. This article highlights legal shortcomings and practical obstacles in the current state and operations of customs brokers in Vietnam, offering recommendations to improve the legal framework and create a more favorable environment for their development in the digital age.

Keywords: customs broker, customs broker development, digital transformation, legal issues

1. Dẫn đề

Đại lý hải quan (ĐLHQ) được hình thành vào đầu thế kỷ 19 ở Mỹ và một số quốc gia Châu Âu như Anh, Pháp, Tây Ban Nha..., xuất phát từ những khó khăn trong việc tổ chức sắp xếp đưa hàng hoá qua biên giới giữa các quốc gia, trong điều kiện các quy định về thủ tục của các nước phức tạp, và chưa có chuẩn mực thống nhất. Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế, khi được chuyên môn hóa, việc cung cấp dịch vụ thủ tục hải quan đã trở thành một nghề độc lập. Đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản phát triển, các nhà trung gian làm thủ tục hải quan từng bước lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng dịch vụ và trở thành một khâu giao nhận hàng hóa, tăng tính hiệu quả và duy trì sự thông suốt trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

ĐLHQ theo thuật ngữ tiếng Anh chuyên ngành là “Customs Broker”. Do tập quán thương mại và lịch sử hình thành khác nhau nên tên gọi ĐLHQ ở mỗi quốc gia cũng khác nhau: Ở Indonesia, gọi là “công ty môi giới hải quan”, Philippine là “môi giới hải quan”, Trung Quốc là “xí nghiệp khai thuê hải quan”, Nhật Bản là “môi giới hải quan”, Hàn Quốc là “công ty môi giới hải quan”, Pháp là “đơn vị được chấp nhận làm người ăn hoa hồng về hải quan”, Hoa Kỳ là “người môi giới hải quan”[1]… và ở Việt Nam được gọi là “đại lý làm thủ tục Hải quan”.[2]

Ở hầu hết các quốc gia, ĐLHQ là một loại hình dịch vụ rất phát triển trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu (XNK), đây là một khâu trong chuỗi dịch vụ giao nhận hàng hóa mà nhiều nước đã áp dụng hiệu quả.[3] Việc đẩy mạnh phát triển ĐLHQ không những giúp cơ quan hải quan giải quyết được mâu thuẫn, hoạt động XNK ngày càng gia tăng, nguồn nhân lực hải quan có hạn mà còn giúp doanh nghiệp thông quan hàng hóa nhanh, tránh được những vi phạm trong quá trình làm thủ tục hải quan và tiết kiệm được chi phí như chi phí đầu tư về nhân sự, trang thiết bị, phương tiện hiện đại phục vụ cho việc làm thủ tục hải quan và tăng năng lực cạnh tranh trên thương trường quốc tế.

Với vai trò trung gian quan trọng trong việc thực hiện các thủ tục XNK, ĐLHQ đã và đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đặc biệt là công cuộc chuyển đổi số. Chuyển đổi số là bước phát triển tiếp theo của tin học hóa, là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số. Đây là một xu hướng không thể phủ nhận trong hầu hết các lĩnh vực kinh doanh và phát triển dịch vụ hiện nay. Mục tiêu của chuyển đổi số là nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng khả năng cạnh tranh và tạo ra giá trị mới cho khách hàng. Phát triển ĐLHQ trong bối cảnh chuyển đổi số là việc mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng dịch vụ trên cơ sở nền tảng số. Trong quá trình này, hải quan, doanh nghiệp sẽ áp dụng công nghệ số như trí tuệ nhân tạo (AI), blockchain, học máy, IoT (Internet of Things), big data, cloud computing… để tối ưu hóa quy trình làm việc, tăng cường hiệu suất và khả năng sáng tạo, cũng như cung cấp dịch vụ tốt hơn cho khách hàng. Bản chất của chuyển đổi số không chỉ đề cập đến việc triển khai công nghệ mới, mà còn là một quá trình tái cơ cấu toàn diện về cách thức tổ chức hoạt động và tư duy làm việc. Khái niệm chuyển đổi số bao hàm: (i) Số hóa thông tin - Digitization; (ii) Số hoá quy trình - Digitalization; (iii) Số hoá toàn diện - Digital Transformation. Trong dòng chảy thương mại điện tử xuyên biên giới, chuyển đổi số trong lĩnh vực hải quan khiến ĐLHQ không chỉ là một mắt xích quan trọng của chuỗi cung ứng dịch vụ toàn cầu mà còn giúp cơ quan hải quan thực hiện được mục tiêu hải quan số, hải quan thông minh.

2. Thực tiễn phát triển đại lý hải quan ở Việt Nam

2.1. Về quy mô hoạt động

Hoạt động ĐLHQ ở Việt Nam ra đời từ những năm 90 của thế kỷ XX trên cơ sở Pháp lệnh Hải quan ngày 20/02/1990 và Nghị định số 171/HĐBT ngày 25/07/1991 của Hội đồng Bộ trưởng cho phép người thứ ba thay mặt chủ hàng khai báo hải quan. Từ năm 1991 đến năm 1995, đã có hơn 200 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận vận tải và khai báo hải quan ra đời để đáp ứng nhu cầu cho hàng nghìn doanh nghiệp kinh doanh XNK.[4] Việc phát triển hệ thống ĐLHQ đã được chú trọng và thường xuyên đẩy mạnh trong thời gian qua. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan (nay là Cục hải quan) đã công nhận hoạt động ĐLHQ đối với hơn 1.600 doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động có một số ĐLHQ bị tạm dừng, chấm dứt hoạt động do không còn đáp ứng được các các điều kiện theo quy định hoặc một phần do doanh nghiệp chuyển đổi hoạt động kinh doanh, do vậy số lượng ĐLHQ hiện đang hoạt động khoảng 1.200 đại lý.[5] Về nhân viên ĐLHQ, Tổng cục Hải quan đã thực hiện cấp mã số nhân viên ĐLHQ cho khoảng 3.200 nhân viên. Trong quá trình hoạt động, một số mã số nhân viên ĐLHQ bị thu hồi, do vậy, cả nước hiện nay có khoảng 1.700 mã số nhân viên ĐLHQ đang hoạt động. Số lượng nhân viên ĐLHQ trên mỗi ĐLHQ thấp, chỉ xấp xỉ 1,4 nhân viên/đại lý[6]. Trình độ nghiệp vụ của nhân viên ĐLHQ chưa đồng đều. Việc đào tạo và cập nhật kiến thức cho các ĐLHQ chưa được thực hiện thường xuyên, khiến một số đại lý không kịp thời nắm bắt được những thay đổi về chính sách, pháp luật và công nghệ mới. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ và làm tăng nguy cơ vi phạm quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan của các ĐLHQ [7].

Các ĐLHQ tập trung chủ yếu ở một số thành phố có hoạt động XNK phát triển, có hoạt động của các khu công nghiệp, khu chế xuất như: TP. Hồ Chí Minh (năm 2022 có 300 ĐLHQ), Hà Nội (năm 2018 có 208 ĐLHQ được công nhận và đến năm 2023 tăng lên là 379 đại lý, chiếm khoảng 24,3% tổng số ĐLHQ trên toàn quốc), Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh… Số lượng ĐLHQ ở một số địa phương còn khiêm tốn so với tiềm năng, lợi thế của địa phương và thậm chí có những địa bàn không có ĐLHQ như: Đắk Lắk, Điện Biên, Hà Giang, Bình Phước.[8]

2.2. Về chất lượng dịch vụ khai hải quan

Theo thống kê số liệu từ tờ khai hải quan, việc sử dụng dịch vụ ĐLHQ trong khai báo hải quan còn thấp so với tổng số tờ khai XNK. Số lượng ĐLHQ thực hiện đầy đủ các công việc của ĐLHQ từ các khâu tư vấn, khai báo đến nộp thuế, hàng hóa được thông quan và kiểm tra sau thông quan hiện nay khá thấp. Trong 6 tháng đầu năm 2024, toàn quốc có 156 ĐLHQ đứng tên trên tờ khai thay cho chủ hàng thực hiện hoạt động XNK, chiếm 14,1% trên tổng số ĐLHQ. Trong đó, số lượng tờ khai XNK của ĐLHQ thực hiện là 503.734 tờ khai chiếm 6,11% trên tổng số 8.241.170 tờ khai XNK, với kim ngạch XNK là 26,54 triệu USD, chiếm 5,81% trên tổng số 450,75 triệu USD kim ngạch XNK của cả nước.[9]Các ĐLHQ này chủ yếu là các đại lý lớn, có tiềm lực và họ ký kết hợp đồng chủ yếu với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hoặc hoạt động thuê các cá nhân, doanh nghiệp làm “dịch vụ khai thuê” thông qua thỏa thuận vẫn là chủ yếu, việc đứng tên trên tờ khai hải quan, thực hiện các nghĩa vụ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác vẫn do chủ hàng tự đứng ra thực hiện. Bên cạnh đó một số doanh nghiệp, tập đoàn lớn họ không lựa chọn ĐLHQ trên địa bàn mà lựa chọn thuê các đại lý thuộc sự quản lý của các Cục Hải quan tỉnh, thành phố khác để thực hiện thủ tục hải quan dẫn đến khó khăn trong công tác theo dõi, quản lý và xử lý vi phạm của ĐLHQ.[10]

Với số lượng ĐLHQ hiện còn rất khiêm tốn so với tiềm năng, lợi thế cùng với số lượng tờ khai, trị giá kim ngạch XNK, số thuế thu nộp thông qua các ĐLHQ cũng còn rất thấp. Điều này cho thấy sự hạn chế trong năng lực của ĐLHQ nên nhiều doanh nghiệp có hàng hoá XNK chưa thấy được lợi ích và hiệu quả lâu dài khi thực hiện thủ tục hải quan qua các ĐLHQ. Doanh nghiệp XNK không muốn thuê ĐLHQ mà muốn tự mình trực tiếp làm thủ tục hải quan để chủ động giải quyết các vướng mắc phát sinh, đồng thời cũng để giảm bớt chi phí khác như chi phí thuê làm thủ tục hải quan, thuế giá trị gia tăng.[11] Ngoài ra, ĐLHQ phải cạnh tranh với các cá nhân hoạt động tự do, tự phát cộng thêm những rủi ro pháp lý của các ĐLHQ trong quá trình tác nghiệp đã cản trở sự phát triển của ĐLHQ. Kết quả là, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, chỉ có khoảng 7% tờ khai hải quan của doanh nghiệp được thực hiện thông qua đại lý.[12] Trong khi đó mỗi năm, ở Việt Nam có hàng triệu tờ khai hải quan, dẫn đến tình trạng quá tải, đặc biệt là tại các cảng biển lớn và các khu vực kinh tế trọng điểm. Con số này là quá thấp so với một số nước phát triển như Nhật Bản, Hàn quốc ....số tờ khai được thực hiện thông qua ĐLHQ chiếm khoảng trên 90%.

2.3. Về hỗ trợ cơ quan hải quan trong quản lý hàng hóa XNK

ĐLHQ ở Việt Nam chưa hỗ trợ nhiều cho các cơ quan quản lý nhà nước về hải quan, và cũng chưa thực sự là “cánh tay nối dài” của cơ quan Hải quan. Điều này đang đi ngược lại xu thế phát triển của ĐLHQ trong bối cảnh kinh tế số. Hiện nay ở các nước phát triển, mức độ kiểm tra hàng hóa tùy thuộc vào từng nước, nhưng tổng thể nếu 90% hàng hóa đã được kiểm soát bởi cơ quan Hải quan thì sẽ không bị các cơ quan khác của Chính phủ kiểm tra trực tiếp. Một phần là do sự hỗ trợ từ ĐLHQ với sự am hiểu về thông tin hàng hóa và các quy định thông quan của cơ quan Hải quan các nước.[13] Bên cạnh đó, các ĐLHQ ở Việt Nam chưa tạo điều kiện cho hiện đại hóa công tác quản lý hải quan cũng như chuyển đổi số hướng tới mô hình hải quan thông minh. Vì việc làm thủ tục hải quan hiện nay chưa được tập trung về một số đầu mối là ĐLHQ, do vậy việc kết nối, chia sẻ dữ liệu, thông tin giữa ĐLHQ với cơ quan hải quan còn hạn chế.

3. Một số vấn đề pháp lý đặt ra từ thực tiễn hoạt động đại lý hải quan ở Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số và kiến nghị hoàn thiện

3.1. Về khái niệm “Đại lý hải quan”

Công ước Kyoto là công ước quốc tế về đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục hải quan, là Công ước “xương sống” về thủ tục hải quan.[14] Công ước quốc tế này không đưa ra định nghĩa cụ thể về đại lý hải quan mà hướng tới các nguyên tắc chung về thủ tục hải quan bằng cách tạo ra một khuôn khổ chung cho thủ tục hải quan. Tuy nhiên, Công ước Kyoto góp phần tạo điều kiện cho các quốc gia phát triển các quy định chi tiết hơn về các hoạt động hải quan, bao gồm cả quy định về đại lý hải quan để đảm bảo sự tuân thủ và hiệu quả. Cụ thể Công ước Kyoto sửa đổi, năm 1999 quy định “Luật pháp quốc gia phải quy định những điều kiện trong đó một người có thể hoạt động vì và thay mặt cho một người khác trong quan hệ với cơ quan Hải quan và phải định rõ trách nhiệm của bên thứ ba đó về các khoản thuế hải quan và thuế khác cũng như về bất cứ hành vi vi phạm nào”[15]

Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, ĐLHQ là bên thay mặt chủ hàng thực hiện trách nhiệm khai hải quan và thực hiện các công việc khác về thủ tục hải quan theo thoả thuận trong hợp đồng.[16] Với khái niệm đó và cùng với thuật ngữ “Đại lý làm thủ tục hải quan”, dường như khái niệm ĐLHQ đang được tiếp cận với tư cách là “Đại lý chủ hàng”, vì vậy ĐLHQ chỉ làm đơn giản mỗi một việc là khai thuê tức là ký hợp đồng với chủ hàng để tiếp xúc với cơ quan Hải quan nhằm thông quan hàng hóa. Quy định về ĐLHQ ở Việt Nam hiện nay đang lúng túng trong việc xác định địa vị pháp lý của ĐLHQ, chưa làm rõ được “tư cách pháp lý kép” của ĐLHQ: (i) vừa là người cung cấp dịch vụ khai hải quan; (ii) vừa là chủ thể được cơ quan hải quan ủy quyền thực hiện một số hành vi quản lý liên quan đến thủ tục hải quan. Tại nhiều quốc gia, trước khi hàng đến, cơ quan Hải quan kiểm tra Bản lược khai hàng hóa do ĐLHQ cung cấp. Thay vì duy trì mối quan hệ trực tiếp với các nhà nhập khẩu hoặc xuất khẩu thì ĐLHQ là người sẽ thực hiện tất cả các hoạt động và thủ tục thương mại nước ngoài trên danh nghĩa của các nhà nhập khẩu hoặc xuất khẩu đó. Trách nhiệm của ĐLHQ là kiểm soát và cung cấp tất cả các thông tin cho cơ quan Hải quan để đảm bảo sự an toàn về hàng hóa.[17] Đồng thời ĐLHQ là đầu mối quan trọng nhập dữ liệu với tính đầy đủ, chính xác cao nhất, từ đó giảm thiểu được công việc của các công chức hải quan trong khâu tiếp nhận và xử lý tờ khai, góp phần thực hiện tinh giản bộ máy của cơ quan hải quan có hiệu quả hơn. Cùng với đó, ĐLHQ trên cơ sở theo dõi thường xuyên sự di chuyển của hàng hóa XNK, phương tiện vận tải xuất nhập cảnh thông qua việc làm thủ tục hải quan cho khách hàng, và với sự hợp tác chặt chẽ với cơ quan Hải quan về mặt nghiệp vụ, có thể phát hiện sớm những hành vi vi phạm pháp luật, cung cấp cho cơ quan Hải quan những thông tin cần thiết nhằm kịp thời ngăn ngừa các gian lận thương mại. Do vậy, cần chỉnh sửa khái niệm ĐLHQ trên cơ sở tư cách pháp lý kép của ĐLHQ, từ đó xác định rõ địa vị pháp lý của ĐLHQ trong mối quan hệ với chủ hàng và cơ quan Hải quan, đặc biệt là mối quan hệ giữa hải quan với ĐLHQ. Trong mối quan hệ này cần có các quy định hoặc cho phép cơ quan Hải quan được ủy quyền cho ĐLHQ thực hiện một số hành vi/nghiệp vụ quản lý trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan trên cơ sở một thỏa thuận, cam kết hợp tác giữa cơ quan hải quan với ĐLHQ để phát huy vai trò “cánh tay nối dài” của cơ quan Hải quan. Theo đó, khái niệm ĐLHQ cần được quy định trong Luật Hải quan và nên dùng cụm từ “Đại lý hải quan” thay cho cụm từ “Đại lý làm thủ tục hải quan”.

3.2. Về điều kiện để được công nhận đại lý hải quan

Đại lý nói chung và ĐLHQ nói riêng là hoạt động/ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Vì vậy, để được công nhận là ĐLHQ, doanh nghiệp phải đáp ứng đủ các điều kiện: (i) Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có ngành, nghề kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa hoặc đại lý làm thủ tục hải quan; (ii) Có nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan; (iii) Có hạ tầng công nghệ thông tin đáp ứng điều kiện để thực hiện khai hải quan điện tử và các điều kiện khác theo quy định. ĐLHQ là doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện trên thay mặt người có hàng hóa XNK thực hiện việc khai hải quan; nộp, xuất trình bộ hồ sơ hải quan có liên quan đến lô hàng XNK theo quy định và thực hiện toàn bộ hoặc một phần các công việc liên quan đến thủ tục hải quan theo thỏa thuận trong hợp đồng ký với chủ hàng.[18]Nhìn chung các điều kiện đó khá tương đồng với quy định pháp luật các nước. Tuy nhiên trong bối cảnh chuyển đổi số thì điều kiện có hạ tầng công nghệ thông tin chỉ đáp ứng điều kiện để “thực hiện khai hải quan điện tử” không còn phù hợp với giai đoạn 3 “Số hoá toàn diện”. Bởi khai hải quan chỉ là một nội dung của thủ tục hải quan và hạ tầng công nghệ thông tin đáp ứng điều kiện khai hải quan điện tử đang ở mức độ 1 và 2 của chuyển đổi số. Vì vậy, nên sửa đổi điều kiện này để phù hợp với giai đoạn “Số hoá toàn diện” và hướng tới mô hình hải quan thông minh.

Điều kiện về nhân viên ĐLHQ là công dân Việt Nam: (i) Có trình độ cao đẳng kinh tế, luật, kỹ thuật trở lên; (ii) Có chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan; (iii) Được cơ quan hải quan cấp mã số nhân viên ĐLHQ.[19] Quy định về điều kiện để được làm nhân viên ĐLHQ phải có bằng cấp từ cao đẳng trở lên chuyên ngành luật, kinh tế, kỹ thuật là quá bó hẹp và không còn phù hợp. Một số ngành/chuyên ngành đáp ứng tốt cho việc thực hiện dịch vụ khai hải quan trong bối chuyển đổi số hiện nay như ngành công nghệ, quản trị nhân lực, logistics ....Vì vậy, cần mở rộng đối tượng để họ có cơ hội tham dự các kỳ thi chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan, đáp ứng điều kiện nhân viên ĐLHQ. Ngoài ra để đảm bảo tính chuyên nghiệp và hành nghề cao của ĐLHQ cũng cần bổ sung thêm điều kiện phải có thời hạn hoạt động thực tiễn tại các ĐLHQ trong một thời hạn nhất định.[20]

3.3. Về quyền và nghĩa vụ của đại lý hải quan

Trên cơ sở xác định lại địa vị pháp lý của ĐLHQ, cần chỉnh sửa, bổ sung thêm các quyền và nghĩa vụ của ĐLHQ. Hiện nay pháp luật hải quan mới dừng lại ở việc xác định ĐLHQ với tư cách là người khai hải quan, do vậy ĐLHQ và nhân viên ĐLHQ có các quyền và nghĩa vụ của người khai hải quan[21], như: a) Khai hải quan và làm thủ tục hải quan theo quy định của Luật Hải quan; b) Cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin để cơ quan Hải quan thực hiện xác định trước mã số, xuất xứ, trị giá hải quan đối với hàng hóa; c) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về sự xác thực của nội dung đã khai và các chứng từ đã nộp, xuất trình; về sự thống nhất nội dung thông tin giữa hồ sơ lưu tại doanh nghiệp với hồ sơ lưu tại cơ quan Hải quan; d) Thực hiện quyết định và yêu cầu của cơ quan Hải quan, công chức hải quan trong việc làm thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa, phương tiện vận tải; e) Bố trí người, phương tiện thực hiện các công việc liên quan để công chức hải quan kiểm tra thực tế hàng hóa, phương tiện vận tải; g) Nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật về thuế, phí, lệ phí và quy định khác của pháp luật có liên quan. Tuy nhiên nghĩa vụ lưu giữ hồ sơ hải quan đối với hàng hóa đã được thông quan; xuất trình hồ sơ, cung cấp thông tin, chứng từ liên quan khi cơ quan hải quan yêu cầu kiểm tra (kiểm tra hồ sơ hải quan, kiểm tra sau thông quan tại trụ sở cơ quan hải quan, kiểm tra sau thông quan tại trụ sở người khai hải quan) là điều cần thiết. ĐLHQ sẽ là đầu mối để cơ quan hải quan thực hiện kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa XNK một cách hiệu quả. Vì vậy cần bổ sung nghĩa vụ này cho ĐLHQ mà không nên loại trừ như quy định của pháp luật hiện nay.[22]

Ngoài các quyền và nghĩa vụ nói trên được quy định tại Luật Hải quan thì ĐLHQ còn phải thực hiện một số quyền và nghĩa vụ khác được quy định cụ thể tại Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính.[23] Cụ thể, ĐLHQ phải ký hợp đồng đại lý với chủ hàng; Khai và làm thủ tục hải quan trên cơ sở hợp đồng đại lý đã ký với chủ hàng; Ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan và các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan; và thực hiện báo cáo định kỳ hoạt động đại lý với cơ quan hải quan. Tuy nhiên, qua thực tiễn vận hành cho thấy các quy định này bộc lộ một số bất cập trong quá trình thực hiện, cụ thể:

Thứ nhất, Về việc ký hợp đồng đại lý với chủ hàng, khai và làm thủ tục hải quan trên cơ sở hợp đồng đại lý đã ký. Theo báo cáo của Cục Giám sát quản lý về hải quan, qua kết quả kiểm tra cho thấy nhiều hợp đồng đã ký không có thỏa thuận sử dụng chữ ký số của ĐLHQ để khai và làm thủ tục hải quan. Các hợp đồng như vậy là chưa đáp ứng yêu cầu của pháp luật[24] về một hợp đồng ĐLHQ, thực chất đây là hợp đồng khai thuê hải quan và chủ hàng vẫn chịu trách trước pháp luật về thủ tục hải quan đối với lô hàng, chứ không phải ĐLHQ. Tuy nhiên, các thỏa thuận trong hợp đồng này giữa ĐLHQ và chủ hàng nếu không thuộc các trường hợp bị vô hiệu theo quy định của Bộ Luật Dân sự 2015 thì vẫn đảm bảo có hiệu lực[25]. Vì vậy, hợp đồng mà các ĐLHQ ký với chủ hàng để thực hiện thủ tục hải quan không đúng với bản chất hoạt động của ĐLHQ vẫn tồn tại khá phổ biến. Bên cạnh đó, trong thực tiễn, có một số ĐLHQ còn ký hợp đồng với bên thứ ba để thực hiện một phần công việc trong hợp đồng ĐLHQ. Vì vậy, cần bổ sung quy định trong trường hợp ĐLHQ ký hợp đồng với bên thứ 3 thực hiện một phần công việc trong hợp đồng ĐLHQ thì bên ĐLHQ vẫn phải chịu trách nhiệm với chủ hàng về các công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng đại lý.

Thứ hai, Về việc ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan và các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ tục hải quan đang được thực hiện theo phương thức điện tử (trừ một số trường hợp đặc thù)[26], do đó việc ký tên, đóng dấu trên tờ khai hải quan và các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan được thực hiện bằng chữ ký số. Tuy nhiên, như đã nêu trên, có nhiều hợp đồng đã ký không có điều khoản/thỏa thuận sử dụng chữ ký số của ĐLHQ để khai và làm thủ tục hải quan nên các ĐLHQ đã không sử dụng chữ ký số của mình trên tờ khai hải quan và các chứng từ thuộc hồ sơ hải quan mà sử dụng chữ ký số, ID của chủ hàng để thực hiện khai báo hải quan và thông quan hàng hóa. Do vậy, trong trường hợp khai không đúng, bị phạt, cưỡng chế hoặc phát sinh nợ…đều quy trách nhiệm về chủ hàng dẫn đến có những tranh chấp pháp lý kéo dài, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp các bên liên quan. Vì vậy, cần quy định rõ khi tham gia vào hoạt động ĐLHQ bắt buộc các ĐLHQ phải sử dụng chữ ký số của chính đại lý[27] và trong hợp đồng đại lý phải có thỏa thuận rõ sử dụng chữ ký số của ĐLHQ để phân định rõ trách nhiệm pháp lý giữa ĐLHQ với chủ hàng và với cơ quan hải quan cũng như chịu trách nhiệm trước pháp luật trong “mối quan hệ tay ba” này.

Cùng với nghĩa vụ của ĐLHQ là trách nhiệm của chủ hàng phải thông báo cho cơ quan hải quan danh sách ĐLHQ được thay mặt chủ hàng để làm thủ tục hải quan (thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan) trước khi ĐLHQ thực hiện việc khai và làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa XNK.[28]Việc thông báo danh sách ĐLHQ thay mặt chủ hàng khai và làm thủ tục hải quan nhằm ngăn chặn nguy cơ đại lý lợi dụng thông tin của doanh nghiệp XNK để làm thủ tục hải quan, thực hiện hành vi gian lận, vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, một số chủ hàng không thực hiện trách nhiệm trên vì trong hợp đồng không có thỏa thuận sử dụng chữ ký số của ĐLHQ để khai báo hải quan và thực hiện thông quan hàng hóa. Bên cạnh đó, hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan chưa xử lý được việc ngăn chặn ngay khai báo của các đại lý chưa được chủ hàng ủy quyền mà vẫn thực hiện khai báo trên hệ thống.

Như vậy, đối chiếu với quy định tại Thông tư số 12/2015/TT-BTC[29] có một số ĐLHQ cũng như chủ hàng không thực hiện đúng các yêu cầu đối với hoạt động của đại lý trong lĩnh vực hải quan. Tuy nhiên, điều đáng nói là hiện nay các văn bản pháp luật chưa có quy định xử lý trường hợp ĐLHQ không hoạt động với tư cách đại lý mà chỉ hoạt động dịch vụ khai thuê hải quan.[30]Vì vậy, cần bổ sung quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với ĐLHQ khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định của pháp luật trong quá trình hoạt động của ĐLHQ. Đây sẽ là một trong những tiêu chí quan trọng xếp hạng ý thức tuân thủ pháp luật của ĐLHQ để xem xét công nhận ĐLHQ ưu tiên cũng như áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro đối với ĐLHQ.

Thứ ba, về Báo cáo định kỳ tình hình hoạt động của các ĐLHQ: Hiện nay các ĐLHQ phải nộp báo định kỳ theo quý cho cơ quan hải quan[31], tuy nhiên trong thực tế, nghĩa vụ này chỉ mang tính hình thức, không giúp được cơ quan hải quan trong việc quản lý tình trạng hoạt động của các ĐLHQ. Vì vậy, nên bỏ quy định này, trong mô hình hải quan số, hải quan thông minh hoạt động Báo cáo định kỳ này là không cần thiết. Bởi cơ quan Hải quan sẽ nắm được tất cả các thông tin hoạt động của ĐLHQ thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu của cơ quan hải quan, thông qua cơ chế kết nối và trao đổi dữ liệu giữa cơ quan hải quan với ĐLHQ mà không cần ĐLHQ có nghĩa vụ phải báo cáo, cung cấp.

Thứ tư, Về việc cử người đại diện khi làm thủ tục hải quan và các thủ tục hành chính khác với cơ quan Hải quan. Trong thực tế, khi làm thủ tục hải quan và các thủ tục hành chính khác với cơ quan hải quan, nhân viên các ĐLHQ hoạt động đúng bản chất của đại lý sử dụng Giấy giới thiệu của ĐLHQ, nhân viên các ĐLHQ hoạt động dịch vụ khai thuê hải quan sử dụng Giấy giới thiệu của chủ hàng. Vậy vấn đề đặt ra là, Giấy giới thiệu của chủ hàng giới thiệu nhân viên ĐLHQ không thuộc thẩm quyền quản lý của mình và việc cơ quan Hải quan chấp nhận Giấy giới thiệu của chủ hàng trong trường hợp này để làm thủ tục hải quan và các thủ tục hành chính khác có đúng với quy định của pháp luật hay không? Ngoài bất cập vướng mắc đó, thì quy định này là không phù hợp với bối cảnh chuyển đổi số đặc biệt khi đã thực hiện số hóa toàn diện trong hoạt động hải quan. Vì vậy, nên quy định sử dụng mã số nhân viên ĐLHQ đã được cập nhật trên hệ thống xử lý dữ liệu của cơ quan Hải quan. Điều này cũng sẽ thống nhất với quy định “Mã số nhân viên ĐLHQ được Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan cấp sẽ được cập nhật vào hệ thống cơ sở dữ liệu của cơ quan Hải quan. Trường hợp việc khai hải quan thực hiện bằng phương thức điện tử, cơ quan Hải quan sẽ cấp tên người sử dụng và mật khẩu cho người được cấp mã số nhân viên ĐLHQ để truy cập vào hệ thống. Người được cấp mã số nhân viên ĐLHQ chịu trách nhiệm bảo mật các thông tin do cơ quan Hải quan cung cấp. Khi thực hiện các thủ tục hành chính trực tiếp với cơ quan Hải quan, nhân viên ĐLHQ phải xuất trình mã số nhân viên ĐLHQ”.[32]

3.4. Về trách nhiệm của cơ quan Hải quan

ĐLHQ là một chủ thể được thành lập xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của hoạt động XNK (theo thông lệ quốc tế), với mục đích góp phần làm giảm gánh nặng cho cơ quan Hải quan, giúp Hải quan giải phóng hàng nhanh hơn, hiệu quả hơn. Tuy nó không phải thuộc tổ chức bộ máy của cơ quan Hải quan nhưng là đồng minh tin cậy của ngành Hải quan, là cánh tay nối dài của hải quan. Theo đó, việc huấn luyện, đào tạo, cung cấp và cập nhật tài liệu, ấn chỉ, hướng dẫn về thủ tục hải quan, thủ tục thuế và tạo điều kiện thuận lợi cho ĐLHQ là nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan Hải quan. Trong đó và trước hết là trách nhiệm đào tạo nghiệp vụ hải quan như phân loại hàng hóa, xác định trị giá hải quan, xác định xuất xứ hàng hóa v.v…Do vậy, pháp luật cần có các quy định cụ thể về cơ chế thực hiện đối với trách nhiệm này của cơ quan Hải quan phù hợp với bối cảnh chuyển đổi số. Ngoài ra trong mô hình hải quan số, hải quan thông minh các quy định của pháp luật cũng cần hướng tới xây dựng hệ sinh thái dữ liệu ĐLHQ tích hợp trong đó hải quan giữ vai trò là trung tâm điều phối. Theo đó, cơ quan Hải quan phải có trách nhiệm hỗ trợ ĐLHQ mà trước tiên là hỗ trợ kết nối, chia sẻ, trao đổi thông tin, dữ liệu liên quan đến nghiệp vụ hải quan kể cả trước thông quan, trong thông quan, sau thông quan và còn mở rộng đến các khâu khác của chuỗi cung ứng.

Về trách nhiệm của cơ quan Hải quan trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động và việc thực hiện các quy định tại Luật Hải quan và Thông tư quy định về ĐLHQ và nhân viên ĐLHQ:[33] Kiểm tra, giám sát ĐLHQ là hoạt động của cơ quan hải quan nhằm đảm bảo các ĐLHQ thực hiện đúng quy định của pháp luật trong quá trình làm thủ tục hải quan, quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu cũng như tuân thủ các quy trình, thủ tục hải quan.[34] Thực tế hiện nay cho thấy mới chỉ dừng ở mức kiểm tra qua hồ sơ, việc kiểm tra thực tế tại trụ sở đại lý chủ yếu được thực hiện tại thời điểm ban đầu để cấp chứng nhận đủ điều kiện hoạt động ĐLHQ, sau thời điểm đó hầu như không được kiểm tra[35]. Tuy nhiên, việc kiểm tra các các thông tin về XNK của doanh nghiệp thông qua các ĐLHQ là hết sức quan trọng vừa hiệu quả, vừa giảm chi phí, giảm đầu mối kiểm tra, giám sát của cơ quan hải quan bằng việc thay vì kiểm tra tại hàng nghìn doanh nghiệp xuất nhập khẩu hàng hóa thì chỉ cần kiểm tra tại các đầu mối ĐLHQ. Bên cạnh đó, cũng cần có các quy định đặc thù về kiểm tra, giám sát ĐLHQ, chủ yếu hoạt động này nhằm đánh giá năng lực, trình độ, đạo đức nghề nghiệp của đại lý hải quan, đảm bảo tuân thủ các quy định về hành nghề của ĐLHQ. Đồng thời cần có các quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện kiểm tra, giám sát và quản lý hoạt động của ĐLHQ, đảm bảo việc kết nối liên thông với cơ quan hải quan, các cơ quan quản lý chuyên ngành và một cửa Quốc gia đáp ứng yêu cầu tự động hoá trong quản lý đại lý hải quan và xây dựng cơ sở dữ liệu về đại lý hải quan.

Ngoài các trách nhiệm trên, cơ quan hải quan có trách nhiệm đăng tải công khai trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan (nay là Cục Hải quan) các thông tin bao gồm: Danh sách doanh nghiệp được công nhận là ĐLHQ, nhân viên ĐLHQ được cấp mã số; Danh sách ĐLHQ bị đình chỉ hoạt động, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động; nhân viên ĐLHQ bị đình chỉ, bị thu hồi mã số nhân viên ĐLHQ.[36] Nội dung đăng tải gồm: Tên ĐLHQ, địa chỉ trụ sở chính, mã số thuế, năm thành lập, số điện thoại, người đại diện theo pháp luật, danh sách nhân viên ĐLHQ, mã số nhân viên và các thông tin cần thiết khác có liên quan. Tuy nhiên, đến nay, việc này chưa được thực hiện đầy đủ công khai trên Cổng thông tin điện tử của Cục Hải quan. Do vậy cơ quan hải quan thiếu thông tin để quản lý ĐLHQ trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay. Về trách nhiệm cấp và thu hồi mã nhân viên ĐLHQ, hiện nay việc cấp mật khẩu/mã riêng cho từng nhân viên ĐLHQ chưa được thực hiện mà đang cấp chung cho đại lý, do đó, khi nhân viên bị thu hồi mã số thì cơ quan hải quan phải làm công văn gửi đại lý để xác minh tài khoản khai báo của nhân viên bị thu hồi mã số để khóa tài khoản khai báo mà nhân viên sử dụng.

Như vậy, ngoài việc cơ quan hải quan chưa thực hiện hết trách nhiệm của mình, hiện nay pháp luật cũng đang thiếu vắng các quy định về trách nhiệm của cơ quan hải quan đối với ĐLHQ với vị thế, tư cách là đối tác, là “người bạn đồng hành” và với vai trò “cánh tay nối dài” của cơ quan hải quan. Trong bối cảnh chuyển đổi số, các văn bản pháp luật về ĐLHQ cần xác định rõ vai trò phối hợp, hỗ trợ của cơ quan hải quan trong việc kết nối, trao đổi thông tin giữa cơ quan hải quan với ĐLHQ gồm kết nối kỹ thuật và trao đổi dữ liệu nghiệp vụ. Đối với kết nối kỹ thuật như thiết lập giao diện kỹ thuật giữa hệ thống công nghệ thông tin, sử dụng các chuẩn giao tiếp dữ liệu (API, Web Service, EDI...), đảm bảo khả năng tích hợp, truy xuất và xử lý dữ liệu đồng bộ giữa cơ quan hải quan với ĐLHQ. Đối với trao đổi dữ liệu nghiệp vụ, cần có quy định cụ thể về danh mục dữ liệu bắt buộc chia sẻ và dữ liệu chia sẻ theo thỏa thuận. Từ đó xác định rõ trách nhiệm của ĐLHQ và cơ quan hải quan. Bên cạnh đó, cần hỗ trợ ĐLHQ thực hiện chuyển đổi số, sử dụng các phần mềm tương thích với phần mềm quản lý của cơ quan hải quan.

3.5. Về chế độ ưu tiên đối với đại lý hải quan

Cũng như các nước trên thế giới để phát triển ĐLHQ, pháp luật Việt Nam cũng có những quy định áp dụng các chế độ ưu tiên đối với ĐLHQ, trong đó có áp dụng Chương trình doanh nghiệp ưu tiên-Authorized Economic Operator (AEO). Hiện nay, các tiêu chí công nhận đại lý ưu tiên, quy định tại Thông tư 72/2015/TT-BTC ngày 12/5/2015 và Thông tư 07/2019/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định áp dụng chế độ ưu tiên trong việc thực hiện thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa XNK của doanh nghiệp. Tuy nhiên, quy định ĐLHQ phải đạt 20.000 tờ khai/năm là tiêu chuẩn khá cao và không khả thi đối với đại lý hải quan ở Việt Nam hiện nay. Qua đánh giá, tổng hợp từ Cục Hải quan TP. Hà Nội: xét theo tiêu chí tờ khai, có 20/300 đại lý có số lượng trên 500 tờ khai xuất nhập khẩu/01 quý phục vụ cho khách hàng (trên 2.000 tờ khai/năm), trong khi đặc thù địa bàn Hà Nội có khối lượng lớn các tờ khai giá trị thấp và chủ yếu là tờ khai đối với hàng hóa gửi qua dịch vụ bưu chính, chuyển phát nhanh.[37] Thực tế đó cho thấy các quy định chính sách ưu tiên chưa phù hợp với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ như ĐLHQ, chưa rõ chính sách đối với ĐLHQ, nhân viên đại lý được công nhận ưu tiên, chế độ thưởng, phạt, xử lý đối với ĐLHQ và nhân viên đại lý, nên chưa có nhiều ĐLHQ quan tâm đến việc được công nhận là ĐLHQ ưu tiên. Theo đó, hiện nay vẫn chưa có ĐLHQ nào được công nhận là “đại lý ưu tiên”[38]. Xuất phát từ địa vị pháp lý cũng như vai trò của ĐLHQ đã được quy định tại Công ước Kyoto (RKC) và Hiệp định tạo thuận lợi thương mại (TFA); khung tiêu chuẩn an ninh và tạo thuận lợi thương mại toàn cầu (SAFE); kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới điển hình Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa kỳ… để công nhận đại lý ưu tiên cần hướng tới các điều kiện về tuân thủ hơn là quy định về số lượng tờ khai. Khi rõ về tiêu chí và định lượng được các tiêu chí đó như số lượng tờ khai thực hiện; số lượng tờ khai đúng/sai; tỷ lệ tuân thủ, vi phạm pháp luật; quản trị doanh nghiệp, cập nhật kiến thức pháp luật hải quan ...) thì đủ điều kiện để công nhận đại lý ưu tiên.[39] Và đối với việc quy định doanh nghiệp ưu tiên là ĐLHQ cần được quy định tại Nghị định của Chính phủ (Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan và kiểm soát hải quan).[40]

Ngoài ra, hiện nay các quy định của pháp luật chưa tạo ra được sự khác biệt và có cơ chế ưu tiên đối với ĐLHQ so với các doanh nghiệp XNK tự làm thủ tục hải quan hoặc các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ khác có thực hiện dịch vụ khai hải quan. Chỉ khác là, để thực hiện khai hải quan và thông quan hàng hóa cho chủ hàng, ĐLHQ cần phải có nhân viên được đào tạo, được cấp chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan và phải được cấp mã số nhân viên ĐLHQ. Trong khi đó doanh nghiệp XNK hoặc doanh nghiệp dịch vụ khác thì không cần đáp ứng bất cứ điều kiện gì, thậm chí là cũng không cần có chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan vẫn khai báo hải quan và thực hiện thủ tục hải quan bình thường. Do vậy, làm giảm tính cạnh tranh của ĐLHQ. Chính việc chưa có sự khác biệt nhiều trong việc khai báo hải quan giữa ĐLHQ với các doanh nghiệp XNK và các đơn vị cung ứng dịch vụ khác, dẫn đến doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ được vai trò của ĐLHQ, từ đó làm giảm sức cạnh tranh của ĐLHQ.[41] Bản thân các đại lý hiện tại cũng chưa "mặn mà" với việc thúc đẩy hoạt động đại lý của mình. Mặt khác, do có những rủi ro về pháp lý mà các ĐLHQ có thể gặp phải trong quá trình hoạt động dẫn đến ĐLHQ dè dặt trong hoạt động ĐLHQ. Hơn nữa, chi phí cho hoạt động khai báo của ĐLHQ cao hơn các đơn vị cung ứng dịch vụ thông thường, trong khi đó giá trị dịch vụ không có nhiều sự khác biệt, dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp hơn.[42] Do vậy, cần xây dựng tiêu chí công nhận ĐLHQ ưu tiên, nhân viên ĐLHQ ưu tiên sát với tình hình thực tế hoạt động của các ĐLHQ hiện nay. Theo đó, cần nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đo lường sự tuân thủ của ĐLHQ. Cơ quan Hải quan có thể đo lường hiệu quả hoạt động/sự tuân thủ của các ĐLHQ theo bộ các tiêu chí có liên quan đến hoạt động của ĐLHQ. Nhằm nâng cao năng lực ĐLHQ, tạo môi trường cạnh tranh công bằng, bền vững cho ĐLHQ, nâng cao ý thức tự nguyện tuân thủ pháp luật của đại lý, giúp ĐLHQ nhận được sự công nhận của các bên có liên quan, cũng như nâng cao hiệu quả quản lý ĐLHQ, Hải quan phối hợp với Hiệp hội doanh nghiệp logistics Việt Nam xây dựng Bộ chỉ số đánh giá năng lực ĐLHQ. Trong đó tiêu chuẩn nghiệp vụ, sự chuyên nghiệp, tuân thủ pháp luật của ĐLHQ là các trụ cột chính trong việc đánh giá, xếp loại ĐLHQ.[43] Việc quy định bộ tiêu chí này phải trên cơ sở tổng hợp các tiêu chuẩn quốc tế, chuẩn mực của Tổ chức Hải quan thế giới, khuyến nghị của chuyên gia nước ngoài, chuyên gia trong nước cũng như đặc điểm kinh tế, khung pháp lý quy định đối với hoạt động ĐLHQ tại Việt Nam.

Và cũng cần nghiên cứu một số nội dung để triển khai áp dụng chế độ ưu tiên đối với doanh nghiệp là ĐLHQ. Khi doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện về tuân thủ pháp luật về hải quan, pháp luật về thuế, kim ngạch, số lượng lô hàng đã khai báo tuân thủ pháp luật hải quan, thời gian không vi phạm... thì được công nhận là ĐLHQ ưu tiên, đồng nghĩa với việc được hưởng các chế độ ưu tiên. Tuy nhiên không nên quy định chế độ ưu tiên đối với ĐLHQ tương đồng với chế độ ưu tiên áp dụng cho doanh nghiệp XNK và cũng không nên quy định chủ hàng hóa, chủ phương tiện cũng được hưởng chế độ ưu tiên khi ủy quyền cho đại lý ưu tiên làm thủ tục hải quan.[44]

3.6. Về các thủ tục hành chính đối với đại lý hải quan

Gắn liền với trách nhiệm của cơ quan hải quan đối với ĐLHQ là việc thực hiện các thủ tục hành chính. Về các thủ tục hành chính liên quan đến ĐLHQ, hiện nay đang có 13 thủ tục: Tổ chức thi, cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan; Cấp chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan đối với công chức hải quan đã chuyển công tác, nghỉ hưu hoặc nghỉ việc; Công nhận ĐLHQ; Tạm dừng hoạt động ĐLHQ; Chấm dứt hoạt động ĐLHQ; Tiếp tục hoạt động ĐLHQ; Cấp mã số nhân viên ĐLHQ; Gia hạn mã số nhân viên ĐLHQ; Thu hồi mã số nhân viên ĐLHQ; Cấp lại mã số đối với nhân viên ĐLHQ; Thay đổi thông tin ĐLHQ; Công nhận doanh nghiệp, ĐLHQ ưu tiên; Cấp, thu hồi, xác nhận user ID liên quan ĐLHQ. Tuy nhiên, suy cho cùng các thủ tục hành chính này chủ yếu liên quan đến tư cách pháp lý hoạt động ĐLHQ và nhân viên ĐLHQ cũng như sự quản lý của cơ quan hải quan đối với đại lý. Tuy nhiên, hiện nay quy định các thủ tục hành chính này được thực hiện cả bản giấy và điện tử, dẫn đến hiện tượng hồ sơ gửi bị thất lạc, không đến được địa chỉ hoặc bị trả về. Trong bối cảnh chuyển đổi số, các thủ tục hành chính liên quan đến tư cách pháp lý của ĐLHQ và nhân viên ĐLHQ cần được quy định thực hiện theo phương thức điện tử và được cập nhật công khai trên Cổng dịch vụ công trực tuyến, đảm bảo tối đa thủ tục được cung cấp dịch vụ công ở mức độ 4 và được thực hiện trên nhiều phương tiện khác nhau, mọi lúc, mọi nơi. Đồng thời cần có các quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thực hiện các thủ tục hành chính như thông qua nhận diện khuôn mặt hoặc sinh trắc học, số hiệu quản lý căn cước công dân có kết nối với dữ liệu thông tin cá nhân trên hệ thống hải quan điện tử; hoặc trong việc cung cấp dữ liệu khai báo do ĐLHQ đã khai trong tháng/quý để rà soát dữ liệu chính xác.

4. Kết luận:

ĐLHQ vừa là người bạn đồng hành vừa là đối tác quan trọng của cơ quan Hải quan trong việc thực thi pháp luật hải quan, đồng thời là một phần của chuỗi cung ứng dịch vụ toàn cầu, vì vậy việc định hướng phát triển, nâng cao năng lực ĐLHQ được đặt ra trong Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Trong những năm qua, ĐLHQ được hình thành với kỳ vọng giúp cơ quan Hải quan cũng như doanh nghiệp hoạt động XNK giảm tải áp lực công việc khi khối lượng hàng hóa ngày một gia tăng; hoạt động ĐLHQ đã có những đóng góp trong chuỗi cung ứng hoạt động XNK hàng hóa. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế số mà cốt lõi là dựa trên phương thức sản xuất số, hoạt động của các ĐLHQ ở Việt Nam hiện nay chưa đạt được mục tiêu yêu cầu. Chính vì vậy, phát triển ĐLHQ theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp, tin cậy là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của ĐLHQ trong bối cảnh chuyển đổi số, cần phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, hoàn thiện hệ thống pháp lý và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ. Đồng thời, việc nâng cao năng lực của đội ngũ nhân viên hải quan về kiến thức và kỹ năng công nghệ là yếu tố quan trọng giúp các ĐLHQ có thể tận dụng tối đa lợi thế từ chuyển đổi số. Để thực sự phát triển bền vững, các ĐLHQ cần phải không ngừng đổi mới và sáng tạo, tiếp cận và áp dụng những công nghệ mới nhất, nhằm đáp ứng được yêu cầu của thị trường quốc tế và xu thế chuyển đổi số trong lĩnh vực hải quan trên cơ sở có một nền tảng pháp lý thuận lợi.

Tài liệu tham khảo

1. Customs Broker.com. (n.d.). Truy cập tại https://www.customsbroker.com

2. Đào Duy Tám, Phát triển dịch vụ đại lý hải quan ở Việt Nam- Thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp, (Luận văn thạc sỹ), Đại học Kinh tế quốc dân (2012)

3. Ewa Gwardzińska, The role of customs brokers in facilitating international trade. World Customs Journal, 8(1), 63-70 (2014)

4. Jon Sasaki, Customs broker exam study guide & how to start your own customs brokerage business, Chb Solutions (2010)

5. Ngô Minh Hải, Sử dụng đại lý hải quan trong hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay, Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính, (2009)

6. Nguyễn Văn Thọ, Giải pháp phát triển đại lý hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số, Báo cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính, (2024)

7. P.G. Arul. International logistics management. Pondicherry University, Directorate of Distance Education (2018)

8. Tạp chí Tài chính, Phát triển đại lý hải quan cả về lượng và chất, (13/11/2023) Truy cập tại https://tapchitaichinh.vn/phat-trien-dai-ly-hai-quan-ca-ve-luong-va-chat.html

9. Thái Bùi Hải An, Quản lý đại lý làm thủ tục hải quan ở Việt Nam, (Luận án tiến sỹ), Học viện Tài chính (2015)

10. Thời báo Tài chính Việt Nam, Cần có cơ chế ưu tiên đối với doanh nghiệp là đại lý làm thủ tục hải quan, (14/10/2024) Truy cập tại https://thoibaotaichinhvietnam.vn/can-co-co-che-uu-tien-doi-voi-doanh-nghiep-la-dai-ly-lam-thu-tuc-hai-quan-158709.html

11. Trần Bình Minh, Quản lý của Hải quan Việt Nam đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong nền kinh tế chia sẻ, Mã số: BTC/ĐT/2019-67, Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính, (2019)

12. Trần Đức Hùng, Quản lý Hải quan đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu trong hoạt động thương mại điện tử, Mã số: BTC/ĐT/2020-03, Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính, (2020)

13. USA International Business Publications. China Customs, Trade Regulations And Procedures Handbook, (2009).

14. World Customs Organization, Công ước quốc tế về đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục hải quan (Công ước Kyoto sửa đổi), (1999)

15. World Customs Organization, Customs brokers guideline (2018, June)

[*] Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Giảng viên cao cấp- Học viện Tài chính. Email: nguyenthuonghuyen@hvtc.edu.vn, ngày duyệt đăng 28/10/2025

[1] Ngô Minh Hải “Sử dụng đại lý hải quan trong hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay” Đề tài cấp Bộ - Bộ Tài chính, 18 (2009)

[2] Điều 20, Luật Hải quan – Luật số: 54/2014/QH13, ngày 23 tháng 6 năm 2014

[3] P.G. Arul. International logistics management. Pondicherry University, Directorate of Distance Education, 95 (2018)

[4] Đào Duy Tám, Phát triển dịch vụ đại lý hải quan ở Việt Nam- Thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp, (Luận văn thạc sỹ), Đại học Kinh tế quốc dân, 45 (2012)

[5] Tổng hợp các Báo cáo Tổng kết của Tổng cục Hải quan qua các năm 2020, 2021, 2022, 2023, 2024

[6] Tổng hợp các Báo cáo Tổng kết của Tổng cục Hải quan qua các năm 2020, 2021, 2022, 2023, 2024

[7] Trần Bình Minh, Quản lý của Hải quan Việt Nam đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong nền kinh tế chia sẻ, MS: BTC/ĐT/2019-67, Đề tài cấp Bộ, Bộ tài chính 52 (2019)

[8] Nguyễn Văn Thọ, Giải pháp phát triển đại lý hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số, Báo cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính, 83 (2024)

[9] Tổng hợp theo “số liệu thống kê về kim ngạch XNK 6 tháng đầu năm, năm 2024” của Cục Công nghệ thông tin & Thống kê hải quan – Tổng cục Hải quan

[10] Nguyễn Văn Thọ, Giải pháp phát triển đại lý hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số, Báo cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính, 87 (2024)

[11] Trần Đức Hùng, Quản lý Hải quan đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu trong hoạt động thương mại điện tử, MS: BTC/ĐT/2020-03, Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính, 102 (2020)

[12] Nguyễn Văn Thọ, Giải pháp phát triển đại lý hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số, Báo cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính, 89 (2024)

[13] Ewa Gwardzińska. The role of customs brokers in facilitating international trade. World Customs Journal, 8(1), 63-70 (2014)

[14] Công ước Kyoto về “Đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục Hải quan” năm 1993 và sửa đổi, bổ sung năm 1999 (gọi tắt Công ước Kyoto sửa đổi)

[15] Chuẩn mực 8.2, Chương VIII, Công ước Kyoto sửa đổi, năm 1999

[16] Khoản 1, Điều 5, Thông tư 12/2015/TT-BTC, ngày 30/01/2025, quy định chi tiết thủ tục cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan; cấp và thu hồi mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan; trình tự, thủ tục công nhận và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan

[17] Jon Sasaki. Customs broker exam study guide & how to start your own customs brokerage business. Chb Solutions, (2010)

[18] Điều 5 Thông tư số 12/2015/TT-BTC (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 1 Thông tư số 22/2019/TT-BTC) “Đại lý làm thủ tục hải quan là doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật Hải quan năm 2014, trong phạm vi được ủy quyền theo thỏa thuận trong hợp đồng ký với người có hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (gọi là chủ hàng) thay mặt chủ hàng thực hiện toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ của người khai hải quan quy định tại khoản 3 Điều 18 Luật Hải quan”.

[19] Khoản 2, Điều 20, Luật Hải quan năm 2014

[20] Trước đây quy định điều kiện để được làm nhân viên đại lý hải quan thì phải có thời gian làm việc cho đại lý hải quan nơi được cấp thẻ ít nhất là 03 (ba) tháng (Tiết d, Khoản 1, Điều 3, NĐ 14/2011/NĐ-CP ngày 16/2/2011) thì nay không quy định nội dung này.

[21] Khoản 4, Điều 20, Luật Hải quan năm 2014 “Đại lý làm thủ tục hải quan và nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan thực hiện quyền và nghĩa vụ của người khai hải quan quy định tại Điều 18 của Luật này”.

[22] Khoản 3, Điều 18, Luật Hải quan năm 2014: “Người khai hải quan là đại lý làm thủ tục hải quan, người khác được chủ hàng hóa, chủ phương tiện vận tải ủy quyền thực hiện nghĩa vụ quy định tại các điểm a, b, c, d, e và g khoản 2 Điều này trong phạm vi được ủy quyền. Người khai hải quan là người điều khiển phương tiện vận tải thực hiện nghĩa vụ quy định tại các điểm a, c, d, e và g khoản 2 Điều này”.

[23] Điều 5 Thông tư số 12/2015/TT-BTC, được sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 1 Thông tư số 22/2019/TT-BTC

[24] Khoản 2 Điều 5 Thông tư số 12/2015/TT-BTC, được sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 1 Thông tư số 22/2019/TT-BTC

[25] Điều 123 đến Điều 130 Bộ luật dân sự 2015

[26] Điều 25, Nghị định số 08/2015/NĐ-CP ngày 21/01/2015 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan và kiểm soát hải quan;

[27] Hoàn thiện Thông tư sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Thông tư 22/2019/TT-BTC ngày 16/4/2019, Thông tư số 12/2015/TT-BTC ngày 30/1/2015 của Bộ Tài chính quy định chi tiết thủ tục cấp Chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan; cấp và thu hồi mã số nhân viên đại lý làm thủ tục hải quan; trình tự, thủ tục công nhận và hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan; chuẩn hóa Cơ sở dữ liệu quản lý đại lý làm thủ tục hải quan.

[28] Khoản 6, Điều 14, Thông tư 22/2019/TT-BTC “Khi phát sinh hợp đồng đại lý làm thủ tục hải quan, chủ hàng thông báo danh sách đại lý làm thủ tục hải quan được thay mặt chủ hàng khai và làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan trước khi đại lý làm thủ tục hải quan thực hiện việc khai và làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu”

[29] Quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư số 12/2015/TT-BTC (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 1 Thông tư số 22/2019/TT-BTC)

[30] Điều 7 Thông tư số 12/2015/TT-BTC (được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 22/2019/TT-BTC) của Bộ Tài chính

[31] Đại lý hải quan có trách nhiệm báo cáo định kỳ tình hình hoạt động của mình cho Cục Hải quan tỉnh, thành phố nơi đại lý có trụ sở. Báo cáo này được nộp vào ngày 05 của tháng đầu quý sau, hoặc theo yêu cầu cụ thể của cơ quan Hải quan.

[32] Khoản 8, Điều 1 Thông tư số 22/2019 sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 12 Thông tư số 12/2015

[33] Điều 15 Thông tư số 12/2015/TT-BTC ngày 30/1/2015 quy định Quyền, trách nhiệm của cơ quan Hải quan

[34] Thái Bùi Hải An, Quản lý đại lý làm thủ tục hải quan ở Việt Nam, (luận án tiến sỹ), Học viện Tài chính, 130 (2015)

[35] Báo cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ “Giải pháp phát triển đại lý hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số”, Bộ Tài chính, 109 (2024)

[36] Điểm b, Khoản 7, điều 15 Thông tư 12/2015/TT-BTC quy định quyền, trách nhiệm của cơ quan Hải quan

[37] Tổng hợp Báo cáo tổng kết Cục Hải quan T.P Hà Nội qua các năm 2020, 2021, 2022, 2023, 2024

[38] Nguyễn Văn Thọ, Giải pháp phát triển đại lý hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số, Báo cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ, Bộ Tài chính, 116 (2024)

[39] Tài liệu tham khảo hướng dẫn dành cho đại lý hải quan của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) (“Customs brokers guideline - tháng 6/2018)

[40]Hiện nay là Nghị định 08/2015/NĐ-CP và Nghị định 59/2018/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 08/2015/NĐ-CP.

[41] https://thoibaotaichinhvietnam.vn/can-co-co-che-uu-tien-doi-voi-doanh-nghiep-la-dai-ly-lam-thu-tuc-hai-quan-158709.html

[42] https://tapchitaichinh.vn/phat-trien-dai-ly-hai-quan-ca-ve-luong-va-chat.html

[43] Tài liệu tham khảo hướng dẫn dành cho đại lý hải quan của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) (“Customs brokers guideline - tháng 6/2018)

[44] Chế độ ưu tiên đối với doanh nghiệp quy định tại Điều 43 Luật Hải quan: được miễn kiểm tra chứng từ thuộc hồ sơ hải quan, miễn kiểm tra thực tế hàng hóa, được làm thủ tục hải quan bằng tờ khai chưa hoàn chỉnh hoặc chứng từ thay thế, được ưu tiên thực hiện thủ tục hải quan trước; Được ưu tiên khi thực hiện thủ tục về thuế đối với hàng hóa theo quy định của pháp luật về thuế....; và chủ hàng hóa, chủ phương tiện cũng được hưởng chế độ ưu tiên khi ủy quyền cho đại lý ưu tiên.

Cùng chuyên mục

Đảm bảo quyền của cổ đông thiểu số trong đề cử và bầu thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại các công ty đại chúng niêm yết trong bối cảnh sở hữu tập trung  - kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam

Đảm bảo quyền của cổ đông thiểu số trong đề cử và bầu thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại các công ty đại chúng niêm yết trong bối cảnh sở hữu tập trung - kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam

Nghiên cứu lý luận -  32 giây trước

(PLPT) - Bài viết so sánh quy định của Italia và Trung Quốc về bảo vệ quyền cổ đông thiểu số trong đề cử, bầu thành viên độc lập HĐQT tại công ty đại chúng niêm yết, đồng thời chỉ ra các khó khăn trong thực thi. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra khuyến nghị cho Việt Nam nhằm hoàn thiện pháp lý, nâng cao hiệu quả quản trị và củng cố niềm tin nhà đầu tư.

Tư cách pháp nhân của Công ty cổ phần tại Việt Nam: Vấn đề tiếp thu lý thuyết pháp nhân hư cấu - Triết học Marx – Engels và thực tiễn

Tư cách pháp nhân của Công ty cổ phần tại Việt Nam: Vấn đề tiếp thu lý thuyết pháp nhân hư cấu - Triết học Marx – Engels và thực tiễn

Nghiên cứu lý luận -  56 giây trước

(PLPT) - Bài viết cho rằng việc tiếp thu thuyết “pháp nhân hư cấu” trong lý luận về tư cách pháp nhân của công ty cổ phần ở Việt Nam không phù hợp với nền tảng triết học Marx – Engels. Tác giả chỉ ra đây là quan điểm mang tính duy tâm, xa rời thực tiễn doanh nghiệp, và đề xuất hướng khắc phục để phù hợp với bối cảnh pháp lý Việt Nam.

Pháp luật về hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa

Pháp luật về hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa

Nghiên cứu lý luận -  9 giờ trước

(PLPT) - Bài viết nghiên cứu hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa tại Việt Nam.

Xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài sản

Xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài sản

Nghiên cứu lý luận -  2 tuần trước

(PLPT) - Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài sản đóng vai trò quan trọng trong việc xác định chủ thể có quyền tham gia giao kết hợp đồng bảo hiểm cũng như quyền lợi của họ khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Việc tuân thủ nguyên tắc này là điều kiện tiên quyết để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản theo quy định pháp luật Việt Nam.

Pháp luật một số quốc gia về khai thác, sử dụng không gian ngầm dưới mặt đất và gợi mở cho Việt Nam

Pháp luật một số quốc gia về khai thác, sử dụng không gian ngầm dưới mặt đất và gợi mở cho Việt Nam

Nghiên cứu lý luận -  1 tháng trước

(PLPT) - Bài viết trình bày về tầm quan trọng của việc phát triển không gian ngầm và công trình ngầm để giải quyết vấn đề thiếu đất ở các đô thị lớn, đặc biệt trong bối cảnh tốc độ đô thị hóa nhanh chóng được xem là xu thế tất yếu để sử dụng tài nguyên đất một cách tối ưu.

Cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền tác giả đối với sản phẩm đầu ra của trí tuệ nhân tạo - Thực tiễn pháp lý quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt  Nam

Cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền tác giả đối với sản phẩm đầu ra của trí tuệ nhân tạo - Thực tiễn pháp lý quốc tế và một số khuyến nghị cho Việt Nam

Nghiên cứu lý luận -  1 tháng trước

(PLPT) - Bài viết nghiên cứu những tác động của trí tuệ nhân tạo (AI) đến luật bản quyền và sự cần thiết phải điều chỉnh khung pháp lý để cân bằng lợi ích giữa các bên

Miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường: Phân tích so sánh giữa Chỉ thị 2004/35/EC của EU và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 của Việt Nam

Miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường: Phân tích so sánh giữa Chỉ thị 2004/35/EC của EU và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 của Việt Nam

Nghiên cứu lý luận -  1 tháng trước

(PLPT) - Bài viết nghiên cứu và so sánh cơ chế miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường giữa Chỉ thị 2004/35/EC (ELD) của EU và Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam năm 2020 nhằm chỉ ra những hạn chế trong luật pháp Việt Nam và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường.

Phòng, chống gian lận trong kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản: Kinh nghiệm Hàn Quốc và gợi mở cho Việt Nam

Phòng, chống gian lận trong kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản: Kinh nghiệm Hàn Quốc và gợi mở cho Việt Nam

Nghiên cứu lý luận -  1 tháng trước

(PLPT) - Gian lận trong kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản là một vấn đề dai dẳng và phức tạp tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.