Thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin tiền hợp đồng theo mẫu của bên đề nghị giao kết đối với người tiêu dùng
Tóm tắt: Bài viết nêu những khái niệm; các đặc trưng cơ bản của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đồng thời phân tích và đánh giá thực trạng của pháp luật tố tụng hình sự trong việc bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Từ đó, đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự trong việc bảo đảm quyền con người của bị cáo ở trong giai đoạn này.
Từ khóa: Bảo đảm; bị cáo; quyền con người; xét xử sơ thẩm; vụ án hình sự
Abstract: In the scope of the article, the author has stated the concepts and the basic features of the first-instance trial of criminal cases. The author has analyzed the status of criminal procedure code in guaranteeing the human rights of the accused in the first-instance trial of criminal cases. From there, proposed solutions to improve the criminal procedure code in guaranteeing the human rights of the accused in the first-instance trial of criminal cases.
Keywords: Guaranteed; the accused; human rights; first-instance trial; criminal case
Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng ta về tôn trọng và bảo vệ, bảo đảm quyền con người. Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã cụ thể hóa nhiều quy định của Hiến pháp về quyền con người nói chung. Đối với bị cáo, BLTTHS đã bổ sung và hoàn thiện nhiều quyền nhằm đảm bảo quyền lợi của họ trong tố tụng hình sự nói chung và trong xét xử vụ án hình sự nói riêng. Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 cũng xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng quyền con người của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự.
“Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự mà ở giai đoạn này Tòa án cấp thứ nhất thực hiện việc xem xét, đánh giá chứng cứ, các tình tiết của vụ án một cách công khai, khách quan, toàn diện trên cơ sở áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan để ra bản án hoặc các quyết định tố tụng cần thiết để giải quyết vụ án”[1].
Từ các quan niệm về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có thể khái quát một số đặc trưng cơ bản của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sau:
Thứ nhất, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự, cụ thể là một giai đoạn cuối của quá trình giải quyết một vụ án hình sự từ khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử.
Thứ hai, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là lần xét xử đầu tiên của một vụ án theo thẩm quyền của từng cấp Tòa án.
Thứ ba, cơ sở của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Theo nguyên tắc tố tụng thì cơ sở của việc xét xử các vụ án hình sự đó là sự cáo buộc của cơ quan Viện kiểm sát hay nói cách khác chỉ khi nào có bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát thì Tòa án mới tiến hành xét xử.
Thứ tư, thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm, trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Đây cũng là đặc trưng cơ bản để phân biệt với các cấp xét xử khác.
Thứ năm, kết quả của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là bản án, quyết định của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm. Tuy nhiên những bản án này chưa có hiệu lực ngay và có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Bản án của cấp sơ thẩm khác với các bản án ở cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trong thời gian qua Đảng, Nhà nước và đặc biệt là ngành Tòa án đã có những bước đổi mới và hoàn thiện công tác xét xử nhằm bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm cũng như làm oan người vô tội. Hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự đã xem xét khách quan, toàn diện toàn bộ các chứng cứ, lập luận qua phần tranh luận công khai giữa các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa hình sự. Do đó, phần lớn các bản án hình sự đã tuyên đều bảo đảm chất lượng, bảo đảm tính khách quan, công bằng, bảo đảm các quyền con người của bị cáo. Điều này thể hiện qua việc “Hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự đã tôn trọng ý kiến của bên buộc tội và bên gỡ tội, tôn trọng quyền con người của bị cáo, thực hiện đúng các quy định của pháp luật, đặc biệt đảm bảo thực hiện triệt để nguyên tắc tranh tụng và đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử đa phần đều có thái độ nghiêm túc, cầu thị, sẵn sàng tiếp thu các quan điểm, luận cứ và luận chứng của người tranh luận đối lập khi thấy có lý, hợp pháp. Đội ngũ Luật sư đã phát huy tích cực vai trò của mình khi đưa ra được các chứng cứ nhiều tình tiết mới của vụ án góp phần gỡ tội cho bị cáo và được Hội đồng xét xử chấp thuận”[2]. Những ưu điểm trên được thể hiện thông qua “tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm giảm dần qua các năm (năm 2016 là 1,3%; năm 2017 là 1,2%; năm 2018 là 1,14%; năm 2019 là 1,09%. Việc xét xử các vụ án hình sự đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật” [3].
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trên đây thì việc bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự vẫn còn tồn tại những bất cập:
- Về Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
Tâm lý “trọng chứng hơn trọng cung” vẫn còn tồn tại ở một số Thẩm phán, Hội thẩm nên chủ tọa phiên tòa chưa thực sự chú ý đến những tình tiết, chứng cứ mới của vụ án được thể hiện qua phần tranh luận. Một số Thẩm phán và Hội thẩm chưa chú ý, ghi chép lời tranh luận giữa các bên, thậm chí có đặt những câu hỏi xen ngang ý kiến của Luật sư đang phát biểu, hoặc chưa chú ý đến một số tình tiết quan trọng, những chứng cứ mới, chưa tạo điều kiện cho Luật sư và người bào chữa của họ tranh luận lại những ý kiến, quan điểm về những nội dung, tình tiết chưa thực sự sáng tỏ.
-Về Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa
Tại một số phiên tòa, Kiểm sát viên chưa tích cực trong trình bày, đối đáp, trả lời ý kiến của người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Trong không ít phiên tòa, Kiểm sát viên thường chỉ quan tâm đến việc buộc tội và dựa nhiều vào hồ sơ để bảo vệ cho cáo trạng truy tố của mình mà chưa chú trọng đến các chứng cứ gỡ tội hoặc tranh luận tới cùng để làm rõ các chứng cứ chứng minh sự vô tội của bị cáo. Việc Kiểm sát viên ít thực hiện tranh luận tới cùng cũng làm hạn chế chức năng bào chữa của người bào chữa bởi lẽ hoạt động bào chữa xuất phát từ các căn cứ và lập luận của bên buộc tội.
- Về người tham gia bào chữa tại phiên tòa
Tại phiên tòa, một số trường hợp Luật sư chưa tập trung làm rõ chứng cứ có lợi cho thân chủ, thiếu trách nhiệm trong việc đưa ra chứng cứ để khẳng định thân chủ vô tội hoặc chỉ thực hiện bào chữa bằng việc chỉ ra các thành tích và nhân thân liên quan của thân chủ nhằm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ, đặc biệt là các vụ án mà Luật sư được chỉ định tham gia bào chữa. Bên cạnh đó, “số lượng và chất lượng đội ngũ Luật sư hiện nay còn thiếu và chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội nhất là ở các vùng xa các thành phố lớn”[4]. Điều này cho thấy vẫn còn một số lượng lớn bị cáo chưa được thực hiện quyền bào chữa để bảo đảm được xét xử công bằng. “Hiện nay mặc dù số lượng Luật sư tăng lên đáng kể nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu với dân số của Việt Nam gần 100 triệu người và số lượng Luật sư khoảng 16.500 Luật sư, cho thấy số lượng Luật sư của Việt Nam còn quá ít để có thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của xã hội”[5]. Theo số liệu thống kê, “năm 2018 của 59/63 Đoàn luật sư, đội ngũ luật sư Việt Nam tham gia 12.450 vụ án hình sự, trong đó có 7.395 vụ án hình sự chỉ định và 5.055 vụ án hình sự được khách hàng mời. Trong khi đó, năm 2018 Tòa án đã xét xử 61.669 vụ/66.994 vụ Tòa án đã thụ lý (xét xử 103.574 bị cáo/114.649 bị cáo Tòa án đã thụ lý). Điều này cho thấy vẫn còn một số lượng lớn bị cáo chưa được thực hiện quyền bào chữa để bảo đảm được xét xử công bằng” [6]. Một tổng kết gần đây cho thấy, “trong năm 2022 các Tòa án đã thụ lý khoảng trên 500.000 vụ việc trong khi đó luật sư và người bào chữa mới tham gia được chưa đến 20%”[7]. Do vậy, ít nhiều sẽ hạn chế đến quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa do không được thực hiện hoặc thực hiện không kịp thời, không đầy đủ với nguyên nhân thiếu Luật sư tham gia ngay từ đầu vụ án lẫn trong quá trình xét xử.
- Về quy định chứng cứ và thu thập chứng cứ của người bào chữa. Chứng cứ và việc thu thập chứng cứ trong các giai đoạn tiền xét xử của người bào chữa là cơ sở rất quan trọng cho để tiến hành việc bào chữa và tranh luận trong quá trình xét xử. Vì vậy, để đảm bảo cho quá trình bào chữa và tranh luận được thực hiện tốt thì các quá trình thu thập chứng cứ của người bào chữa phải được pháp luật bảo đảm thực hiện một cách triệt để và hiệu quả. Thực tế hiện nay cho thấy pháp luật có sự nhìn nhận “bất cân xứng” về hoạt động thu thập chứng cứ giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, điển hình như quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 88 BLTTHS năm 2015. Cũng tại khoản 4 của điều luật này quy định việc tiếp nhận, kiểm tra và đánh giá tài liệu, chứng cứ lại do cơ quan tiến hành tố tụng quyết định, trong khi đó quy định tại Điều 34 BLTTHS năm 2015 thì cơ quan tiến hành tố tụng là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Như vậy có thể thấy, Viện kiểm sát vừa là bên tham gia tố tụng có địa vị bình đẳng với bên bào chữa nhưng lại vừa là bên có quyền đánh giá, kiểm tra chứng cứ của bên bào chữa.
Mặt khác, tại Điều 74 BLTTHS năm 2015 thể hiện “trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra”. Chính trong những trường hợp như vậy đã hạn chế sự tiếp cận của người bào chữa trong việc có được những chứng cứ để phục vụ cho việc bào chữa và tranh luận tại tòa.
- Về quy định kiểm tra và đánh giá chứng cứ tại tòa. Điều 108 BLTTHS năm 2015 quy định: “1... Việc xác định những chứng cứ thu thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự. 2. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập được về vụ án”. Tác giả nhận thấy việc quy định về kiểm tra, đánh giá chứng cứ như vậy là rất chung chung, chưa có tiêu chuẩn cụ thể như định nghĩa thế nào là bảo đảm “đủ” chứng cứ để giải quyết vụ án, độ tin cậy của các chứng cứ buộc tội và gỡ tội như thế nào. Vì vậy, “các chủ thể tham gia đánh giá chứng cứ còn lúng túng trong việc đánh giá chứng cứ đối với những vụ án phức tạp, thiếu chứng cứ theo kiểu tỷ lệ buộc tội – gỡ tội là “50-50” hoặc chứng cứ “yếu” dễ dẫn đến oan sai” [8].
- Về quy định trách nhiệm thu thập chứng cứ của Tòa án. Theo quy định của BLTTHS hiện hành thì trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng[9] mà cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát; Tòa án[10]. Như vậy, Tòa án ngoài chứng năng xét xử còn có nghĩa vụ chứng minh tội phạm. Quy định như vậy là mâu thuẫn với chức năng, nhiệm vụ của Tòa án. Do đó, theo tác giả cần phải làm rõ nội hàm và phạm vi việc “chứng minh” của Tòa án. Chính vì tư duy cho rằng Tòa án phải có nghĩa vụ chứng minh tội phạm nên xuyên suốt trong các điều khoản của BLTTHS năm 2015 đều quy định Tòa án phải có nghĩa vụ thu thập chứng cứ (có thể là chứng cứ buộc tội) như quy định tại khoản 6 Điều 252 BLTTHS năm 2015 như sau: “Trường hợp Toà án đã yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ nhưng Viện kiểm sát không bổ sung được thì Toà án có thể tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án”. Như vậy, trường hợp Viện kiểm sát không thể bổ sung được chứng cứ do Toà án yêu cầu để khẳng định sự buộc tội của mình thì nhà làm luật lại quy định Toà án làm thay Viện kiểm sát. Hay tại khoản 1 Điều 251 BLTTHS năm 2015 quy định: “Việc xét xử có thể tạm ngừng khi cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa và có thể thực hiện được trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày tạm ngừng phiên tòa”. Theo tác giả quy định này chưa làm rõ được chủ thể của việc yêu cầu tạm ngừng phiên tòa. Quy định này có thể hiểu là do Tòa án yêu cầu tạm ngừng phiên tòa để “… xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật…”. “Nếu hiểu như vậy thì chức năng của Tòa án bị vi phạm, nghĩa là Tòa án vừa mang chức năng xét xử vừa mang chức năng thu thập chứng cứ (buộc tội) của Viện kiểm sát. Cách hiểu này không phù hợp với việc xác định các hoạt động trong phạm vi thực hiện chức năng xét xử của toà án, không bảo đảm nội dung bình đẳng trong nguyên tắc tranh tụng”[11].
- Về quyền được kiểm tra, đánh giá, đề nghị thu thập chứng cứ của bị cáo. So với quyền của người bào chữa thì quyền của bị cáo được quy định trong BLTTHS còn hạn chế. Đây có thể coi là một nghịch lý khi chính bản thân bị cáo là người hiểu rõ nhất bản chất của vụ án và cũng là người trực tiếp liên quan đến sự cáo buộc lại bị hạn chế quyền so với đại diện người bào chữa cho họ. Bản thân pháp luật tố tụng hiện hành cho phép bị cáo có thể tự thực hiện quyền bào chữa nhưng lại giới hạn quyền của họ khi thực hiện điều này. Chính quy định này của luật đã làm hạn chế quyền tự bào chữa của bị cáo, đồng thời vô hình trung gây hiểu lầm khi cho rằng bị cáo không được ưu tiên tự họ thực hiện bào chữa bằng việc thuê người khác bào chữa. Hiện nay, luật tố tụng hình sự chưa có quy định cho phép bị cáo được “Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan; đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ hoặc xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình” giống như quyền của người bào chữa cho họ (tại điểm i, điểm k, điểm đ khoản 1 Điều 73 về quyền của người bào chữa).
Mặt khác, tại khoản 1 và 2 Điều 422 BLTTHS năm 2015 quy định: “Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Người đại diện của người dưới 18 tuổi bị buộc tội có quyền lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người dưới 18 tuổi bị buộc tội”. Chính từ “hoặc” dễ làm cho người đọc hiểu rằng họ chỉ có 1 trong 2 lựa chọn đó là tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, chứ không được thực hiện cả hai. Quy định này đối với người dưới 18 tuổi thì nhận thức của họ rất dễ hiểu là một khi đã nhờ người khác bào chữa rồi thì họ không được tự bào chữa cho mình nữa trong trường hợp họ muốn bào chữa bổ sung hoặc trình bày thêm quan điểm của mình và ngược lại.
- Về thủ tụng xét hỏi tại phiên tòa. Quy định hiện nay trong việc xét hỏi tại phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa tiến hành hỏi trước (khoản 2 Điều 307 BLTTHS năm 2015). Quy định như vậy vừa không đúng với bản chất xét xử của Tòa án vừa tạo ra cách hiểu rằng Tòa án là chủ thể chính trong quá trình xét hỏi. Theo tác giả, Tòa án phải là chủ thể trung lập đứng ở giữa có chức năng thẩm định, đánh giá các ý kiến của các bên tham gia tố tụng. Còn việc xét hỏi để làm rõ những chứng cứ và các tình tiết liên quan nên để cho các bên tham gia tố tụng thực hiện và tranh luận. Chính nguyên tắc quy định tại Điều 307 cho phép Tòa án tiến hành hỏi trước mà trong toàn bộ quá trình xét hỏi tại phiên tòa từ hỏi bị cáo (Điều 309), hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ (Điều 310) và hỏi người làm chứng (Điều 311) thì BLTTHS năm 2015 vẫn đặt Hội đồng xét xử là chủ thể tiến hành hỏi đầu tiên. Những quy định như vậy đã làm hạn chế yếu tố tranh tụng, sai chức năng của Tòa án làm cho Hội đồng xét xử nhiều khi tập trung vào trách nhiệm xét hỏi mà quên chức năng phân xử giữa hai bên “buộc tội” và “gỡ tội” tại phiên tòa hoặc làm cho Hội đồng xét xử trong quá trình xét hỏi tập trung quá vào việc xét hỏi những chứng cứ mang tính buộc tội hoặc gỡ tội dẫn đến việc nhận định vụ án không được khách quan, công bằng.
- Về hình thức phiên tòa xét xử. Ngoài những đổi mới và cải tiến mang tính ưu việt từ hình thức phiên tòa xét xử theo thông tư 01/2017/TT-TANDTC của TAND Tối cao quy định ngày 01-01-2018 thì thực tế vẫn còn tồn tại một số trường hợp có nguy cơ ảnh hưởng đến hoạt động bào chữa của bị cáo đó là hình thức xét xử lưu động của Tòa án đối với vụ án hình sự. Thực tế việc xét xử lưu động công khai tới toàn dân ở địa phương nơi bị cáo sinh sống gây ra áp lực rất lớn đối với họ trong quá trình họ thực hiện việc bào chữa do phải đối mặt với sự mặc cảm từ những người thân quen[12],[13]. Bên cạnh đó, mục đích của xét xử lưu động là nhằm răn đe đối với cộng đồng, mang tính chất tuyên truyền, phổ biến giáo dục đến nhân dân. Để mang tính răn đe cộng đồng thì Tòa án sẽ phải tuyên một hình phạt “thích đáng” đối với bị cáo, do đó có thể xem như trước khi quyết định đưa vụ án ra xét xử lưu động Tòa án đã ngầm khẳng định tội trạng của bị cáo. Điều này dẫn đến việc bị cáo hoặc người bào chữa của họ sẽ khó khăn trong việc chứng minh sự vô tội.
- Đổi mới hoạt động đào tạo nghề nghiệp cho Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư thông qua việc xây dựng chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng bồi dưỡng nghiệp vụ, thường xuyên thực hiện các chương trình bồi dưỡng, tập huấn theo chuyên đề thực tế đồng thời tăng cường công tác giám sát và kỷ luật nghiêm những trường hợp vi phạm.
- Đổi mới cơ chế bổ nhiệm, sử dụng Thẩm phán và mở rộng nguồn Thẩm phán. Cần có những nghiên cứu để áp dụng việc kéo dài thời gian bổ nhiệm Thẩm phán, có thể tăng nhiệm kỳ một lần bổ nhiệm lên 10 năm thậm chí lâu hơn hoặc bổ nhiệm suốt đời như nhiệm kỳ Thẩm phán trọn đời của một số nước nhằm đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán. Ngoài ra, cần mở rộng nguồn tuyển chọn Thẩm phán từ các Luật sư giỏi, có uy tín bên ngoài thay cho nguồn Thẩm phán là thư ký Tòa án như hiện nay. Điều này không chỉ cung cấp lực lượng chuyên môn cao cho Tòa án mà còn bởi giới Luật sư thường có tư duy pháp quyền, tư duy gỡ tội, tư duy tranh biện và bảo vệ quyền con người - phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp hiện nay. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện cơ sở pháp luật bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán. Đồng thời cần có những bảo đảm pháp lý cũng như những biện pháp bảo vệ, quan tâm đến Thẩm phán. Thật khó cho Tòa án nếu vấn đề tài chính của Tòa án, thu nhập Thẩm phán... lại được quyết định bởi Chính phủ hay các cơ quan thực thi quyền hành pháp khác [14].
- Hoàn thiện Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Cán bộ công chức, Luật Luật sư và các quy tắc đạo đức nghề nghiệp để Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư làm căn cứ cho sự hoạt động của mình đồng thời có cơ chế và chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động nghề nghiệp.
- Về quy định chứng cứ và thu thập chứng cứ của người bào chữa. Để bảo đảm sự bình đẳng trong hoạt động tranh tụng trước tòa giữa bên buộc tội và bên bào chữa thì bên bào chữa cần phải được pháp luật tạo điều kiện bình đẳng trong hoạt động thu thập chứng cứ. Như đã phân tích giữa khoản 1 và khoản 2 của Điều 88 BLTTHS năm 2015 có sự “bất cân xứng” về hoạt động thu thập chứng cứ của bên bào chữa. Theo tác giả cần phải trao thẩm quyền “yêu cầu” cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ trong trường hợp người bào chữa không được các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa tại khoản 2 Điều 88 BLTTHS năm 2015. Do đó tác giả cho rằng nên sửa đổi khoản k Điều 73 BLTTHS năm 2015 cho phép người bào chữa được quyền “yêu cầu” chứ không phải “đề nghị” cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ như hiện nay. Đồng thời, bổ sung thêm nghĩa vụ của cơ quan và người có thẩm quyền mà cụ thể là Thẩm phán tại khoản 2 Điều 45 BLTTHS năm 2015 trong việc đáp ứng yêu cầu của người bào chữa. Mặt khác, cần có những nghiên cứu cho phép người bào chữa được tiếp cận hồ sơ vụ án sớm hơn ngay ở giai đoạn điều tra tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia được quy định tại Điều 74 BLTTHS năm 2015nếu có căn cứ cho rằng việc tiếp cận này không ảnh hưởng đến hoạt động điều tra và không có nguy cơ tác động vào các bằng chứng cần được thu thập hoặc bản chất vụ việc. Còn nếu lo sợ cho rằng người bào chữa làm lộ bí mật điều tra thì đã có chế tài xử lý vi phạm theo quy định tại Điều 177 BLTTHS năm 2015.
- Về quy định kiểm tra và đánh giá chứng cứ tại tòa. Như đã phân tích ở phần trực trạng, theo tác giả Điều 108 BLTTHS năm 2015 nên sửa lại như sau:
Điều 108. Kiểm tra, đánh giá chứng cứ
1. Mỗi chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Tất cả những chứng cứ liên quan đến vụ án phải được thu thập để giải quyết vụ án hình sự.
2. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập được về vụ án. Các chứng cứ được sử dụng để ra bản án, quyết định của Tòa án phải được kiểm tra công khai, trực tiếp tại phiên tòa và không còn bất cứ nghi ngờ gì.
- Về quy định trách nhiệm thu thập chứng cứ của Tòa án. Để trả Tòa án về đúng chức năng của mình và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng thì theo tác giả nên bỏ quy định trách nhiệm thu thập chứng cứ của Tòa án tại khoản 6 Điều 252 BLTTHS năm 2015. Đồng thời nên chia các chủ thể tham gia tố tụng theo từng chức năng của họ như chủ thể buộc tội, chủ thể bào chữa và chủ thể xét xử thay cho Điều 34 BLTTHS năm 2015.
- Về mở rộng quyền bào chữa cho bị cáo. Cần bổ sung thêm quyền cho bị cáo tại Điều 61 BLTTHS năm 2015 để mở rộng quyền bào chữa cho họ. Cụ thể bổ sung thêm quyền “... Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan; Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ.”. Mặt khác, sửa đổi khoản 1 và 2 Điều 422 BLTTHS năm 2015 về quyền bào chữa của người bị buộc tội nói chung và bị cáo nói riêng là người dưới 18 tuổi để khẳng định rõ hơn họ có cả đồng thời quyền bào chữa và nhờ người bào chữa như sau: “... Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa...”.
- Về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa. Chính quy định Tòa án hỏi trước trong phần thủ tục xét hỏi như hiện nay là bất hợp lý. Do vậy, theo tác giả cần sửa đổi quy định này tại khoản 2 Điều 307 BLTTHS năm 2015 với nội dung như sau:
Điều 307. Trình tự xét hỏi
1. Giữ nguyên
2. Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa điều hành việc xét hỏi để Kiểm sát viên hoặc người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hỏi trước.
Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc đề nghị được tự hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ.
Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định, định giá tài sản.
Hội đồng xét xử chỉ hỏi thêm và hỏi sau cùng nếu cần làm rõ thêm thông tin.
3. Giữ nguyên
- Về hình thức phiên tòa xét xử. Hiện nay chưa có một quy định nào trong luật quy định về việc xét xử lưu động. Việc quyết định đưa ra xét xử lưu động hoàn toàn phụ thuộc vào sự quyết định của Tòa án. Do đó, nên có quy định rõ trong BLTTHS rằng trường hợp nào, tiêu chuẩn nào thì được xét xử lưu động, trường hợp nào không. Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam theo hướng mở rộng hơn nữa nguyên tắc tranh tụng trong cả quá trình tố tụng.
Việc pháp định và hoàn thiện quyền con người của bị cáo trong xét xử là một bước tiến trong tiến trình cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới. Vấn đề đặt ra là cần làm rõ và hoàn thiện các quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng trong việc đảm bảo các quyền này trên cơ sở tiếp tục nghiên cứu lý luận và thực tiễn đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới để hoàn thiện các quy định của BLTTHS nhằm nâng cao chất lượng xét xử hướng đến công bằng, công lý và bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tố tụng với mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[15].
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, ngày 27 tháng 11 năm 2015, chương 2 Điều 15.
2. Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, ngày 27 tháng 11 năm 2015, chương 3 Điều 34.
3. Đặng Văn Cường, Hà Thị Khuyên, Phiên tòa xét xử lưu động tại Việt Nam: Thực tiễn và vấn đề đặt ra, Luật sư Việt Nam, (12h39 15/07/2022),
https://lsvn.vn/phien-toa-xet-xu-luu-dong-tai-viet-nam-thuc-tien-va-van-de-dat-ra1657888746.html.
4. Nguyễn Trần Như Khuê, Bảo đảm xét xử công bằng cho người bị buộc tội thông qua quy định quyền bào chữa của người bị buộc tội, Khoa học Kiểm sát, số chuyên đề 03-2020, 43, 46 (2020).
5. Nguyễn Hải Ninh, Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tranh tụng và giải pháp hoàn thiện, tạp chí luật học số 2/2020, 49, 52 (2020).
6. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
7. Lê Nguyên Thanh, Hoàn thiện các quy định về chứng minh trong TTHS đảm bảo quyền bào chữa và tranh tụng, Khoa học pháp lý Việt Nam số 08(93)/2015, 16, 20 (2015).
8. Mai Văn Thắng, Đảm bảo sự độc lập của thẩm phán ở Liên bang Nga và một số gợi ý cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (01/03/2014),
http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=207865.
9. Đỗ Ngọc Thịnh, Hoàn thiện thể chế Luật sư và hành nghề Luật sư đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong bối cảnh mới, Hội thảo khoa học “Đẩy mạnh cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 27/NQ-TW”, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 115, 117 (2023).
10. Trần Xuân Tiền, Thực trạng và giải pháp để phát triển đội ngũ Luật sư hội nhập quốc tế, Luật sư Việt Nam điện tử, (00h09 06/10/2022), https://lsvn.vn/thuc-trang-va-giai-phap-de-phat-trien-doi-ngu-luat-su-hoi-nhap-quoc-te1665014941.html.
11. Tòa án Nhân dân Tối cao, Báo cáo tóm tắt công tác tòa án từ đầu nhiệm kỳ đến nay và năm 2018 – nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới, 07 (24/01/2019)
12. Trần Xuân Tình, Số lượng luật sư Việt Nam phân bổ chưa đều giữa các vùng miền, TTXVN/ Vietnampls, (17h32 10/10/2014),
https://www.vietnamplus.vn/so-luong-luat-su-viet-nam-phan-bo-chua-deu-giua-cac-vung-mien/285594.vnp.
13. NGUYỄN VĂN TUÂN, PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI, NXB. CÔNG AN NHÂN DÂN, HÀ NỘI, 8 (2020).
14. Võ Quốc Tuấn, Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Nghiên cứu lập pháp, số 04- T4/2015, 38, 41 (2015).
15. Thái Vũ, Dừng xét xử lưu động, Tòa án nhân dân điện tử, (02h53 01/03/2018), https://tapchitoaan.vn/dung-xet-xu-luu-dong.
* ThS Nguyễn Anh Hoàng, NCS. Khoa pháp luật Hình Sự, Trường Đại học Luật Hà Nội. Duyệt đăng 15/6/2023. Email: anhhoang.nguyen933@gmail.com
[1] NGUYỄN VĂN TUÂN, PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỚI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI, NXB. CÔNG AN NHÂN DÂN, HÀ NỘI, 8 (2020).
[2] Võ Quốc Tuấn, Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Nghiên cứu lập pháp, số 04- T4/2015, 38, 41 (2015)
[3] Tòa án Nhân dân Tối cao, Báo cáo tóm tắt công tác tòa án từ đầu nhiệm kỳ đến nay và năm 2018 – nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới, 07 (24/01/2019)
[4] Trần Xuân Tình, Số lượng luật sư Việt Nam phân bổ chưa đều giữa các vùng miền, TTXVN/ Vietnampls, (17h32 10/10/2014), https://www.vietnamplus.vn/so-luong-luat-su-viet-nam-phan-bo-chua-deu-giua-cac-vung-mien/285594.vnp
[5] Trần Xuân Tiền, Thực trạng và giải pháp để phát triển đội ngũ Luật sư hội nhập quốc tế, Luật sư Việt Nam điện tử, (00h09 06/10/2022), https://lsvn.vn/thuc-trang-va-giai-phap-de-phat-trien-doi-ngu-luat-su-hoi-nhap-quoc-te1665014941.html
[6] Nguyễn Trần Như Khuê, Bảo đảm xét xử công bằng cho người bị buộc tội thông qua quy định quyền bào chữa của người bị buộc tội, Khoa học Kiểm sát, số chuyên đề 03-2020, 43, 46 (2020)
[7] Đỗ Ngọc Thịnh, Hoàn thiện thể chế Luật sư và hành nghề Luật sư đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong bối cảnh mới, Hội thảo khoa học “Đẩy mạnh cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 27/NQ-TW”, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 115, 117 (2023).
[8] Lê Nguyên Thanh, Hoàn thiện các quy định về chứng minh trong TTHS đảm bảo quyền bào chữa và tranh tụng, Khoa học pháp lý Việt Nam số 08(93)/2015, 16, 20 (2015).
[9] Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, ngày 27 tháng 11 năm 2015, chương 2 Điều 15.
[10] Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, ngày 27 tháng 11 năm 2015, chương 3 Điều 34.
[11] Nguyễn Hải Ninh, Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về tranh tụng và giải pháp hoàn thiện, Tạp chí Luật học số 2/2020, 49, 52 (2020)
[12] Thái Vũ, Dừng xét xử lưu động, Tòa án nhân dân điện tử, (02h53 01/03/2018), https://tapchitoaan.vn/dung-xet-xu-luu-dong.
[13] Đặng Văn Cường, Hà Thị Khuyên, Phiên tòa xét xử lưu động tại Việt Nam: Thực tiễn và vấn đề đặt ra, Luật sư Việt Nam, (12h39 15/07/2022), https://lsvn.vn/phien-toa-xet-xu-luu-dong-tai-viet-nam-thuc-tien-va-van-de-dat-ra1657888746.html.
[14] Mai Văn Thắng, Đảm bảo sự độc lập của thẩm phán ở Liên bang Nga và một số gợi ý cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (01/03/2014),
http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=207865
[15] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020