Tóm tắt: Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI) và sự
xâm nhập của nó vào lĩnh vực văn hoá đang dấy lên những tranh luận có ý nghĩa
quan trọng trên toàn cầu về mục đích, phạm vi của luật bản quyền trong việc bảo
đảm và duy trì sự cân bằng lợi ích giữa chủ thể sáng tạo, đầu tư với lợi ích của
xã hội để bảo đảm mục tiêu khuyến khích sáng tạo, đổi mới. Bài
viết nghiên cứu thực tiễn pháp lý quốc tế trong giải quyết vấn đề bảo hộ quyền
tác giả đối với sản phẩm của trí tuệ nhân tạo, xem xét trên khía cạnh cân bằng
lợi ích, từ đó đề xuất một số khuyến nghị để Việt Nam có thể điều chỉnh khuôn
khổ pháp lý của
mình
trước những thách thức mới nổi này.
Từ
khoá: Quyền tác giả, trí tuệ nhân tạo (AI), tác phẩm, cân bằng lợi ích
Abstract: The development of creative AI and its
penetration into the cultural field is raising important global debates about
the purpose and scope of copyright law in ensuring and maintaining a balance of
interests between creators and investors and the interests of society to ensure
the goal of encouraging creativity and innovation. This article examines
international legal practices in addressing the issue of copyright protection
for products generated by artificial intelligence, from the perspective of
balancing interests. Based on this analysis, it offers several recommendations
for Vietnam to adapt its legal framework in response to emerging challenges.
Keywords:
Copyright, AI, works, balance of interests
1. Đặt vấn đề
Nguyên tắc cốt lõi của bảo hộ quyền tác giả là khuyến khích việc tạo ra các tác phẩm mới bằng cách trao cho chủ thể sáng tạo độc quyền trong việc kiểm soát hoạt động khai thác, khả năng cấp phép hay chuyển giao quyền tác giả để họ có thể thu được những lợi ích kinh tế. Độc quyền này là sự đền bù cho những nỗ lực sáng tạo, đầu tư trong việc tạo ra các tác phẩm văn hoá, nghệ thuật, nhằm tạo động lực khuyến khích và tiếp tục nuôi dưỡng hoạt động sáng tạo. Mặt khác, luật bản quyền cũng phải bảo đảm độc quyền này không hạn chế quá mức đến việc tiếp cận tri thức, văn hóa, cản trở sự sáng tạo, hay tiếp cận và chia sẻ thông tin của công chúng. Pháp luật bản quyền kể từ khi ra đời đến nay luôn phải đối mặt với những thách thức về việc cải thiện để duy trì sự cân bằng hợp lý giữa lợi ích của người sáng tạo, đầu tư với lợi ích của công chúng, người sử dụng tác phẩm để bảo đảm mục tiêu khuyến khích sáng tạo, đồng thời bảo đảm xã hội được hưởng lợi từ việc tiếp cận văn hóa, kiến thức và đổi mới. Sự phát triển nhanh chóng của AI sáng tạo (GenAI) và sự xâm nhập của nó vào hoạt động đổi mới sáng tạo, trong đó có lĩnh vực văn hoá đang dấy lên những tranh luận có ý nghĩa quan trọng về mục đích, phạm vi của luật bản quyền trong việc bảo đảm và duy trì sự cân bằng lợi ích. Pháp luật bản quyền truyền thống được thiết lập để khuyến khích hoạt động sáng tạo của con người liệu có còn phù hợp khi AI đóng vai trò là những chủ thể sáng tạo ra các tác phẩm? Nếu bảo hộ quyền tác giả cho những sản phẩm đầu ra của AI thì độc quyền sẽ được trao cho ai để bảo đảm mục tiêu khuyến khích sáng tạo, đổi mới? Việt Nam có thể điều chỉnh khuôn khổ pháp lý của mình như thế nào trước những thách thức mới nổi này?
2. Bảo hộ quyền tác giả đối với những sản phẩm do AI tạo ra – quan điểm tiếp cận từ khía cạnh cân bằng lợi ích
Sự phát triển nhanh chóng về khả năng sáng tạo của AI thế hệ mới cùng với sự gia tăng các sản phẩm do AI tạo ra bên cạnh những sản phẩm sáng tạo truyền thống của con người đang đặt ra vấn đề có nên bảo hộ bản quyền đối với sản phẩm đầu ra của AI hay không. Quan điểm phản đối bảo hộ quyền tác giả cho những sáng tạo của AI dựa trên một số luận điểm chính sau đây: Thứ nhất, bảo hộ các tác phẩm do AI tạo ra sẽ không thúc đẩy “tiến bộ sáng tạo” mà thậm chí có thể làm vô hiệu hóa hoạt động sáng tạo bằng một loạt các sản phẩm của thuật toán thuộc sở hữu tư nhân [2]. Với lập luận AI tạo ra sản phẩm một cách tự động, không cần có sự khuyến khích hay bảo hộ các quyền lợi vật chất hay tinh thần cho nó, do đó, mục tiêu khuyến khích sáng tạo của pháp luật bản quyền trở nên vô nghĩa. Sự phát triển năng lực sáng tạo của AI có thể khiến cho các nghệ sĩ trở nên lười biếng, ỷ lại vào công nghệ, dẫn đến nguy cơ sản phẩm do AI tạo ra có thể dần thay thế những sáng tạo của con người, khiến cho các nghệ sĩ có thể mất việc làm, ảnh hưởng tới mục tiêu khuyến khích sáng tạo của luật bản quyền [3]. Việc sử dụng AI để tạo ra các tác phẩm được bảo hộ bản quyền làm dấy lên lo ngại sẽ làm mờ đi ranh giới giữa khả năng sáng tạo của con người và máy móc [4], hạ thấp giá trị sáng tạo của con người khi nó bị đặt ngang hàng với máy móc. Thứ hai, việc để các tác phẩm do AI tạo ra thuộc phạm vi công cộng là điều cần thiết để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển văn hoá. Công nghệ AI cho phép khả năng tạo ra và phổ biến hàng triệu tác phẩm trên quy mô lớn với một thời gian ngắn. Việc bảo hộ bản quyền đối với các sản phẩm do AI tạo ra sẽ khiến người dùng phải trả phí và luôn đối mặt với những rủi ro pháp lý nếu không được chủ sở hữu cho phép, đồng thời, nó cũng sẽ làm cạn kiệt phạm vi công cộng. Điều này có thể làm lệch cán cân lợi ích về một nhóm nhỏ trong xã hội là những tổ chức, công ty lớn đang nắm giữ hệ thống AI, gây ra tác động tiêu cực đến hoạt động đổi mới và cạnh tranh [5]. Việc xác định các tác phẩm do AI tạo ra thuộc phạm vi công cộng không có nghĩa là tuyên bố chúng là không có giá trị, mà là để giữ chúng thoát khỏi sự kiểm soát độc quyền có thể làm giàu cho các tác nhân đứng sau AI - những người đầu tư, tạo ra, sở hữu, đào tạo hoặc triển khai AI [6].
Ngược lại, quan điểm ủng hộ bảo hộ quyền tác giả đối với sản phẩm do AI tạo ra dựa trên những lý thuyết nền tảng của bảo hộ quyền để bảo vệ quyền lợi cho người sáng tạo và khuyến khích sáng tạo. “Thuyết quyền tự nhiên” của John Locke với luận điểm người sáng tạo có quyền tự nhiên đối với những “thành quả lao động của họ”, lí giải cho việc chủ thể tạo ra những thành quả trí tuệ có quyền sở hữu, quyền kiểm soát và thu được những lợi ích từ việc khai thác chúng [7]. “Thuyết vị lợi”, tập trung vào khía cạnh kinh tế của quyền tác giả, lí giải việc trao độc quyền như “đổ thêm dầu lợi ích vào ngọn lửa thiên tài”, tiếp thêm nhiên liệu tạo động lực thúc đẩy sáng tạo, đổi mới [8]. Bên ủng hộ lập luận này cho rằng nếu sản phẩm đầu ra của AI không được bảo hộ bản quyền, nó sẽ thuộc về “tài sản công cộng”, có nghĩa là mọi chủ thể trong xã hội sẽ được sử dụng tự do [9]. Những người đầu tư, sáng tạo sẽ không được đền đáp xứng đáng cho những nỗ lực sáng tạo và đầu tư của họ, từ đó sẽ làm giảm nhiệt huyết sáng tạo. Bảo hộ bản quyền cho sản phẩm đầu ra của AI nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho những chủ thể đầu tư nghiên cứu và phát triển AI, cung cấp cho họ những quyền hợp pháp trong việc khai thác, sử dụng và ngăn chặn việc sử dụng trái phép của chủ thể khác, tạo động lực khuyến khích hoạt động đầu tư và phát triển AI.
Thực tế chúng ta đang chứng kiến AI là chủ thể tạo ra các sản phẩm sáng tạo, nhưng rõ ràng AI chỉ là “một cỗ máy sáng tạo” và đứng sau quy trình sáng tạo đó thường có vai trò quan trọng của con người. Mặc dù sự phát triển của AI sáng tạo đang hứa hẹn một kịch bản tương lai về một robot sáng tạo hoàn toàn tự chủ và tự động thì vẫn khó có thể phủ nhận mối liên quan giữa sản phẩm đầu ra của AI và sự can thiệp của con người. Mối liên hệ về sự can thiệp của con người thể hiện ở việc phát triển phần mềm AI, việc thu thập và lựa chọn dữ liệu đào tạo AI, việc xây dựng các thông số kỹ thuật chức năng, giám sát quá trình sáng tạo, chỉnh sửa sản phẩm đầu ra của AI [10]. Cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 với sự xuất hiện của AI đã cung cấp thêm cho con người “công cụ” hữu hiệu để hỗ trợ hoạt động sáng tạo, làm cho các sản phẩm sáng tạo ngày càng phong phú đa dạng hơn, có chất lượng và giá trị thương mại cao hơn, hoạt động sáng tạo có thể tiết kiệm thời gian, công sức hơn. Dưới góc độ này, bảo hộ quyền tác giả cho những sản phẩm sáng tạo được hỗ trợ bởi AI vẫn bảo đảm được mục tiêu của pháp luật bản quyền là khuyến khích sáng tạo. Luật bản quyền truyền thống trong lịch sử đã từng có những áp dụng và cải cách linh hoạt khi công nghệ phát triển. AI là kết quả của sự phát triển công nghệ, và vì vậy nên được coi là trong phạm vi linh hoạt của luật bản quyền về mặt lịch sử. Do đó, điều quan trọng không phải là không thừa nhận bản quyền cho tác phẩm của AI, mà là một chế độ pháp lý phù hợp cho các tác phẩm được tạo ra bởi AI, để khuyến khích sự đầu tư vào AI [11].
3. Điều kiện bảo hộ tác phẩm đối với sản phẩm đầu ra của AI – thực tiễn pháp lý quốc tế
Sự phát triển của AI sáng tạo ngày nay cho thấy AI đã có thể tạo ra gần như toàn bộ các loại tác phẩm văn học, nghệ thuật được đề cập tới trong Điều 2 Công ước Berne, bao gồm các tác phẩm văn chương (tiểu thuyết, thơ, bài báo), bản nhạc, tác phẩm mỹ thuật, phim, ảnh… Việc sử dụng AI trong việc tạo ra tác phẩm đang ngày càng trở thành một xu thế phổ biến và tất yếu trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Từ đó đặt ra câu hỏi quan trọng là sản phẩm đầu ra của AI có đáp ứng được điều kiện về tính sáng tạo để được bảo hộ bản quyền không? Kể từ khi ra đời cho đến nay, mặc dù quan điểm tiếp cận về quyền tác giả và phạm vi tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả qua các thời kỳ và ở từng khu vực pháp lý có sự khác nhau, nhưng pháp luật bản quyền trên thế giới đều thống nhất tiêu chuẩn chung để tác phẩm được bảo hộ là nó phải có “tính sáng tạo” (creativity) hay “tính nguyên gốc”. Tính sáng tạo/nguyên gốc của tác phẩm được bảo hộ bản quyền là sự kết hợp của hai yếu tố: (i) tác phẩm phải là một “sản phẩm sáng tạo” và (ii) phải là sản phẩm “sáng tạo trí óc” hay “sáng tạo tinh thần”, tức là liên quan đến yếu tố con người. Yêu cầu về tính “sáng tạo trí óc” đã loại trừ các sản phẩm được tạo ra mà không có bất kỳ sự can thiệp hay nỗ lực trí tuệ nào của con người ra khỏi phạm vi bảo vệ bản quyền. Tuy nhiên, yêu cầu này không loại trừ những sáng tạo do con người thực hiện với sự trợ giúp của máy móc, với điều kiện là sự đóng góp của con người vào sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn pháp lý về tính sáng tạo/nguyên gốc [12]. Vậy điều gì đã tạo nên tính độc đáo/sáng tạo trong tác phẩm do AI tạo ra? Hầu hết các tác phẩm do máy tính tạo ra phụ thuộc rất nhiều vào thuật toán cơ bản và nguyên liệu đầu vào mà các lập trình viên cung cấp, còn máy tính được coi là công cụ để tạo ra các tác phẩm nghệ thuật. Việc bảo hộ quyền tác giả đối sản phẩm đầu ra của AI sẽ phụ thuộc vào vấn đề xem xét tác phẩm là “kết quả của quá trình sản sinh của máy móc” hay chúng phản ánh “quan niệm tinh thần của chính tác giả” [13].
Thực tiễn pháp lý tại nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy cơ sở để bảo hộ bản quyền cho các sản phẩm do AI tạo ra dựa trên việc xem xét yêu cầu về tính sáng tạo/nguyên gốc của sản phẩm đầu ra của AI và vai trò của con người trong quá trình sáng tạo của AI. Yêu cầu về “tính sáng tạo” của tác phẩm được bảo hộ bản quyền đã có sự thay đổi qua các án lệ tại Úc. Năm 2002, trong vụ Desktop Marketing Systems Pty Ltd v Telstra Corporation Ltd (2002) 119 FCR 491, Toà án Liên bang đã vận dụng “Thuyết đổ mồ hôi trán” để đánh giá những nỗ lực và chi phí cho việc tạo ra các thư mục trong niên giám điện thoại và đưa ra kết luận “tuyển tập” các thư mục trong niên giám điện thoại của Công ti Telstra đáp ứng được yêu cầu về tính sáng tạo nguyên gốc để được bảo hộ quyền tác giả [14]. Tám năm sau, vào năm 2010, Toà án liên bang Úc trong vụ Telstra Corporation & Anor v Phone Directories Company Pty Limited & Ors (2010) FCA 44 đã có một cách tiếp cận khác đối với bản quyền trong các bộ sưu tập. Toà án lập luận rằng để đủ yếu tố “sáng tạo nguyên gốc” cho việc bảo hộ bản quyền, cách thể hiện bộ sưu tập cần có sự sáng tạo hoặc nỗ lực trí tuệ của con người [15]. Tương tự như vậy, án lệ Acohs Pty Ltd v Ucorp Pty Ltd (2012) cũng tuyên bố một tác phẩm được tạo ra với sự can thiệp của máy tính không được bảo vệ bản quyền vì nó không được sáng tạo bởi con người [16]. Phán quyết này cho thấy các chủ sở hữu hệ thống AI sẽ gặp khó khăn hơn trong việc xác lập quyền tác giả đối với các sản phẩm được tạo ra thông qua việc sử dụng chương trình máy tính, đặc biệt khi họ không chỉ ra được dấu ấn sáng tạo của những cá nhân nhất định trong việc tạo ra tác phẩm.
Pháp luật của liên mình Châu Âu (EU) quy định yêu cầu về tính sáng tạo/nguyên gốc “nếu tác giả có thể thể hiện khả năng sáng tạo của mình trong quá trình tạo ra tác phẩm bằng cách đưa ra những lựa chọn sáng tạo một cách tự do” [17]. Trong vụ Football Dataco (Case C-604/10 – Football Dataco), Tòa án Công lý Châu Âu (CJEU) đã thẳng thừng bác bỏ yếu tố “kỹ năng và lao động đáng kể” của nhà sản xuất danh sách lịch thi đấu bóng đá như một yếu tố liên quan đến tính sáng tạo nguyên gốc. Theo Toà án, việc bỏ công sức và kỹ năng của nhà sản xuất lịch thi đấu bóng đá chưa thể hiện được bất kỳ tính sáng tạo nào trong việc lựa chọn, sắp xếp các dữ liệu. Tương tự, trong vụ Funke Medien (Case C-469/17 – Funke Medien) Tòa án coi “nỗ lực trí tuệ đơn thuần và kỹ năng tạo ra các báo cáo (về tình trạng quân sự) không liên quan đến vấn đề về tính sáng tạo” [18]. Điều này có nghĩa nếu một sản phẩm (như bộ sưu tập) chỉ là kết quả của việc thực hiện công việc một cách siêng năng mà không có sự can thiệp tư duy hoặc sáng tạo trí tuệ của tác giả (con người) trong việc lựa chọn, sắp xếp, thể hiện thì không được bảo hộ bản quyền. Mặc dù Toà án Công lý Châu Âu (CJEU) chưa có phán quyết về vấn đề sản phẩm do máy tính tạo ra, nhưng đã có một số án lệ ở cấp quốc gia thừa nhận việc bảo hộ quyền tác giả đối với những sản phẩm do máy tính tạo ra. Ví dụ, Tòa án sơ thẩm Paris (Paris District Court, 5 July 2000, No. 97/24872 trong vụ Matt Cooper v. Ogilvy and Mather) cho rằng “trường hợp sáng tác âm nhạc có sự hỗ trợ của máy tính, nếu có sự can thiệp của con người như việc lựa chọn của tác giả sẽ tạo nên tác phẩm có tính nguyên gốc”. Tương tự như vậy, Tòa phúc thẩm Bordeaux (Bordeaux Court of Appeal, 31 January 2005, No. 03/05512) đã tuyên bố “một tác phẩm được tạo ra bởi hệ thống máy tính có thể được hưởng lợi từ các quy tắc bảo vệ bản quyền, miễn là nó bộc lộ ngay cả ở mức độ tối thiểu tính độc đáo mà người tạo ra nó muốn mang lại” [19].
Điều 17 U.S.C. § 102(a) Đạo luật bản quyền Hoa Kỳ yêu cầu tác phẩm phải đáp ứng một số yêu cầu để được bảo hộ, trong đó đòi hỏi tác phẩm phải “có một lượng tối thiểu của sự sáng tạo” [20]. Một trong những án lệ điển hình thường được viện dẫn liên quan đến vấn đề này là vụ Feist Publications v Rural Telephone Service Company, Inc. 499 U.S. 340 (1991), trong đó phán quyết của Toà án cho rằng danh bạ điện thoại được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái mặc dù được tạo ra độc lập bằng công sức, chi phí của của Feist nhưng không đạt được yêu cầu sáng tạo ở mức tối thiểu để được bảo hộ bản quyền [21]. Trước yêu cầu đăng kí quyền tác giả đối với những tác phẩm do AI tạo ra có xu hướng gia tăng, điển hình từ vụ bà Kashtanova đăng kí quyền tác giả cho tác phẩm truyện tranh có sự tham gia sáng tạo của AI mang tên “Zarya of the Dawn” [22], Văn phòng bản quyền Hoa Kỳ (United States Copyright Office -USCO) đã ban hành “Hướng dẫn đăng kí bản quyền đối với những tác phẩm có chứa tài liệu do AI tạo ra” (Copyright Registration Guidance: Works Containing Material Generated by Artificial Intelligence) [23], trong đó khẳng định chính sách: “Quyền tác giả chỉ dành cho sản phẩm sáng tạo của con người” và USCO chỉ xem xét bảo hộ quyền tác giả đối với những tác phẩm có chứa nội dung do AI tạo ra nếu có đủ yếu tố sáng tạo của con người, tùy thuộc vào cách mà công cụ AI vận hành và cách nó được sử dụng để tạo ra tác phẩm cuối cùng.
Điều 2 (1) Đạo luật bản quyền của Nhật Bản quy định tác phẩm được bảo vệ bản quyền là tác phẩm thể hiện “suy nghĩ và cảm xúc của con người”. Một tác phẩm với đầu vào của con người và nội dung do AI tạo ra, có thể đủ điều kiện để được bảo vệ bản quyền nói chung, dựa trên một số yếu tố nhất định: Số lượng và nội dung của các hướng dẫn và lời nhắc nhập liệu của người dùng AI; Số lần thử tạo, sửa đổi đầu ra để người dùng AI đạt được kết quả mong muốn; Người dùng AI chọn tác phẩm từ nhiều tác phẩm được tạo; Những sửa đổi tiếp theo của con người đối với công việc do AI tạo ra [24].
Có thể thấy pháp luật của Liên minh Châu Âu hay nhiều quốc gia đều đòi hỏi điều kiện để tác phẩm do AI tạo ra được bảo hộ quyền tác giả là phải có dấu ấn sáng tạo của con người ở một mức độ nhất định. So với các quốc gia kể trên, Luật bản quyền của Vương Quốc Anh, Ireland, New Zealand dường như có cách tiếp cận cởi mở hơn khi thiết lập quy định riêng về quyền tác giả đối với “tác phẩm do máy tính tạo ra” (computer-generated works), ngay cả khi không có sự sáng tạo của tác giả là con người [25]. Ngoại lệ bảo hộ bản quyền cho tác phẩm được tạo ra bởi máy tính được trao cho người đã tiến hành những sắp xếp cần thiết cho việc tạo ra tác phẩm đó.
Qua nghiên cứu pháp luật và thực tiễn quốc tế, có thể nhận thấy các khu vực pháp lý và quốc gia hiện nay khá thống nhất trong việc từ chối cấp bản quyền cho những sản phẩm do AI tạo ra mà không có bất kỳ sự can thiệp tư duy sáng tạo của con người. Mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau đối với “tiêu chuẩn về tính sáng tạo”, nhiều quốc gia chấp nhận việc bảo hộ bản quyền đối với những tác phẩm “có sự hỗ trợ của AI” nếu chứng minh được vai trò sáng tạo (hay sự can thiệp sáng tạo) của con người ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tạo ra tác phẩm đó.
4. Chủ thể quyền tác giả đối với tác phẩm do AI tạo ra – thực tiễn pháp lý quốc tế
Nguyên tắc cân bằng lợi ích trong luật bản quyền chủ yếu xem xét khía cạnh lợi ích giữa hai nhóm chủ thể: Người giữ bản quyền (Copyright holders) và người dùng bản quyền (Copyright users). Tiếp cận từ góc độ người giữ bản quyền, việc bảo hộ bản quyền mang lại động cơ kinh tế khuyến khích sáng tạo. Người sáng tạo sẽ có xu hướng tạo ra nhiều tác phẩm hơn khi biết rằng họ sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng cho nỗ lực của mình [26]. Mặc dù không phủ nhận nguyên tắc bản quyền khuyến khích sáng tạo bằng cách tặng thưởng cho người sáng tạo, ở góc độ ngược lại, người dùng bản quyền cho rằng việc mở rộng quyền của chủ sở hữu sẽ thu hẹp phạm vi công cộng - nơi mọi người được tự do sử dụng tài liệu có bản quyền. Người dùng tranh luận rằng phạm vi công cộng là điều cần thiết cho sự sáng tạo vì nó cung cấp cho người sáng tạo một kho tài liệu có giá trị để họ có thể phát triển các tác phẩm mới và việc truy cập vào kho này sẽ khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới. Ngược lại, đối với sản phẩm do AI tạo ra, quyền tác giả sẽ được trao cho ai để bảo đảm sự cân bằng lợi ích?
Pháp luật bản quyền không dành quyền tác giả cho động vật hay máy móc, nên AI cũng không phải là một ngoại lệ để được trao bản quyền. Trong pháp luật bản quyền, thuật ngữ quyền tác giả “Author’s right” và “Copyright” không hoàn toàn đồng nhất về cách tiếp cận. Các quốc gia theo hệ thống Châu Âu lục địa coi tác giả là trung tâm của hệ thống bản quyền nên dồn trọng tâm bảo vệ quyền của người sáng tạo. Các quốc gia theo hệ thống này dùng thuật ngữ “Author’s right” để xác định tác giả có các quyền trực tiếp đối với sản phẩm sáng tạo trí tuệ của họ. Ở các nước này, bản quyền chỉ được đặt ra khi tác phẩm được sáng tạo ra bởi tác giả là thể nhân. Các quốc gia theo hệ thống Anh - Mỹ tiếp cận từ khía cạnh kinh tế của bản quyền, theo đó sản phẩm trí tuệ sẽ thuộc sở hữu tuyệt đối của người tạo ra nó. Thuật ngữ “Copyright” có ý nghĩa chỉ quyền sở hữu quyền tác giả. Quyền này thường dành cho những chủ thể đầu tư để tạo ra tác phẩm như các nhà xuất bản, các công ty sản xuất và khai thác sản phẩm văn hoá.
Xem xét trường hợp tác phẩm được tạo ra bởi AI, pháp luật của các quốc gia theo hệ thống Châu Âu lục địa sẽ đòi hỏi xác định rõ chủ thể sáng tạo là con người để tác phẩm được bảo hộ. Còn các quốc gia theo hệ thống Anh - Mỹ có thể trao quyền tác giả cho thể nhân hoặc pháp nhân – là người chủ thuê tác giả sáng tạo. Mặc dù chủ thể sáng tạo thường ở vị thế khác so với chủ sở hữu bản quyền vì các độc quyền kiểm soát, khai thác lợi ích kinh tế và thực thi quyền thuộc về người nắm giữ bản quyền. Nhưng xét về lợi ích, người sáng tạo thường được xem là cùng nhóm với người nắm giữ bản quyền do họ có chung lợi ích trong việc bảo vệ quyền của mình và được khen thưởng cho nỗ lực sáng tạo, đầu tư công sức, trí tuệ của họ. Dù theo cách tiếp cận nào thì luật bản quyền đều thống nhất ở điểm chung là bảo vệ cả lợi ích cho chủ thể sáng tạo (tác giả) và chủ thể đầu tư - chủ sở hữu quyền tác giả.
Toà án công lý Châu Âu thường dựa trên mô hình ba giai đoạn sáng tạo: lên ý tưởng, thực hiện và biên tập để xác định ai là tác giả của tác phẩm. Đối với quá trình tạo ra tác phẩm có sự hỗ trợ của máy móc hay AI, sự can thiệp sáng tạo của tác giả có thể xảy ra ở các mức độ và trong các giai đoạn khác nhau: từ chuẩn bị, thực hiện và hoàn thiện sản phẩm. Sản phẩm đầu ra của AI có khả năng đủ điều kiện bảo hộ bản quyền nếu nó “phản ánh những lựa chọn sáng tạo của con người ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình sản xuất” [27].
Ở các quốc gia theo hệ thống Anh - Mỹ, chủ thể có thể được xem xét là tác giả nếu họ chính là người đứng sau điều khiển, sử dụng AI như một công cụ để tạo ra tác phẩm theo ý tưởng, cách thức thể hiện mà họ mong muốn. Đạo luật Quyền tác giả, Thiết kế và Sáng chế của Vương Quốc Anh năm 1988 (Copyright, Designs and Patents Act - CDPA), mục 178 ghi nhận quyền tác giả đối với “tác phẩm do máy tính tạo ra” theo đó, tác giả của tác phẩm (vì mục đích bảo hộ bản quyền) sẽ là “người thực hiện việc sắp xếp cần thiết cho việc tạo ra tác phẩm” [28], bao gồm người sở hữu bản quyền chương trình máy tính, người tạo ra hệ thống máy tính hoặc cả hai. Đối sản phẩm đầu ra của AI, tuỳ từng trường hợp, người đầu tư nghiên cứu, phát triển và đào tạo AI, hoặc người dùng AI có thể đóng vai trò là người có sự lựa chọn sáng tạo để đầu ra của AI đủ điều kiện để được bảo hộ bản quyền.
Đối với việc sáng tạo ra một tác phẩm, giai đoạn lên ý tưởng bao gồm việc hình thành ý tưởng chung cho một tác phẩm (chủ đề), xây dựng một loạt thiết kế từ lựa chọn thể loại, phong cách, kỹ thuật, chất liệu, phương thức, hình thức thể hiện [29]… Những lựa chọn sáng tạo ở giai đoạn tiền sản xuất này có thể là yếu tố quan trọng trong việc tạo ra tính độc đáo của sản phẩm cuối cùng. Tuy nhiên, trong trường hợp đầu ra được tạo ra với sự hỗ trợ của thuật toán học máy (machine learning -ML), các lựa chọn sáng tạo sẽ phụ thuộc vào dữ liệu đầu vào và các thông số khác, nên hệ thống AI ở giai đoạn này “không có vai trò gì trong quá trình sáng tạo ngoài việc đóng vai trò là một ràng buộc bên ngoài giới hạn khả năng sáng tạo của nhà thiết kế” [30]. Đối với một số công nghệ AI hiện nay như Chat GPT, người dùng chỉ có vai trò “nhập lệnh” đơn giản để AI tạo ra một sản phẩm theo yêu cầu, hoặc người dùng AI chỉ đơn thuần nhấn nút để tạo ra một sản phẩm (như một số phần mềm tạo ngôn ngữ tự nhiên, tạo văn bản) thì không được coi là can thiệp trực tiếp để tạo nên tác phẩm.
Giai đoạn thực hiện bao gồm việc chuyển đổi thiết kế hoặc kế hoạch từ phiên bản phác thảo (thô) thành tác phẩm cuối cùng. Với các hình thức sáng tạo truyền thống, vai trò của tác giả là con người ở giai đoạn này rất quan trọng, vì tác giả là người chuyển cốt truyện thành ngôn từ của cuốn tiểu thuyết, chuyển ý tưởng âm nhạc thành bản nhạc với các thanh âm, chuyển ý tưởng thành bức tranh với những đường nét, màu sắc sống động mang tính nghệ thuật. Từ thế kỷ 19 trở đi, với sự phát triển của công nghệ phim ảnh, thiết bị ghi âm, ghi hình, máy móc đóng vai trò là một công cụ quan trọng của quá trình sáng tạo. Ví dụ không thể tạo ra ảnh và phim nếu không có máy ảnh, máy quay phim. Tuy nhiên, con người vẫn luôn kiểm soát hoàn toàn giai đoạn thực hiện tác phẩm [31]. Đối với những tác phẩm do AI tạo ra, sản phẩm đầu ra phụ thuộc rất nhiều vào dữ liệu được cung cấp để đào tạo, huấn luyện AI. Do đó, người sở hữu và cung cấp dữ liệu đầu vào cho AI đóng vai trò quan trọng đến kết quả đầu ra của AI. Tuy nhiên, sự phát triển của thuật toán học máy (machine learning -ML), đặc biệt các hệ thống Deep Learning đã tạo ra sự thay đổi đáng kể về vai trò “hỗ trợ” của máy móc khi hệ thống AI là một hệ điều hành tự động mà người dùng không hoàn toàn kiểm soát hay xác định được chắc chắn về kết quả đầu ra của AI. Do đó, chất lượng đầu ra của AI “chưa chắc là bằng chứng về sự sáng tạo” của con người trong quá trình thực hiện.
Giai đoạn biên tập bao gồm việc xử lý và chỉnh sửa lại các phiên bản được tạo ra trong giai đoạn thực hiện để tạo thành một sản phẩm hoàn thiện cuối cùng trước khi nó được công bố rộng rãi hay xuất bản. Trong một số trường hợp, đầu ra được hỗ trợ bởi AI là một sản phẩm đã có thể sử dụng được ngay, ví dụ một bản dịch tự động bởi DeepL and Google Translate. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, đầu ra của AI vẫn cần sự can thiệp của con người trong việc biên tập, chỉnh sửa lại để tạo ra một tác phẩm hoàn thiện trước khi nó được xuất bản hay khai thác thương mại. Trong trường hợp này, tính sáng tạo thể hiện ở việc tác giả lựa chọn những chỉnh sửa cần thiết đối với sản phẩm đầu ra của AI.
Như vậy, liên quan đến những sáng tạo được hỗ trợ bởi AI, các “ứng viên tiềm năng” cho vị trí “người nắm giữ quyền” có thể là: nhà phát triển hoặc lập trình hệ thống AI; người cung cấp dữ liệu đầu vào để huấn luyện AI; hoặc người dùng hệ thống AI. Chủ thể nào xứng đáng được trao quyền bản quyền cũng phải dựa trên nguyên tắc cân bằng lợi ích để bảo đảm mục tiêu khuyến khích sáng tạo.
Nhà phát triển hoặc lập trình viên hệ thống AI là những người sáng tạo ra hệ thống AI, có thể đóng vai trò sáng tạo ở cả giai đoạn chuẩn bị, thực hiện và hoàn thiện tác phẩm. Họ không chỉ đóng vai trò lựa chọn sáng tạo ở giai đoạn tiền sản xuất (lên ý tưởng, thiết kế…), mà có thể đồng thời là người huấn luyện, cung cấp dữ liệu đầu vào cho AI, hoặc quyết định chỉnh sửa, lựa chọn một đầu ra nhất định cho AI. Họ là người bỏ công sức sáng tạo và đầu tư chính, đồng thời cũng là người phải gánh chịu những chi phí, rủi ro trong quá trình phát triển hệ thống AI. Xét từ khía cạnh cân bằng lợi ích, việc trao bản quyền cho nhà phát triển hoặc lập trình viên hệ thống AI là hợp lý để bù đắp những nỗ lực sáng tạo và đầu tư của họ và tạo động lực khuyến khích phát triển công nghệ AI. Tuy nhiên, việc trao bản quyền cho nhà phát triển AI vẫn vấp phải một số băn khoăn: Thứ nhất, theo pháp luật bản quyền, quyền tác giả gắn liền với quá trình hình thành tác phẩm. Nếu trao quyền tác giả cho lập trình viên hay nhà sản xuất AI thì vô hình chung đã loại bỏ quyền tác giả ra khỏi quá trình sáng tạo [32]; Thứ hai, do tính “tự chủ” và tính “không thể dự đoán trước” của AI ngày càng phát triển, dẫn đến khả năng sản phẩm đầu ra của AI không còn liên hệ với yêu cầu ban đầu của lập trình viên. Việc tác phẩm do AI tạo ra sẽ như thế nào có thể nằm ngoài dự đoán và sự chi phối, điều khiển của người lập trình. Nói cách khác, tác phẩm đó không phải là sản phẩm sáng tạo phản ánh tư tưởng, cảm xúc hay trí tuệ của người lập trình viên [33]. Do đó, nếu trao quyền tác giả trong tình huống này không còn phù hợp.
Để hiện thực hoá chiến lược quốc gia về trí tuệ nhân tạo, Cộng hoà Pháp đã có những động thái tích cực trong việc sửa đổi pháp luật để giải quyết vấn đề cốt lõi là việc sử dụng nội dung có bản quyền bởi các công nghệ AI tạo sinh. Ngày 12/9/2023, Dự luật số 1630 nhằm mục tiêu “bảo vệ trí tuệ nhân tạo thông qua bản quyền”, với bốn sửa đổi quan trọng Bộ luật Sở hữu Trí tuệ (IPC) đã được đệ trình lên Quốc hội Pháp, trong đó đề xuất mở rộng Điều L 321-2 Bộ luật SHTT: “Chủ thể hợp pháp của một tác phẩm do AI tạo ra mà không có sự can thiệp của con người sẽ là các tác giả hoặc chủ sở hữu quyền của các tác phẩm đã được sử dụng để tạo ra tác phẩm đó”. Đồng thời, bổ sung quy định về vai trò của các tổ chức quản lý tập thể trong việc thu tiền và phân phối quyền trên tác phẩm AI” [34]. Theo đề xuất này, nếu AI tạo ra một tác phẩm hoàn toàn tự động mà không có sự can thiệp trực tiếp của con người, quyền sở hữu quyền tác giả sẽ thuộc về những người nắm giữ bản quyền đối với dữ liệu đầu vào mà AI sử dụng. Dự luật 1630 nhằm sửa đổi Bộ luật SHTT của Pháp mở ra một hướng tiếp cận mang tính tiên phong khi: (i) thừa nhận trao bản quyền cho tác phẩm do AI tạo ra ngay cả khi không có sự can thiệp trực tiếp của con người; (ii) xác định chủ thể nắm giữ bản quyền đối với tác phẩm do AI tạo ra trong trường hợp này là tác giả hay chủ sở hữu của tác phẩm được AI sử dụng; iii) Trao quyền thu tiền và phân phối tiền bản quyền đối với tác phẩm do AI tạo ra cho tổ chức quản lý tập thể.
Người sử dụng AI thường có vai trò khá hạn chế và thụ động khi họ chỉ có thể đưa ra yêu cầu hoặc nhấn nút chọn, mà không thể kiểm soát quá trình sáng tạo của AI. Điển hình như đối với ứng dụng ChatGPT, nội dung đầu ra của ChatGPT có sự tham gia của hai chủ thể là người sử dụng ChatGPT và ChatGPT. Người sử dụng ChatGPT mặc dù không trực tiếp thực hiện quá trình sáng tạo nhưng họ là người đưa ra “sự gợi ý” thông qua việc nhập thông tin vào ChatGPT, nhờ đó ChatGPT tạo ra các nội dung có giá trị. Người sử dụng AI nếu đơn giản chỉ thực hiện việc “nhấn nút” hoặc đưa ra yêu cầu (lệnh) để hệ thống AI hoạt động thì chưa đủ chứng minh quyền kiểm soát hay sự lựa chọn sáng tạo của họ đối với sản phẩm đầu ra của AI. Trong những trường hợp này, người dùng AI không thể tuyên bố về quyền tác giả. Tuy nhiên, người dùng AI có thể được công nhận quyền tác giả nếu họ đóng vai trò can thiệp trực tiếp vào việc tạo ra tác phẩm như trong một số trường hợp sau: (i) Người dùng đóng vai trò là người biên tập, lựa chọn, chỉnh sửa, sắp xếp các nguyên liệu từ đầu ra của AI để tạo ra một sản phẩm cuối cùng có dấu ấn sáng tạo riêng của người dùng; (ii) Người dùng cung cấp dữ liệu thuộc sở hữu của họ để AI hỗ trợ tạo ra sản phẩm. Ví dụ, người dùng viết một bài báo và nhờ công cụ Chat GPT hiệu chỉnh bài viết của mình.
Quá trình tạo tác của AI có thể có sự tham gia của nhiều cá nhân ở các giai đoạn khác nhau, nhưng quyền đồng tác giả chỉ phát sinh khi những cá nhân cùng hợp tác theo một kế hoạch chung để đầu ra của AI là kết quả một “nỗ lực sáng tạo kết hợp”. Trường hợp cả nhà phát triển hệ thống AI và người dùng cùng cộng tác để tạo ra tác phẩm đáp ứng được điều kiện bảo hộ bản quyền thì về nguyên tắc, họ có thể trở thành đồng tác giả.
5. Bình luận một số quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến bảo hộ quyền tác giả đối với sản phẩm do trí tuệ nhân tạo tạo ra và một số kiến nghị sửa đổi
Để thúc đẩy việc nghiên cứu và ứng dụng AI góp phần phát triển kinh tế-xã hội tại Việt Nam, Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng Trí tuệ nhân tạo đến năm 2030 đặt ra mục tiêu “đưa công nghệ mới này trở thành lĩnh vực công nghệ quan trọng của Việt Nam trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” nhằm “góp phần quan trọng tạo bước phát triển đột phá về năng lực sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế tăng trưởng bền vững” [35]. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 do Bộ Chính trị xác định trí tuệ nhân tạo là “một trong những công nghệ chiến lược” để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số và tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam. Để hiện thực những chiến lược đó thì việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lí điều chỉnh hoạt động của AI, trong đó có các quy định về bảo hộ quyền tác giả là vô cùng quan trọng.
Qua thực tiễn pháp lý quốc tế đối với việc xử lý những vấn đề liên quan đến AI và quyền tác giả, có thể nhận thấy các quốc gia trên thế giới có xu hướng tìm ra điểm cân bằng giữa yêu cầu tạo động lực thúc đẩy sáng tạo đổi mới trong việc phát triển và ứng dụng AI với bảo vệ lợi ích của các bên liên quan. Quan điểm truyền thống coi tác giả là trung tâm của hệ thống bản quyền, chỉ bảo hộ quyền tác giả cho con người có thể được thay đổi theo hướng linh hoạt là chấp nhận bảo hộ quyền tác giả đối với những tác phẩm có sự trợ giúp của AI tạo ra để bảo đảm lợi ích của các bên liên quan, đặc biệt là tạo động lực phát triển đổi mới sáng tạo, mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Hiện nay, pháp luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam chưa có bất kỳ sửa đổi hay hướng dẫn nào về vấn đề này. Để có cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ quyền SHTT đối với những sản phẩm sáng tạo của AI nhằm khuyến khích sáng tạo, đổi mới, thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ AI, pháp luật SHTT Việt Nam cũng cần có những sửa đổi hoặc hướng dẫn thích hợp.
- Về điều kiện bảo hộ tác phẩm
Quy định tại khoản 7 Điều 4 Luật SHTT Việt Nam về điều kiện bảo hộ tác phẩm khá tương đồng với pháp luật quốc tế: “Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học được thể hiện bằng bất kì phương tiện hay hình thức nào”. Điều kiện về tính sáng tạo của tác phẩm được quy định tại khoản 3 Điều 14, theo đó, tác phẩm được bảo hộ “phải do tác giả trực tiếp sáng tạo ra bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác”. Điều kiện về tính sáng tạo trong pháp luật Việt Nam nhấn mạnh vào hai yếu tố: (i) tác phẩm là kết quả của lao động trí tuệ của tác giả, tức là tác phẩm phải là thành quả của hoạt động sáng tạo tinh thần, là kết quả của quá trình suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo, phản ánh tư tưởng, tình cảm của người sáng tác; (ii) là sáng tạo độc lập, không sao chép từ tác phẩm của người khác. Yếu tố này đòi hỏi tác phẩm do chính tác giả sáng tạo ra, có thể phân biệt được với những tác phẩm của người khác. So sánh với yêu cầu về tính sáng tạo của tác phẩm trong pháp luật Việt Nam với pháp luật một số quốc gia, pháp luật Việt Nam không đòi hỏi yêu cầu về “mức độ sáng tạo tối thiểu” hay tính độc đáo, dấu ấn sáng tạo riêng của tác giả. Điều này cho thấy pháp luật SHTT Việt Nam tiếp cận điều kiện về tính sáng tạo nguyên gốc của tác phẩm theo “Thuyết đổ mồ hôi trán”, nhấn mạnh yêu cầu tác phẩm là kết quả của nỗ lực sáng tạo thực tế và đầu tư công sức, tài chính của tác giả hơn là đòi hỏi tính độc đáo của tác phẩm. Cách tiếp cận này sẽ dễ dàng hơn cho việc công nhận bảo hộ quyền tác giả đối với những sáng tạo liên quan đến AI.
Tuy nhiên, cũng như các quốc gia theo hệ thống châu Âu lục địa, pháp luật Việt Nam coi tác giả là trung tâm của hệ thống bản quyền, nên quyền tác giả (author’s right) chỉ có thể dành cho chủ thể sáng tạo là con người. Vì vậy, tác phẩm do AI tạo ra chỉ được xem xét bảo hộ quyền tác giả nếu có sự tham gia sáng tạo của con người trong quá trình hình thành tác phẩm, hay nói cách khác, AI chỉ đóng vai trò hỗ trợ con người trong quá trình tạo ra tác phẩm. Yếu tố “trực tiếp sáng tạo” trong quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật SHTT hiện nay có thể dẫn đến những khó khăn trong việc áp dụng để xác định điều kiện bảo hộ đối với tác phẩm do AI tạo ra. Đối với tác phẩm thông thường, người thực hiện hành vi sáng tạo là người trực tiếp thể hiện tư tưởng, cảm xúc của mình dưới hình thức sáng tạo độc lập. Đối với tác phẩm được tạo ra bởi AI, AI là chủ thể giúp tác giả thể hiện ý tưởng sáng tạo của mình, nói cách khác, AI là một công cụ trực tiếp tạo ra biểu hiện vật chất của ý tưởng dưới sự điều khiển của con người.
Để có cơ sở áp dụng bảo hộ quyền tác giả đối với những tác phẩm được hỗ trợ bởi AI, tác giả kiến nghị: Thứ nhất, nên bỏ từ “trực tiếp” trong khoản 3 Điều 14 Luật SHTT, theo đó, quy định này được sửa như sau: “Tác phẩm được bảo hộ theo quy định tại khoản 1và 2 Điều này phải do tác giả sáng tạo ra bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác”. Cụm từ “tác giả sáng tạo ra” đã đủ để đánh giá điều kiện về tính nguyên gốc của tác phẩm được bảo hộ bản quyền; Thứ hai, ban hành hướng dẫn riêng về điều kiện bảo hộ quyền tác giả đối với những tác phẩm được tạo ra có sự hỗ trợ của công nghệ AI, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của Văn phòng bản quyền Hoa Kỳ (USCO), cụ thể: (i) Tác phẩm do AI tạo ra chỉ được bảo hộ quyền tác giả nếu có sự can thiệp sáng tạo của con người, thể hiện ở việc lựa chọn, sắp xếp nguyên liệu đầu vào, hay chỉnh sửa, thay đổi những tài liệu do AI tạo ra đến mức nó đáp ứng tiêu chuẩn về tính sáng tạo nguyên gốc. Ví dụ: Người dùng lựa chọn, xây dựng bộ dữ liệu để huấn luyện AI tạo ra văn bản hay hình ảnh; hoặc người dùng biên tập, chỉnh sửa, bổ sung thêm những nội dung mới vào sản phẩm do AI tạo ra. (ii) Đối với tác phẩm có nội dung sáng tạo của AI, quyền tác giả chỉ bảo hộ cho những yếu tố sáng tạo của con người, độc lập và không liên quan phần nội dung do AI tạo ra. Ví dụ: Từ hình ảnh do AI tạo ra, người dùng sắp xếp bố cục, viết nội dung để tạo nên tác phẩm truyện tranh thì người dùng chỉ được bảo hộ quyền tác giả đối với nội dung họ sáng tạo.
- Về chủ thể được bảo hộ quyền tác giả
Pháp luật SHTT Việt Nam công nhận hai chủ thể được bảo hộ quyền tác giả là: tác giả - người có các quyền nhân thân (tinh thần) đối với tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả - cá nhân hoặc tổ chức nắm giữ quyền công bố và các quyền tài sản để khai thác tác phẩm. Theo khoản 1 Điều 12a Luật SHTT Việt Nam, “tác giả là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm”. “Trực tiếp sáng tạo” được hiểu tác giả chính là người chuyển tải ý tưởng sáng tạo của mình ra bên ngoài thế giới vật chất dưới một hình thức để người khác có thể nhận biết. Việc nhấn mạnh yếu tố “trực tiếp sáng tạo” trong định nghĩa này nhằm để phân biệt tác giả - là người tạo ra tác phẩm với những người gián tiếp hỗ trợ hoạt động sáng tạo như người cung cấp thông tin, góp ý, giúp đỡ tác giả sáng tạo. Khoản 2 Điều 12a Luật SHTT quy định: “Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác giả”. Thông thường, khi sáng tạo tác phẩm, tác giả là người tự lựa chọn chất liệu, công cụ để thể hiện ý tưởng sáng tạo của mình. Đối với tác phẩm do con người tạo ra, tác giả thể hiện suy nghĩ, quan niệm, tư tưởng, tình cảm của mình qua cách thức thể hiện tác phẩm. Còn đối với tác phẩm được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo, các lập trình viên sẽ là người lựa chọn và cung cấp dữ liệu đầu vào cho máy tính, là người sử dụng, vận hành máy tính như là công cụ thể hiện tác phẩm. Trong trường hợp này, người lập trình tạo ra bộ óc của máy tính để thay thế con người học hỏi, khai thác nguồn dữ liệu đầu vào, tự chọn lọc, xử lý thông tin và tự quyết định việc tạo ra tác phẩm mới như thế nào.
Quy định về tác giả, đồng tác giả hiện nay trong Luật SHTT Việt Nam khó có thể vận dụng để công nhận quyền tác giả cho những chủ thể như người sáng tạo AI, người cung cấp dữ liệu để đào tạo, huấn luyện hay người sử dụng AI vì họ không trực tiếp tạo ra tác phẩm, mặc dù thông qua công cụ AI, họ có thể tạo ra tác phẩm theo ý tưởng, cách thức thể hiện mà họ mong muốn và tác phẩm do AI tạo ra là sự thể hiện tư tưởng, cảm xúc, nhân sinh quan của họ. Đối với tác phẩm được tạo ra bởi AI, thuật toán AI hay dữ liệu đầu vào thường đóng vai trò quyết định đến việc chuyển các nguyên liệu đó thành tác phẩm có tính sáng tạo. AI chỉ đóng vai trò như một công cụ sản xuất để biến ý tưởng, nguyên liệu thành sản phẩm dưới sự chỉ đạo, dẫn dắt, kiểm soát của con người. Trong trường hợp này, quyền của tác giả có thể được trao cho người sáng tạo AI, người cung cấp dữ liệu để đào tạo, huấn luyện hay người sử dụng AI. Pháp luật quyền tác giả ở một số quốc gia định nghĩa về tác giả khá đơn giản “là người sáng tạo ra tác phẩm”, không đề cập đến yếu tố “trực tiếp” hay “gián tiếp” tạo ra tác phẩm [36]. Để tạo cơ sở pháp lí cho việc bảo hộ quyền tác giả đối với những tác phẩm có sự tham gia của AI và để phù hợp với xu thế quốc tế, tác giả đề xuất: Thứ nhất, định nghĩa tác giả, đồng tác giả tại khoản 1 Điều 12a Luật SHTT Việt Nam nên bỏ từ “trực tiếp”, theo đó, điều luật có thể sửa như sau: “Tác giả là người sáng tạo tác phẩm. Trường hợp có từ hai người trở lên cùng sáng tạo tác phẩm với chủ ý là sự đóng góp của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh thì những người đó là đồng tác giả”. Thứ hai, bổ sung quy định hướng dẫn xác định tác giả, đồng tác giả đối với trường hợp tác phẩm được tạo ra có sự hỗ trợ của AI: “Người đóng vai trò sáng tạo có tính quyết định đối với sản phẩm đầu ra của AI được công nhận là tác giả/đồng tác giả”. Tác giả/đồng tác giả có thể là người sáng tạo, lập trình hệ thống AI, tạo ra các thuật toán để chỉ đạo, dẫn dắt, kiểm soát quá trình AI tạo ra tác phẩm. Tác giả/đồng tác giả cũng có thể là người cung cấp dữ liệu đầu vào để huấn luyện AI, thực hiện những chỉnh sửa đối với sản phẩm của AI để tạo nên một tác phẩm có tính sáng tạo nguyên gốc. Trường hợp những chủ thể này cùng có đóng góp sáng tạo trong việc AI tạo ra tác phẩm chung thì có thể được công nhận là đồng tác giả. Ví dụ, người tạo ra hệ thống AI có thể đóng vai trò sáng tạo ở việc lên ý tưởng, thiết kế, cung cấp dữ liệu, chỉnh sửa, lựa chọn đầu ra cho tác phẩm. Người dùng AI cũng có thể đóng góp sáng tạo vào việc tạo ra tác phẩm khi họ cung cấp dữ liệu thuộc sở hữu của họ để AI tạo ra tác phẩm, hoặc biên tập, lựa chọn, chỉnh sửa, sắp xếp các nguyên liệu từ đầu ra của AI để tạo ra một sản phẩm cuối cùng.
Tác giả của tác phẩm được tạo ra bởi AI có thể đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả nếu họ chính là người đầu tư tài chính, cơ sở vật chất để tạo ra tác phẩm [37]. Trường hợp tác giả tạo ra tác phẩm theo nhiệm vụ hành chính, hoặc theo hợp đồng đặt hàng thì người chủ sử dụng lao động hay người thuê tác giả sáng tạo là chủ sở hữu quyền tác giả [38]. Đối với tác phẩm được tạo ra bằng sự hỗ trợ của công nghệ AI, chủ sở hữu hệ thống AI, chủ sở hữu hệ thống dữ liệu được sử dụng để huấn luyện AI hay nhà đầu tư cho AI có thể là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được tạo ra.
Cho đến thời điểm hiện nay, đối với trường hợp AI tạo ra tác phẩm một cách tương đối độc lập, không chứng minh được có sự can thiệp sáng tạo đáng kể của con người, các quốc gia trên thế giới đều không công nhận AI là tác giả, cũng như chưa có quan điểm rõ ràng và dứt khoát cho việc bảo hộ quyền tác giả đối với những tác phẩm này. Cũng giống như các quốc gia theo trường phái Châu Âu lục địa, việc bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam chỉ được đặt ra khi có tác giả là con người sáng tạo ra tác phẩm. Theo cách tiếp cận truyền thống này, tác phẩm do AI tạo ra nếu không có sự can thiệp sáng tạo rõ ràng của con người, thì không xác định được tác giả, đồng thời quyền sở hữu quyền tác giả cũng không được công nhận. Việc ghi nhận AI là tác giả không phù hợp với những nguyên tắc bảo hộ quyền SHTT. Tuy nhiên, nếu tác phẩm do AI tạo ra không được bảo hộ quyền tác giả, nó sẽ trở thành tài sản công cộng mà mọi chủ thể trong xã hội có thể sử dụng tự do. Nhà đầu tư, phát triển AI khó có thể thu được những lợi ích vật chất để bù đắp, công sức, chi phí đã bỏ ra, cũng như không có nguồn lực tài chính để tiếp tục đầu tư, phát triển hệ thống AI. Thực tế, khi AI tạo ra tác phẩm thì tác phẩm đó là “sản phẩm sáng tạo” được tạo ra bởi nhiều người và theo một dây truyền khó có thể phân định được công sức sáng tạo của mỗi cá nhân và sản phẩm cuối cùng là kết quả của nỗ lực mang tính tổ chức của pháp nhân chứ không phải mang dấu ấn của những cá nhân đơn lẻ. Do đó, ý tưởng về việc thiết lập một loại quyền riêng (sui generis right) để cung cấp độc quyền hạn chế cho những người đầu tư sáng tạo ra hệ thống AI nhằm bảo vệ hoạt động đầu tư và khuyến khích nghiên cứu, phát triển công nghệ AI rất đáng được xem xét. Dự luật số 1630 của Pháp với đề xuất bổ sung Điều L 321-2 Bộ luật SHTT quy định về bảo hộ quyền tác giả trong trường hợp AI tạo ra một tác phẩm một cách độc lập không có sự can thiệp trực tiếp của con người được xem là táo bạo và có tính tiên phong. Điều luật xác định quyền tác giả sẽ thuộc về những người nắm giữ bản quyền đối với dữ liệu đầu vào mà AI sử dụng; đồng thời trao quyền quản lý các quyền đối với tác phẩm do AI tạo ra (bao gồm quyền thu tiền và phân phối quyền từ tác phẩm do AI tạo ra) cho các tổ chức quyền tác giả hoặc cơ quan quản lý tập thể khác [39]. Ý tưởng về việc tạo ra một cơ chế bảo hộ riêng cho tác phẩm được tạo ra bởi AI tạo ra mà không cần chứng minh có sự sáng tạo tinh thần mang tính cá nhân của tác giả rất đáng được xem xét. Trong trường hợp này, không cần xác định ai là tác giả mà chỉ xem xét việc trao các quyền tài sản thuộc quyền tác giả cho chủ thể đầu tư để tạo ra tác phẩm đó. Luật Công nghiệp công nghệ số [40] mới được thông qua tại Việt Nam dành riêng thứ IV quy định về “Trí tuệ nhân tạo”, trong đó Điều 45 quy định về “Trách nhiệm của các chủ thể trong hoạt động phát triển, cung cấp, triển khai sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo”. Theo quan điểm của tác giả, bên cạnh việc quy định về trách nhiệm, pháp luật cũng cần ghi nhận quyền của những chủ thể này thì mới bảo đảm định hướng phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo một cách bền vững. Do đó, có thể nghiên cứu để bổ sung một cơ chế bảo hộ quyền riêng cho chủ thể phát triển, cung cấp, triển khai sử dụng trí tuệ nhân tạo để tạo ra tác phẩm.
- Về đăng ký quyền tác giả
Hiện nay Luật SHTT Việt Nam chưa có quy định hướng dẫn riêng về đăng ký quyền tác giả đối với tác phẩm có sự hỗ trợ của AI. Thực tế, nhiều quốc gia trên thế giới đã bổ sung quy định gắn nhãn AI hay chú thích “tác phẩm do AI tạo ra” (work generated by AI) để bảo đảm tính minh bạch khi sử dụng AI. Trong xu thế đó, Việt Nam cũng đã quy định tại Khoản 2 Điều 44 Luật Công nghiệp công nghệ số: “Sản phẩm công nghệ số thuộc Danh mục sản phẩm công nghệ số tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo phải có dấu hiệu nhận dạng để người sử dụng hoặc máy nhận biết”. Tuy nhiên, để minh bạch và rõ ràng hơn trong việc bảo hộ quyền tác giả cũng như xác định tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm, tác giả kiến nghị: Thứ nhất, bên cạnh việc bắt buộc chú thích về tác phẩm do AI tạo ra hay có sự sáng tạo của AI, cần kèm theo chú thích về tác giả, tác phẩm gốc là nguồn dữ liệu tạo ra tác phẩm AI (nếu có). Thứ hai, bổ sung hướng dẫn cho quy định tại điểm a khoản 2 Điều 50 Luật SHTT về hồ sơ đăng kí quyền tác giả: Trong tờ khai đăng kí quyền tác giả, nếu người đăng kí có sử dụng AI trong quá trình sáng tạo tác phẩm thì người đăng ký có trách nhiệm cung cấp thông tin cụ thể về sự tham gia của AI và phần sáng tạo của AI trong tác phẩm. Nếu người đăng kí không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, trung thực những thông tin này thì đó là một trong những căn cứ huỷ bỏ Giấy chứng nhận đăng kí quyền tác giả theo Điều 55 Luật SHTT.
6. Kết luận
Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ AI cũng như việc ứng dụng ngày càng phổ biến của AI trong các lĩnh vực của đời sống xã hội đang có tác động mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực pháp luật, trong đó có pháp luật bản quyền. Nghiên cứu thực tiễn pháp lý quốc tế cho thấy các quốc gia hiện nay có xu hướng chấp nhận bảo hộ quyền tác giả cho những sản phẩm sáng tạo có sự tham gia hỗ trợ của AI, tuy nhiên hầu như chưa có những quy định cụ thể để đánh giá tiêu chuẩn về “tính sáng tạo” đối với những tác phẩm này cũng như xác định trao quyền tác giả cho chủ thể nào. Đối với những tác phẩm thuần tuý do AI tạo ra, vấn đề có nên trao một “độc quyền hạn chế” cho nhà phát triển hay cung cấp dữ liệu cho AI hay không để bảo vệ quyền lợi cho những chủ thể này vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ cần được tiếp tục nghiên cứu. Nghiên cứu xu hướng quốc tế đối với việc bảo hộ quyền tác giả cho những sản phẩm sáng tạo của AI cho thấy vấn đề cốt lõi mà các quốc gia trên thế giới quan tâm chính là xác định được điểm cân bằng giữa yêu cầu tạo động lực thúc đẩy sáng tạo đổi mới trong việc phát triển và ứng dụng AI với bảo vệ lợi ích của các bên liên quan. Trong xu thế đó, pháp luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam cũng cần có những điều chỉnh và bổ sung hướng dẫn để có cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ quyền tác giả đối với những tác phẩm được sáng tạo bởi AI nhằm khuyến khích sáng tạo, đổi mới, thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ AI tại Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Carys Craig, (2022), The AI-Copyright Challenge: Tech-Neutrality, Authorship, and the Public Interest, Osgoode Hall Law School of York University (2022)
2.
Jozefien Vanherpe (2022),
“AI and IP – Great Expectation”, (2022)
https://www.researchgate.net/publication/356811479_AI_and_IP_-_Great_Expectations
3. Mohd Akhter Ali & M. Kamraju (2023), Osmania
University Journal of IPR [OUJIPR] Vol.1 | Issue 1 July 2023, “Impact of Artificial Intelligence on
Intellectual Property”,
Osmania University Journal of IPR [OUJIPR]
Vol.1 | Issue 1 July (2023) https://www.researchgate.net/publication/376751087_Impact_of_Artificial_Intelligence_on_Intellectual_Property_Rights_Challenges_and_Opportunities
4.
JOHN LOCKS, KHẢO LUẬN
THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN (LÊ HUY TUẤN DỊCH), NXB TRI THỨC (, 2013)
5. Andres Guadamuz, (2017)
“Artificial
intelligence and copyright” (2017), https://www.wipo.int/wipo_magazine/en/2017/05/article_0003.html
6. P. Bernt Hugenholtz, Joa˜o Pedro Quintais, (2021),“Copyright and Artificial Creation: Does EU Copyright Law Protect
AI-Assisted Output?” (2021) https://www.researchgate.net/publication/355099987_Copyright_and_Artificial_Creation_Does_EU_Copyright_Law_Protect_AI-Assisted_Output
7.
Desktop
Marketing Systems Pty Ltd v Telstra Corporation Limited [2002] FCAFC 112 (15
May 2002),
https://www.judgments.fedcourt.gov.au/
judgments/Judgments/fca/full/2010/2010fcafc0149,
8.
Telstra
Corporation Limited v Phone Directories Company Pty Ltd [2010], https://www.judgments.fedcourt.gov.au/judgments/Judgments/fca/full/2010/2010fcafc0149,
9. FederalCourt of
Australia - Full Court, (2012), Acohs Pty Ltd
v Ucorp Pty Ltd [2012] FCAFC 16 (2 March 2012), http://www6.austlii.edu.au/cgi-bin/viewdoc/au/cases/cth/FCAFC/2012/16.html
10. U.S.
Copyright Office Practices (2021), The Compendium: Copyrightable
Authorship: What Can Be Registered (bổ sung lần thứ ba), https://www.copyright.gov/comp3/chap300/ch300-copyrightable-authorship.pdf,
11.US Supreme Court
(1991), Feist Publications, Inc. v.
Rural Tel. Serv. Co., 499 U.S. 340 (1991), https://supreme.justia.com/cases/federal/us/499/340/
12.United States Copyright Office, Zarya of the Dawn (Registration # VAu001480196), 21/12/2023, https://www.copyright.gov/docs/zarya-of-the-dawn.pdf
13.US
Copyright Office (2023), ‘Copyright
Registration Guidance: Works Containing Material Generated by Artificial
Intelligence’ 37 CFR Part 202 (16 March 2023), https://www.copyright.gov/ai/ai_policy_guidance.pdf
14.Scott Warren & Joseph Grasser (2024), “Japan’s New Draft Guidelines on AI
and Copyright: Is It Really OK to Train AI Using Pirated Materials?” https://www.privacyworld.blog/2024/03/japans-new-draft-guidelines-on-ai-and-copyright-is-it-really-ok-to-train-ai-using-pirated-materials/
15.Copyright,
Designs and Patents Act 1988 _CDPA https://www.legislation.gov.uk/ukpga/1988/48/section/178,.
16.Ant Horn, "Creators and the copyright balance: Investigating the
interests of copyright holders, users and creators" (2004);
Alternative Law Journal 112 (2004) https://www.researchgate.net/publication/318532855_Creators_and_the_Copyright_Balance_Investigating_the_Interests_of_Copyright_Holders_Users_and_Creators
17.Olivier
and Ines Banazzouz, https://www.mondaq.com/copyright/1415046/french-national-assembly-proposes-new-law-to-secure-copyright-in-ai
18.Quyết định 127/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/01/2021 “Chiến lược
quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng Trí tuệ nhân tạo đến năm 2030”
[*] PGS.TS Vũ Thị Hải Yến, Phó chủ nhiệm Khoa Luật Dân sự Đại học Luật Hà Nội
[**] Ths.Lê Vũ Minh Đức, Văn phòng Luật sư Minervas
[1] Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Hoàn thiện pháp luật Sở hữu trí tuệ dưới tác động của trí tuệ nhân tạo trong bối cảnh phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam”
[2] Carys Craig, The AI-Copyright Challenge: Tech-neutrality, Authorship, and the
Public
Interest, Osgoode Hall Law School of York University, (2022)
[3] Jozefien Vanherpe (2022),
AI and IP – Great Expectation (2022), https://www.researchgate.net/publication/
356811479_ AI_and_IP_-_Great_Expectations,(truy cập lần cuối 22/07/2025)
[4] Mohd Akhter Ali & M. Kamraju, Mohd
Akhter Ali & M. Kamraju, Impact of
Artificial Intelligence on Intellectual Property, Osmania University
Journal of IPR [OUJIPR] Vol.1 | Issue 1 July 2023,
https://www.researchgate.net/publication/
376751087_Impact_of_Artificial_Intelligence_ on_Intellectual_
Property_Rights_Challenges_and_Opportunities
[5] Mohd Akhter Ali & M. Kamraju, tlđd, 4
[6] Carys Craig, (2022), tlđd, 2
[7] John Locks, Khảo luận thứ hai về chính quyền (Lê Huy Tuấn
dịch), NXB Tri thức, 2013
[8] Jozefien Vanherpe, tlđd, 3
[9] Andres Guadamuz “Artificial intelligence and
copyright”, https://www.wipo.int/wipo_magazine/en/2017/05/ article_0003.html, (2017), truy cập lần cuối 22/07/2025
[10] P. Bernt Hugenholtz, Joa˜o Pedro Quintais, (2021), Copyright and Artificial Creation: Does EU Copyright Law
Protect AI-Assisted Output?, (2021) https://www.researchgate.net/publication/355099987_Copyright_and_ Artificial_Creation_Does_EU_Copyright_Law_Protect_AI-Assisted_Output, (truy cập lần cuối 22/07/2025)
[11]
P. Bernt Hugenholtz, Joa˜o Pedro Quintais, tlđd, 10
[12] P. Bernt Hugenholtz, Joa˜o Pedro Quintais, tlđd, 10
[13] Andres Guadamuz, tlđd, 9
[14] Desktop Marketing Systems Pty Ltd v Telstra
Corporation Limited [2002] FCAFC 112 (15 May 2002), https://www.judgments.fedcourt.gov.au/judgments/Judgments/fca/full/2010/2010fcafc0149, (truy cập lần cuối 22/07/2025)
[15] Telstra Corporation Limited v Phone
Directories Company Pty Ltd [2010], https://www.judgments.fedcourt.
gov.au/judgments/Judgments/fca/full/2010/2010fcafc0149,
(truy cập lần cuối
22/07/2025)
[16] FederalCourt of
Australia - Full Court, (2012), Acohs Pty Ltd
v Ucorp Pty Ltd [2012] FCAFC 16 (2 March 2012), http://www6.austlii.edu.au/cgi-bin/viewdoc/au/cases/cth/FCAFC/2012/16.html, (truy cập lần cuối 22/07/2025)
[17] P. Bernt Hugenholtz, Joa˜o Pedro Quintais, tlđd, 10
[18] P. Bernt Hugenholtz, Joa˜o Pedro Quintais, tlđd, 10
[19] P. Bernt Hugenholtz, Joa˜o Pedro Quintais, tlđd,10
[20] U.S. Copyright
Office Practices (2021), The Compendium: Copyrightable
Authorship: What Can Be Registered (bổ sung lần thứ ba), https://www.copyright.gov/comp3/chap300/ch300-copyrightable-authorship.pdf, truy cập lần cuối 22/07/2025
[21] US Supreme Court (1991), Feist
Publications, Inc. v. Rural Tel. Serv. Co., 499 U.S. 340 (1991), https://supreme.justia.com/cases/federal/us/499/340/
[22] United States
Copyright Office, Zarya of the Dawn (Registration #
VAu001480196), 21/12/2023 https://www.copyright.gov/docs/zarya-of-the-dawn.pdf, (truy cập lần cuối 22/07/2025
[23] US
Copyright Office (2023), ‘Copyright Registration Guidance: Works
Containing Material Generated by Artificial Intelligence’ 37 CFR Part 202 (16 March 2023), https://www.copyright.gov/ai/ai_policy_guidance.pdf
[24]Scott
Warren & Joseph
Grasser (2024),
“Japan’s
New Draft Guidelines on AI and Copyright: Is It Really OK to Train AI Using
Pirated Materials?” (2024) https://www.privacyworld.blog/2024/03/japans-new-draft-guidelines-on-ai-and-copyright-is-it-really-ok-to-train-ai-using-pirated-materials/, truy cập lần cuối 22/07/2025
[25] Copyright,
Designs and Patents Act 1988 _CDPA, 9.3. “In the case of a literary, dramatic, musical or artistic
work which is computer-generated, the author shall be taken to be the person by
whom the arrangements necessary for the creation of the work are undertaken; The
Copyright and Related Rights Act 2000 of Ireland defines
‘‘computer-generated’’, in relation to a work, as meaning ‘‘that the work is
generated by computer in circumstances where the author of the work is not an
individual”;
[26] Ant Horn, Creators and the copyright balance: Investigating the
interests of copyright holders, users and creators, Alternative Law
Journal 112
(2004), https://www.researchgate.net/publication/318532855_Creators_and_ the_Copyright_Balance_Investigating_the_Interests_of_Copyright_Holders_Users_and_Creators
[27] P.Bernt Hugenholtz, Joa˜o Pedro Quintais, tlđd, 10
[28] Copyright,
Designs and Patents Act 1988 _CDPA, https://www.legislation.gov.uk/ukpga/1988/48/section/178,.
[29] P. Bernt Hugenholtz, Joa˜o Pedro Quintais, tlđd, 10
[30] P. Bernt Hugenholtz, Joa˜o Pedro Quintais, tlđd, 10
[31] P. Bernt Hugenholtz, Joa˜o Pedro Quintais, tlđd,
10
[32] Jozefien
Vanherpe (2022), tlđd,
3
[33] Jozefien
Vanherpe (2022), tlđd,
3
[34] Olivier and Ines
Banazzouz, https://www.mondaq.com/copyright/1415046/french-national-assembly-proposes-new-law-to-secure-copyright-in-ai, (truy cập lần cuối 22/07/2025)
[35] Quyết định 127/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
26/01/2021 “Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng Trí tuệ
nhân tạo đến năm 2030”
[36] Xem quy
định về tác giả trong: (i) Luật quyền tác giả Hoa Kỳ: U.S. Copyright
Law (Title 17, U.S. Code § 201(a)); (ii)Luật quyền tác giả Nhật Bản: Japanese Copyright Act, Article 2(1)(ii); Đạo
luật Bản quyền, Thiết kế và Sáng chế của Anh: Copyright, Designs and
Patents Act 1988 (CDPA), Section 9(1): Luật Quyền tác giả Đức: Urheberrechtsgesetz (UrhG), § 7; Luật
Sở hữu trí tuệ Pháp: Code de la propriété intellectuelle, art. L111-1
[37] Điều
37, 38 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam
[38] Điều
39 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam
[39] Olivier and Ines
Banazzouz, https://www.mondaq.com/copyright/1415046/french-national-assembly-proposes-new-law-to-secure-copyright-in-ai? (truy cập lần cuối 22/07/2025
[40] Luật số: 71/2025/QH15 “Luật
Công nghiệp Công nghệ số” được Quốc hội khoá 15 thông qua ngày 14/06/2025