Nghiên cứu lý luận

Sử dụng lẽ công bằng để điều chỉnh quan hệ dân sự ở Pháp và khuyến nghị đối với Việt Nam

Ngô Quốc Chiến* - Lê Thị Thu Hạnh* Chủ nhật, 28/09/2025 - 22:22
Nghe audio
0:00

(PLPT) - Ở Việt Nam, lẽ công bằng đã trở thành một nguồn của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, việc áp dụng lẽ công bằng vẫn chưa hiệu quả do các quy định về áp dụng lẽ công bằng còn hẹp cả về chức năng, lĩnh vực và chủ thể áp dụng.

Tóm tắt: Ở Việt Nam, lẽ công bằng đã trở thành một nguồn của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, việc áp dụng lẽ công bằng vẫn chưa hiệu quả do các quy định về áp dụng lẽ công bằng còn hẹp cả về chức năng, lĩnh vực và chủ thể áp dụng. Sử dụng phương pháp so sánh luật học, bài viết sẽ phân tích và đánh giá các quy định và thực tiễn áp dụng các quy định về áp dụng lẽ công bằng trong giải quyết các vụ việc dân sự ở Pháp để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chức năng của lẽ công bằng và chủ thể áp dụng lẽ công bằng.
Từ khóa: Lẽ công bằng, chức năng của lẽ công bằng, áp dụng lẽ công bằng, Pháp, Việt Nam.

Abstract: In Vietnam, equity has become a source of civil law. However, the application of equity is still ineffective because the regulations on the application of equity are narrow in terms of function, field and subject of application. This article will use the comparative legal method to analyze and evaluate the regulations and practices of applying the regulations on the application of equity in resolving civil cases in France to make recommendations for improving Vietnamese law on the function of equity and the subject of application of equity.
Keywords: Equity, function of equity, application of equity, French, Vietnam.

Đặt vấn đề

Sử dụng lẽ công bằng để điều chỉnh các quan hệ pháp luật nói chung và các quan hệ pháp luật dân sự nói riêng là một vấn đề gây nhiều tranh cãi trong khoa học pháp lý và thực tiễn xét xử ở Pháp. Các tranh cãi khá gay gắt chủ yếu xoay quanh hai vấn đề chính, đó là vai trò của lẽ công bằng và cách thức áp dụng lẽ công bằng trong thực tiễn xét xử. Sau rất nhiều tranh luận, dường như giới luật ở Pháp đã đi đến thống nhất về hai chức năng cơ bản của lẽ công bằng, đó là chức năng bổ khuyết và chức năng sửa chữa. Lẽ công bằng đóng vai trò bổ khuyết để lấp đầy các khoảng trống pháp lý khi mà luật của Nhà nước không có quy định. Lẽ công bằng đóng vai trò sửa chữa khi mà luật của Nhà nước có, nhưng hậu quả của việc áp dụng luật lại tạo ra bất công quá hiển nhiên cho đương sự hoặc cho xã hội. Ngoài ra, vai trò chủ thể áp dụng lẽ công bằng cũng được ghi nhận không chỉ cho Tòa án, mà còn được mở rộng sang cho cả trọng tài. Chính vì vậy, việc áp dụng lẽ công bằng đã trở nên thường xuyên hơn trong thời gian qua và đã phát huy hiệu quả tốt trong thực tế, đặc biệt trong lĩnh vực trọng tài ở Pháp .

Để có cơ sở đưa ra khuyến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam, bài viết sẽ sử dụng các phương pháp khảo cứu lịch sử, phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật để làm sáng tỏ các vấn đề sau: Khái niệm, vai trò của lẽ công bằng; Sự ghi nhận lẽ công bằng như một loại nguồn luật được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự và mối quan hệ của nguồn luật này với các nguồn luật khác ở Pháp; Các quy định cụ thể của pháp luật Pháp về áp dụng lẽ công bằng và cơ chế, điều kiện, chủ thể áp dụng lẽ công bằng để điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự.

I. Lẽ công bằng - một loại nguồn luật của pháp luật dân sự

Trước khi trình bày lẽ công bằng như một loại nguồn của pháp luật dân sự Pháp, có lẽ cần phải có một vài dòng trình bày về khái niệm lẽ công bằng, tức là cố gắng làm sáng tỏ các quan niệm, các góc nhìn khác nhau về lẽ công bằng trong xã hội Pháp [1].

1. Khái niệm lẽ công bằng

Lẽ công bằng được người Pháp gọi là “équité” là một khái niệm được nhắc đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu về nguồn gốc của luật.Trong các xã hội phương Tây mà Pháp là một trong số đó, lẽ công bằng có liên quan chặt chẽ tới đạo đức và triết học. Đây là một phạm trù đã được Aristote đặc biệt quan tâm khi ông nhấn mạnh mối quan hệ tương liên tất yếu giữa pháp luật, công lý và lẽ công bằng. Ông cho rằng "Lẽ công bằng có tính chất sửa chữa pháp luật bởi vì pháp luật luôn khuyết thiếu và khái quát”.

Aristote định nghĩa lẽ công bằng là một nguồn sức mạnh sửa chữa các yếu tố bất công của pháp luật cứng nhắc. Không khó hiểu khi mà Aristote chỉ nhấn mạnh đến chức năng sửa chữa của lẽ công bằng, bởi vì thời kỳ Aristote sống, pháp luật được thể hiện bằng các quy tắc cứng nhắc, mệnh lệnh và quyền uy. Theo Aristote, các quy tắc pháp luật cần được chia thành hai loại cơ bản, đó là các quy phạm để bảo vệ trật tự pháp lý và các nguyên tắc cần được áp dụng một cách hợp lý dựa trên tình huống cụ thể. Trên nền tảng tư tưởng này, việc áp dụng chặt chẽ các quy tắc pháp lý công đã được chuyển dần sang các quy tắc nhằm dung hòa các lợi ích tư đối lập nhau nhưng không trực tiếp ảnh hưởng đến trật tự pháp lý công. Bản chất của công bằng là tìm kiếm một sự dung hòa hợp lý giữa các lợi ích đối lập trong từng tình huống cụ thể. Như vậy cần phải tìm ra các quy tắc áp dụng hợp lý để đảm bảo cho giải pháp của phiên tòa có những hậu quả công bằng. Khi công lý trở nên cá nhân hóa, pháp luật trở nên nhẹ nhàng và nhân văn hơn.

Trong hệ thống giải pháp về lẽ công bằng trong thực tiễn xét xử thời La Mã và trong Equity Law của Anh, việc sửa đổi các quy tắc vì lý do công lý giữa các bên đối lập trong các tình huống cụ thể, chủ yếu được dựa trên các cân nhắc về thiện chí và trợ giúp cho người bất hạnh. Theo thời gian, mỗi hệ thống phát triển một hệ thống các nguyên tắc cơ bản theo đó các quyền lợi phải dựa trên bản chất chứ không phải hình thức; pháp luật không thể giúp đỡ kẻ xấu để hoàn thành mưu đồ của họ; các thỏa thuận cần phải được thực hiện một cách tận tâm (pacta sun servanda); các lợi ích thu được do tai nạn hoặc nhầm lẫn phải được phân chia một cách công bằng. Trong thời kỳ La Mã, các quy định về sự kiện và hành vi đã mềm dẻo hơn và được áp dụng linh hoạt hơn trong thực tế. Với sự phát triển như vậy của pháp luật, không còn cần một tập hợp các nguyên tắc riêng biệt để sửa chữa những hậu quả bất công của các luật trong các hoàn cảnh cụ thể; lẽ công bằng và pháp luật, như đã xảy ra trong hầu hết các hệ thống pháp luật, đã hòa trộn vào nhau và lẽ công bằng trở thành một bộ phận không thể tách rời khỏi điều đúng đắn và mọi luật đều phải dựa vào lẽ công bằng. Hầu hết các quốc gia thuộc dòng họ Civil Law đã kế thừa gần như toàn bộ các nguyên tắc về lẽ công bằng và đưa chúng vào luật tới mức thoạt nhìn người ta không còn thấy lẽ công bằng mà chỉ thấy các quy phạm pháp luật.

Saint Thomas d'Aquin, một trong những triết gia thời Trung cổ, khẳng định rằng "công bằng không tách rời khỏi điều tự thân đúng, nhưng có thể khác với điều mà luật cho là đúng" [2]. Từ thế kỷ XII trở đi, các chuyên gia luật học Hội Thánh đã lấy cảm hứng từ những bài viết này và định nghĩa công bằng như một nguồn cảm thông hay lòng từ bi. Tại Pháp, nhiều văn bản của triều đình biểu thị sự không tin tưởng đối với khái niệm này. Ví dụ, Sắc lệnh Blois tháng 5 năm 1579 và sau đó là Sắc lệnh tháng 4 năm 1667 cấm Nghị viên [3] viện dẫn lẽ công bằng khi phân xử.

D'Aguesseau, một nhà lý luận luật học trong thời kỳ Khai sáng, còn khẳng định nếu lẽ công bằng được sử dụng, nó sẽ trở thành "một công cụ quyền lực nguy hiểm của thẩm phán". Trong chiều ngược lại, Jean Bodin, một cố vấn pháp lý thế kỷ XVI, khẳng định rằng "pháp luật mà không có công bằng là một thể xác không có linh hồn". Jean Domat, một chuyên gia pháp lý trong thế kỷ tiếp theo và tác giả của "Các Luật Dân sự", khẳng định rằng "chính sự hiểu biết lẽ công bằng và một cái nhìn rộng mở về tinh thần của luật, phải là nền tảng đầu tiên cho việc sử dụng và giải thích các quy tắc luật trong các hoàn cảnh cụ thể".

Các định nghĩa về lẽ công bằng được đưa ra trong khuôn khổ các nghiên cứu gần đây về áp dụng lẽ công bằng thường nhấn mạnh đến chức năng của lẽ công bằng. Tùy vào góc nhìn mà mỗi người có thể nhấn mạnh đến chức năng này hay chức năng kia của lẽ công bằng. Jacques Derrida, một tác gia đương đại viết: “Để một phán quyết trở nên chính xác thì, vào một thời điểm phù hợp, phán quyết đó vừa phải dựa vào luật vừa phải vi phạm luật, vừa bảo vệ luật vừa phải phá vỡ hoặc đình chỉ luật để, cho từng trường hợp cụ thể, phán quyết đó phải sáng tạo lại luật, chứng minh lại luật; tái tạo luật ít nhất là trong việc khẳng định lại và khẳng định mới một cách tự do trong nguyên tắc luật” [4]. Một số người còn đề xuất một “cách tiếp cận tổng thể” để trả lời câu hỏi về vai trò của lẽ công bằng trong điều chỉnh xã hội [5]. Các cách tiếp cận hậu hiện đại và tổng hợp này nhấn mạnh nhiều hơn đến vai trò sửa chữa của lẽ công bằng.

Nhằm mục đích của bài viết này, chúng tôi sử dụng định nghĩa chung về lẽ công bằng đề xuất bởi Từ điển Thuật ngữ Pháp lý, theo đó “Công bằng là mục tiêu tối cao của pháp luật, đôi khi vượt xa hơn những gì được pháp luật quy định. Công bằng là nguyên tắc bổ khuyết và hiệu chỉnh pháp luật theo đó bất kỳ ai cũng có quyền yêu cầu được đối xử công bằng, bình đẳng và hợp lý” [6].

2. Sự ghi nhận lẽ công bằng là một nguồn luật điều chỉnh quan hệ dân sự

Sử dụng lẽ công bằng để điều chỉnh các quan hệ xã hội là một vấn đề gây nhiều tranh luận, xoay quanh hai vấn đề chính.

Vấn đề thứ nhất – nội hàm của khái niệm lẽ công bằng - gây tranh cãi bởi khái niệm lẽ công bằng không được luật định nghĩa và giới thẩm phán cũng như khoa học pháp lý còn nhiều quan điểm trái chiều, tới mức mà người ta ví cuộc tranh luận về áp dụng lẽ công bằng như “quái vật hồ Loch Ness” [7]. Nhiều tác giả hiện đại và hậu hiện đại đã dụng công nghiên cứu lẽ công bằng với các phương pháp nghiên cứu luật học, triết học, xã hội học, thậm chí kết hợp cả hóa-lý-xã hội-tâm lý-kinh tế, với rất nhiều tác phẩm thuộc tất cả các thể loại, từ sách chuyên khảo, sách giáo trình, luận án đến các bài viết trên tạp chí chuyên ngành và tham luận hội thảo. Nhưng cho tới nay cuộc tranh luận kéo dài xuyên thế kỷ này vẫn chưa có hồi dứt [8].

Vấn đề thứ hai – vai trò của lẽ công bằng - gây tranh cãi là vì các quy định về vai trò của lẽ công bằng trong pháp luật của Pháp không thực sự rõ ràng. Nếu như sử dụng lẽ công bằng để xét xử đã tồn tại từ lâu đời trong các xã hội ở phương Tây với nền tảng tư tưởng của Aristote, thì cách mạng tư sản Pháp năm 1789 lại muốn đoạn tuyệt với phong kiến để xây dựng một nhà nước pháp quyền, nơi mà pháp luật giữ vị trí thượng tôn [9]. Trong không khí hừng hực cách mạng, Pháp muốn đoạt tuyệt với chế độ cũ để xây dựng một xã hội mới với tuyên ngôn “tự do, bình đẳng, bác ái”. Tuy nhiên, nhiều triết gia Pháp thời đó quan niệm bình đẳng không phải là một thứ tồn tại tự nhiên cùng với loài người. Diderot, một triết gia tiền Cách mạng Pháp từng viết trong “Encyclopédie” (Bách khoa thư) năm 1857 như sau: “Trong một nền dân chủ dù hoàn hảo nhất thì sự bình đẳng hoàn toàn giữa các thành viên cũng là điều bất khả”. Quan điểm tương tự cũng xuất hiện ở Emmanuel Siéyès trong tác phẩm “Qu’est-ce que le Tiers État?”[10] trong đó ông nhấn mạnh: “Các lợi quyền mà người dân có là khác nhau và chúng vượt lên trên tính chất công dân của họ. Các bất bình đẳng về sở hữu cũng giống như các khác biệt về tuổi tác, trí tuệ, chiều cao hay cân nặng”. Nói tóm lại, trong quan điểm triết học này, con người sinh ra vốn không bình đẳng và nhờ có Luật mà họ có thể được đối xử bình đẳng với nhau.

Như vậy, nền tảng tư tưởng của trường phái triết học thắng thế thời cách mạng này là bình đẳng (égalité) không phải là một giá trị tự nhiên của mỗi người. Trái lại, bình đẳng chỉ có được nhờ có luật. Khi mà bình đẳng ở thế thượng phong thì cũng là lúc mà công bằng (équité - theo nghĩa phụ thuộc ý chí chủ quan của người xét xử), bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Chính bởi lẽ đó mà Nhà nước sẽ dùng luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội và thẩm phán sẽ bị giới hạn ở việc áp dụng luật. Do công bằng phụ thuộc vào cảm giác chủ quan của người ban phát và trái ngược với sự lạnh lùng của Lý trí, nên trong một nhà nước pháp quyền công bằng chỉ có một vai trò hạn hẹp. Trong nhà nước ấy, không thể có một sự phân xử nào khác tốt hơn sự phân xử dựa trên luật; thẩm phán là “miệng” của Luật [11]. Thẩm phán không phải là Luật, mà là một thực thể bên ngoài Luật, chỉ nhắc lại Luật, tức là người phát ngôn của Luật. Và, khi mà quyền lập pháp được trao cho Nghị viện, một nhánh quyền lực được hình thành trực tiếp từ sự lựa chọn của người dân, thì thẩm phán không được định ra các quy phạm pháp luật. Và lẽ tất nhiên, bản án của tòa không thể trở thành nguồn của Luật.

Tuy nhiên, cuộc cách mạng tư sản Pháp, dù được coi là một cuộc cách mạng tư sản triệt để nhất và có ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng BLDS năm 1804, không khiến lẽ công bằng bị triệt tiêu hoàn toàn. Nguyên tắc thượng tôn pháp luật cũng có ngoại lệ và ngoại lệ đó được quy định chính trong BLDS 1804 cũng như một số văn bản pháp luật khác.

Cụ thể, một số điều luật trong BLDS năm 1804 và BLTTDS cũng như bộ luật hành chính cho phép Thẩm phán sử dụng lẽ công bằng, đó là các Điều 565 về thụ đắc đất đai, Điều 1135 về thực hiện hợp đồng, Điều 1244-1 về ân hạn, Điều 1152 về giảm mức phạt (BLDS), Điều 700 và Điều 1474 về án phí (BLTTDS), Điều 761-1 về án phí hành chính (Bộ luật tố tụng hành chính).

Trong thực tiễn xét xử, thẩm phán Pháp đôi khi đi xa hơn quy định của luật và áp dụng lẽ công bằng vượt ra ngoài khuôn khổ của luật thực định.

II. Chức năng của lẽ công bằng và quan hệ giữa lẽ công bằng với các nguồn luật khác

1. Chức năng của lẽ công bằng

Hiện nay pháp luật Pháp không có bất kỳ điều luật nào định nghĩa lẽ công bằng, cũng như chức năng của lẽ công bằng và mối quan hệ giữa lẽ công bằng với các nguồn luật khác. Tuy vậy, khoa học pháp lý và thực tiễn xét xử cho thấy, lẽ công bằng có hai chức năng cơ bản, đó là chức năng sửa chữa và chức năng bổ khuyết.

1.1. Chức năng sửa chữa

Có lẽ người đầu tiên nhắc đến chứng năng này của lẽ công bằng là Aristote. Theo ông, lẽ công bằng là một phương cách để “sửa chữa luật ở những chỗ mà luật sai lầm”. Ngay cả khi hệ thống pháp luật của một quốc gia ngày càng hoàn thiện thì chức năng này của lẽ công bằng cũng không mất đi, vì bản thân các quy định của luật có thể tạo ra công bằng trong trường hợp này nhưng lại không công bằng trong trường hợp khác, vì đời sống dân sự quá phức tạp và đa dạng.

Có thể dẫn một minh chứng trong lĩnh vực hợp đồng để chứng minh cho kết luận trên. Cụ thể, Điều 1134 của BLDS Pháp 1804 (nay là Điều 1103) quy định hợp đồng được giao kết hợp pháp trở thành luật của các bên và các bên phải thực hiện hợp đồng trên cơ sở thiện chí. Một khi hợp đồng đã trở thành “luật của các bên” thì các bên phải tuân thủ nó. Người ta gọi đây gọi là hiệu lực bất biến của hợp đồng. Trong suốt một thời gian dài, Tòa án Pháp đã giữ vững nguyên tắc này và không cho phép sửa đổi hợp đồng.

Ví dụ, trong án lệ nổi tiếng Kênh đào Craponne ngày 6/3/1876, Tòa tối cao Pháp [12] đã từ chối yêu cầu đánh giá lại mức phí vốn được ấn định từ năm 1560. Theo Tòa, “Trong bất kỳ tình huống nào, Tòa án không được quyền, dù nhân danh lẽ công bằng, tính đến yếu tố thời gian và hoàn cảnh để sửa đổi thỏa thuận của các bên và thay thế các điều khoản mà các bên đã tự do tự nguyện thống nhất bằng các điều khoản mới do Tòa ấn định”.

Tuy nhiên, quan niệm này không còn phù hợp với một thế giới đang ngày càng nhiều biến động như ngày nay. Hoàn cảnh thay đổi có thể làm cho một bên bị quá bất lợi còn bên kia được hưởng lợi. Vì thế, nội dung của một hợp đồng cụ thể đôi khi cần phải được bổ sung bằng một quyết định của tòa án nhân danh lẽ công bằng. Nếu cứ áp dụng nghiêm ngặt luật (hợp đồng là luật của các bên và không thể sửa đổi) thì sẽ gây ra hậu quả quá bất công.

Chính bởi lẽ đó, Điều 1195 BLDS hiện hành đã cho phép Tòa án Pháp, theo yêu cầu của một bên, chấm dứt hợp đồng hoặc sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thực hiện hợp đồng thay đổi và gây ra các bất lợi quá lớn cho một bên. Mặc dù điều luật này không minh thị nhắc tới lẽ công bằng, nhưng theo một tác giả điều luật này mang tinh thần của lẽ công bằng, bởi “lẽ công bằng đòi hỏi rằng hợp đồng phải tạo ra lợi ích cân bằng tối thiểu cho các bên. Thẩm phán sẽ dựa vào sự cân bằng này để chấm dứt hoàn cảnh bất lợi hoặc điều chỉnh hợp đồng để tái cân bằng” [13].

1.2. Chức năng bổ khuyết

Với chức năng này, lẽ công bằng sẽ bổ khuyết cho luật. Luật điều chỉnh hành vi của con người, mà hành vi của con người thì lại đặc biệt đa dạng nên luật có thể khuyết thiếu. Ngoài ra, luật là kết tinh ý chí của Nhà nước vào một thời điểm nhất định, nên luôn có tính khuyết thiếu hoặc chậm trễ so với sự biến động của cuộc sống. Vì vậy, luật cần được bổ khuyết bằng lẽ công bằng. Một minh chứng là Điều 700 BLTTDS cho phép tòa án tuyên bên thua kiện phải trả cho bên thắng kiện một khoản bồi thường tương ứng với các chi phí không nằm trong các khoản phí tòa. Mục đích của điều khoản này là để khắc phục sự mất cân đối kinh tế giữa các bên tranh tụng, bằng cách trao cho tòa án quyền đánh giá tính không công bằng của tình huống hoặc quá nghiêm khắc đối với một bên.

Nội dung của hợp đồng cũng có thể được bổ sung bằng một quyết định của tòa án được đưa ra dựa trên lẽ công bằng. Tòa án sử dụng lẽ công bằng không còn nhằm chỉnh sửa tính khô cứng và nghiêm ngặt của các điều khoản hợp đồng mà là để bổ khuyết cho chúng. Chính nhằm mục đích này mà các bên bị ràng buộc không chỉ bởi những gì họ đã giao kết với nhau mà còn bởi “tất cả các yêu cầu của sự công bằng, thông lệ hoặc pháp luật" (Điều 1135 BLDS 1804 và Điều 1194 BLDS hiện hành).

2. Quan hệ giữa lẽ công bằng với các nguồn luật khác

Như đã phân tích ở trên, hiện nay pháp luật Pháp không có bất kỳ điều luật nào định nghĩa lẽ công bằng, cũng như chức năng của lẽ công bằng và mối quan hệ giữa lẽ công bằng với các nguồn luật khác. Tuy nhiên, từ Điều 12 và các điều luật khác (nội dung cụ thể sẽ được trình bày ở dưới đây) có thể khẳng định rằng lẽ công bằng vừa có mối quan hệ loại trừ vừa có mối quan hệ tương liên với các nguồn luật khác.

Cụ thể, lẽ công bằng và các nguồn luật khác có quan hệ loại trừ khi luật quy định những trường hợp cụ thể thẩm phán được áp dụng lẽ công bằng. Điều này có nghĩa là trong các trường hợp không được minh thị quy định thì thẩm phán sẽ phải áp dụng luật chứ không được áp dụng lẽ công bằng.

Lẽ công bằng và các nguồn luật khác có mối quan hệ tương liên khi luật minh thị quy định thẩm phán vừa áp dụng luật vừa áp dụng lẽ công bằng trong các tình huống cụ thể; hoặc khi luật hoàn toàn không có quy định trong một tình huống cụ thể.

III. Các quy định về áp dụng lẽ công bằng để điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự

Ở Pháp, bên cạnh các quy định minh thị trao quyền cho thẩm phán áp dụng lẽ công bằng thì còn có các quy định ngầm suy dựa vào đó tòa án áp dụng lẽ công bằng.

1. Các quy định minh thị về áp dụng lẽ công bằng để điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự cụ thể

Hiện nay, trong hệ thống luật tư của Pháp có một số điều luật sau quy định trao quyền cho thẩm phán áp dụng lẽ công bằng:

Thứ nhất, thẩm phán áp dụng lẽ công bằng để giải quyết vấn đề quyền phụ thêm đối với động sản. Cụ thể, Điều 565 BLDS Pháp quy định: “Nếu hai vật là động sản thuộc hai chủ sở hữu khác nhau thì quyền phụ thêm hoàn toàn phụ thuộc vào các nguyên tắc công bằng tự nhiên. Những quy định sau đây được dùng làm ví dụ tham khảo cho tòa án quyết định trong những trường hợp cụ thể khi không có quy định điều chỉnh của pháp luật [các điều 566-577].

Thứ hai, thẩm phán áp dụng lẽ công bằng để giải quyết vấn đề đồng thừa kế di sản đã cải tạo tài sản chưa chia. Cụ thể, Điều 815-13 BLDS Pháp quy định: “Trong trường hợp một đồng thừa kế di sản chưa chia đã cải tạo tài sản thuộc di sản đó bằng chi phí của mình, thì theo nguyên tắc công bằng, những chi phí đó sẽ được tính đến khi chia hoặc chuyển nhượng di sản tương ứng với phần giá trị được tăng thêm. Quy định này cũng áp dụng với những chi phí cần thiết do người đó tự bỏ ra để bảo quản các tài sản đó. Ngược lại, đồng thừa kế di sản chưa chia phải chịu trách nhiệm cho tình trạng xuống cấp và hư hại làm giảm giá trị của tài sản do hành vi hoặc do lỗi của mình gây ra”.

Thứ ba, thẩm phán áp dụng lẽ công bằng để xác định hệ quả pháp lý của hợp đồng. Cụ thể, Điều 1194 BLDS Pháp quy định: “Hợp đồng có hiệu lực không chỉ đối với những gì được thể hiện trong hợp đồng mà còn đối với tất cả các yêu cầu của sự công bằng, thông lệ hoặc pháp luật”.

Thứ tư, thẩm phán áp dụng lẽ công bằng trong việc xác định giá tài sản chung của vợ chồng khi chấm dứt quan hệ hôn nhân. Cụ thể, Điều 1579 BLDS Pháp quy định: “Nếu việc áp dụng các nguyên tắc về định giá quy định tại điều 1571 và 1574 đem lại kết quả không công bằng thì tòa án có thể quyết định cho miễn áp dụng các nguyên tắc này theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng”.

Thứ năm, thẩm phán áp dụng lẽ công bằng để xác định mức trợ cấp bù trừ sau khi li hôn. Cụ thể, Điều 278 BLDS Pháp quy định: “Trong trường hợp thuận tình ly hôn, vợ chồng sẽ xác định mức trợ cấp bù trừ và phương thức thanh toán trợ cấp trong thỏa thuận lập dưới hình thức văn bản ký tư có chữ ký của các luật sư, hoặc thỏa thuận giữa hai vợ chồng để yêu cầu thẩm phán phê chuẩn. Vợ chồng có thể thỏa thuận về các trường hợp chấm dứt thanh toán trợ cấp bù trừ. Trợ cấp bù trừ có thể là trợ cấp nhiều lần có thời hạn. Tuy nhiên, thẩm phán có thể không phê chuẩn thỏa thuận giữa hai vợ chồng nếu thỏa thuận này quy định không công bằng các quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng”.

Thứ sáu, thẩm phán áp dụng lẽ công bằng trong việc xác định án phí và các chi phí tố tụng dân sự khác. Cụ thể, Điều 700 BLTTDS Pháp quy định: “Thẩm phán tuyên buộc bên thua kiện phải trả: 1° cho bên kia khoản tiền mà thẩm phán quyết định, phù hợp với các thiệt hại thực tế và không bao gồm chi phí tố tụng; 2° và, trường hợp cần thiết, cho luật sư của bên được trợ giúp pháp lý một phần hoặc toàn bộ số tiền phí luật sư và các chi phí liên quan, không bao gồm chi phí tố tụng, mà bên thụ hưởng trợ giúp đã phải trả nếu như không được hưởng sự trợ giúp này. Trong trường hợp này, thẩm phán tiến hành đánh giá theo các quy định tại khoản 3 và 4 điều 37 Luật số 91-647 ngày 10 tháng 7 năm 1991. Trong mọi trường hợp, thẩm phán tính đến lẽ công bằng hoặc hoàn cảnh kinh tế của bên bị kết án. Vì những lý do công bằng và kinh tế mà thẩm phán có thể tuyên bố không cần đưa ra các tuyên phạt trên” [14].

2. Các quy định ngầm suy về áp dụng lẽ công bằng để điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự

Ngoài những quy định minh thị nhắc đến lẽ công bằng như trên, một số điều luật khác cũng cho phép suy đoán quyền của thẩm phán áp dụng lẽ công bằng.

Ví dụ, Điều 1195 quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, theo đó “Nếu sự thay đổi của hoàn cảnh không lường trước được tại thời điểm giao kết hợp đồng làm cho chi phí thực hiện hợp đồng đối với một bên tăng lên quá mức mà bên đó không chấp nhận gánh chịu rủi ro thì có quyền yêu cầu đàm phán lại hợp đồng với bên ký kết kia. Bên yêu cầu đàm phán lại hợp đồng phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thời gian đàm phán lại hợp đồng. Trong trường hợp việc đàm phán lại bị từ chối hoặc không thành công thì các bên có thể thỏa thuận hủy bỏ hợp đồng vào ngày và theo các điều kiện do mình xác định, hoặc các bên cũng có thể thỏa thuận yêu cầu tòa án điều chỉnh hợp đồng cho phù hợp. Nếu các bên không thỏa thuận được trong thời hạn hợp lý, tòa án có thể, theo yêu cầu của một trong các bên, điều chỉnh lại hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo các điều kiện do mình ấn định”. Quy định này được cho là tham khảo quy định của Bộ nguyên tắc châu Âu về pháp luật hợp đồng (PECL), trong đó Điều 6 quy định minh thị về sửa đổi hợp đồng, phân bổ chi phí dựa trên lẽ công bằng [15]. Tương tự, Điều 1171 BLDS Pháp quy định rằng trong hợp đồng gia nhập, mọi điều khoản tạo ra sự mất cân đối đáng kể giữa quyền và nghĩa vụ của các bên đều vô hiệu.

Liên quan đến bồi thường thiệt hại, “khi thỏa thuận quy định rằng bên vi phạm nghĩa vụ phải trả một khoản tiền bồi thường thì thẩm phán phải buộc bên vi phạm trả cho bên bị vi phạm đúng số tiền đó không hơn, không kém. Tuy nhiên, thẩm phán được quyền tự mình điều chỉnh giảm hoặc tăng số tiền so với các bên đã thỏa thuận nếu số tiền đó rõ ràng quá cao hoặc quá thấp. Mọi thỏa thuận ngược lại đều vô hiệu” (Điều 1152 BLDS).

Cuối cùng, liên quan đến mức phạt quá cao, thẩm phán có thể hoãn hoặc giãn việc trả nợ tối đa hai năm cho người mắc nợ trên cơ sở “tính đến hoàn cảnh của người mắc nợ”. Ngoài ra, thẩm phán cũng có thể quyết định rằng số tiền trả chậm có thể được giảm lãi suất, nhưng không thấp hơn mức lãi suất tối thiểu luật định (Điều 1244-1 BLDS). Tuy nhiên quy định này đã bị bãi bỏ bởi Lệnh số 2016-31 ngày 10 tháng 2 năm 2016 điều 2-ban hành Luật số 91-650 ngày 9 tháng 7 năm 1991.

Tuy các điều luật trên không minh thị nhắc đến lẽ công bằng nhưng các báo cáo giải trình cũng như các nhà bình luận đều cho rằng các điều luật trên thể hiện sự công bằng [16].

IV. Chủ thể áp dụng lẽ công bằng để điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự

Hiện nay, ở Pháp có hai chủ thể có thể áp dụng lẽ công bằng, đó là tòa án và trọng tài. Tùy từng chủ thể áp dụng mà các điều kiện áp dụng sẽ khác nhau

1. Tòa án áp dụng lẽ công bằng

Thoạt nhìn, Tòa án Pháp sẽ chỉ áp dụng lẽ công bằng trong trường hợp luật có quy định minh thị cho Tòa án áp dụng lẽ công bằng. Tuy nhiên, trong thực tế, một số Tòa án Pháp đã đi xa hơn văn bản và áp dụng lẽ công bằng ngay cả khi luật không quy định minh thị.

1.1. Khi luật có quy định minh thị

Trong hệ thống pháp luật Pháp, về nguyên tắc, khi xét xử thẩm phán chỉ được dựa vào luật, không dựa vào lẽ công bằng, bởi Điều 12 BLDS quy định "thẩm phán giải quyết tranh chấp theo các quy định của luật […]". Thẩm phán chỉ áp dụng lẽ công bằng trong các trường hợp cụ thể khi luật quy định rằng trong các trường hợp đó thẩm phán được áp dụng lẽ công bằng. Ngoài những trường hợp đó, thẩm phán chỉ có thể áp dụng quy định của luật, không thể bỏ qua luật để viện dẫn lẽ công bằng, ngay cả khi áp dụng các quy định đó dẫn tới hậu quả không công bằng. Tòa án tư pháp tối cao Pháp đã nhiều lần hủy các bản án của tòa phúc thẩm viện dẫn lẽ công bằng.

Ví dụ: Trong một tranh chấp liên quan đến tiền lương trong thời gian làm việc vào ngày nghỉ lễ, một tòa lao động đã chấp nhận yêu cầu của người lao động trả cho mình mức lương tăng thêm 100% dựa trên nguyên tắc công bằng. Quyết định này đã bị Tòa tối cao hủy vì người lao động làm việc vào ngày lễ chỉ được hưởng lương thường, trừ trường hợp hợp đồng lao động cá biệt hoặc thỏa ước lao động tập thể có quy định khác. Tòa Tối cao đã bác mọi lập luận chỉ dựa vào lẽ công bằng hoặc một giải pháp công bằng và kết luận rằng lẽ công bằng không thể trở thành một “nguồn của luật” [17].

Như vậy, khi luật không quy định về áp dụng lẽ công bằng thì về nguyên tắc thẩm phán không áp dụng lẽ công bằng.

1.2. Khi luật không có quy định

Số các điều luật cho phép thẩm phán viện dẫn lẽ công bằng không nhiều và thực tế cho thấy thẩm phán ngầm sử dụng lẽ công bằng.

Như luật sư nổi tiếng Jean-Denis Bredin đã khẳng định: "Mọi phán quyết, ngay cả khi rõ ràng dựa vào các quy định của luật thì trước hết vẫn là một phán quyết về công bằng”.

Thực tế cho thấy trong khá nhiều trường hợp thẩm phán có vẻ tuân thủ tôn trọng sự thượng tôn của pháp luật, nhưng thực chất lại phán quyết theo lẽ công bằng. Về nguyên tắc, thẩm phán phải tuân thủ cách tư duy logic bắt đầu bằng việc xác định sự kiện pháp lý, sau đó xác định quy định pháp luật cần áp dụng và cuối cùng là đưa ra kết luận.

Tuy nhiên, thực tế đôi khi đã cho thấy điều ngược lại. Trong thực tiễn xét xử, một số thẩm phán có thể bắt đầu bằng việc nhận định rằng áp dụng nghiêm ngặt luật sẽ trái với điều mà ông ta cho là công bằng. Trong khá nhiều vụ việc, thẩm phán xuất phát từ giải pháp mà dựa vào trực quan thẩm phán thấy là đúng và công bằng và sau đó mới áp dụng các lập luận logic truyền thống khi viết án. Có tác giả đã bình luận thực tế xét xử này bằng câu nói: “Tòa án đã khoác lên lẽ công bằng bộ y phục pháp lý mà luật đòi hỏi” [18].

Một ví dụ về sự do dự của các thẩm phán Pháp trong việc đưa ra quyết định dựa trên nguyên tắc công bằng là án lệ Giry. Cụ thể, bác sĩ Giry được cảnh sát tư pháp triệu tập đến một khách sạn để chữa trị cho một số khách đang lưu trú tại đó đang bị ngạt thở. Trong quá trình cứu chữa, bác sĩ đã bị thương do một vụ nổ xảy ra tại khách sạn mà không xác định được nguyên nhân. Sau đó, bác sĩ Giry đã kiện Chính phủ Pháp ra trước Toà án sơ thẩm Seine để đòi bồi thường thiệt hại. Tòa đã không tìm thấy bất kỳ quy định nào của pháp luật có liên quan đến vấn đề cần giải quyết, nhưng đã đưa ra quyết định có lợi cho bác sĩ Giry. Tòa phúc thẩm Paris nhận thấy quyết định phù hợp với các nguyên tắc công bằng nhưng không thấy có cơ sở pháp lý, vì bản thân luật của Pháp không có quy định. Tòa đã nhận định rằng các khuyết thiếu của luật không thể được lấp đầy bằng các lý do về lẽ công bằng, bởi lẽ công bằng không phải là một nguồn của luật. Sau đó, Tòa phúc thẩm đã đưa ra kết luận tương tự như tòa Sơ thẩm nhưng dựa trên Điều 1384 BLDS theo đó, người nào đang chiếm hữu một vật thì phải có trách nhiệm đối với vật đó. Vụ nổ xảy ra trong quá trình cảnh sát đang phong tỏa khách sạn vì vậy chính phủ phải có trách nhiệm. Chắc chắn rằng những người soạn thảo BLDS không có ý định áp dụng các quy định của điều 1384 cho một tình huống giống như vụ Giry.

Vụ việc sau đó được đưa lên Tòa tư pháp tối cao [19]. Tòa tư pháp tối cao đã không chấp nhận cách giải thích của Tòa phúc thẩm nhưng chấp nhận phán quyết của Tòa phúc thẩm vì, khi tranh chấp liên quan đến trách nhiệm của Nhà nước thì các tòa án tư pháp có thể áp dụng các quy định của công pháp do hệ thống tòa hành chính thiết lập.

Có một điểm đáng lưu ý trong vụ việc này là, trước Tòa phúc thẩm, Đại biện hộ Dupin đã biện luận rằng người ta không thể chấp nhận rằng những gì đúng ở Tòa hành chính lại có thể sai ở Tòa tư pháp. Khi giải quyết vấn đề này, Tòa tư pháp chấp nhận sự khác biệt giữa hai hệ thống tài phán liên quan đến trách nhiệm nhà nước để bảo vệ quan niệm luật không tự thân đủ, mà trái lại phải được bổ khuyết bằng lẽ công bằng.

Bình luận vụ việc này, một tác giả kết luận rằng công nhận các nguyên tắc công bình, vốn là nền tảng của các hệ thống pháp luật của thế giới văn minh, đòi hỏi phải thiết lập một mối liên kết chung giữa các hệ thống luật tư và luật công, xóa bỏ ranh giới công - tư sao cho trong mọi phán quyết đều phải có dấu ấn của lẽ công bằng. Một cách rộng hơn, pháp luật chỉ nên tồn tại dưới dạng các nguyên tắc chung, phổ quát để cung cấp các phương tiện kết nối các giai tầng trong một xã hội, thậm chí giữa các quốc gia với nhau, giữa các lý tưởng về trật tự xã hội, tiến bộ và công bằng, chung cho tất cả các xã hội văn minh bởi vì chúng bắt nguồn từ những khát vọng sâu xa của loài người [20].

2. Trọng tài áp dụng lẽ công bằng

Nhằm mục đích biến Pháp trở thành địa điểm giải quyết được ưa thích bởi giới doanh nhân trên toàn thế giới, Pháp là nước có hệ thống pháp luật ủng hộ mạnh mẽ trọng tài. Sự ủng hộ này được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó có vấn đề áp dụng các nguồn luật để giải quyết tranh chấp. Khác với thẩm phán chỉ áp dụng lẽ công bằng khi luật có quy định trong các tình huống cụ thể, trọng tài được quyền áp dụng lẽ công bằng khi được các bên trao quyền.

Người Pháp sử dụng hai thuật ngữ là “amiable compositeur” để chỉ trường hợp trọng tài viên áp dụng lẽ công bằng và “amiable composition” là cơ chế cho phép trọng tài áp dụng lẽ công bằng.

Đây được coi là một sản phẩm của pháp luật Pháp, lần đầu tiên được phát triển trong BLDS năm 1804 và sau này ở BLTTDS năm 1806 theo đó trọng tài áp dụng lẽ công bằng khi các bên trao cho trọng tài quyền sử dụng lẽ công bằng để phân xử tranh chấp giữa họ. Khi trọng tài xét xử theo lẽ công bằng, người ta gọi trọng tài là “amiable compositeur”, còn quy định về cơ chế trong đó trọng tài xét xử theo lẽ công bằng được gọi là “amiable composition”. Khi trọng tài là “amiable compositeur”, trọng tài sẽ dựa trên quan điểm về lẽ công bằng của mình, tách khỏi việc áp dụng nghiêm ngặt các quy định của pháp luật [21]. Trọng tài sẽ đưa ra phán quyết dựa trên sự hợp tình, hợp lý. Ngoài ra, cơ chế amiable composition cho phép trọng tài thay đổi các điều khoản trong hợp đồng nếu sự thay đổi đó là phù hợp và không trái với chính sách công [22].

Nguồn gốc của amiable composition ở Pháp khởi nguồn từ giữa thế kỷ XIII [23]. Tuy nhiên, phải cho đến thế kỷ XVIII, khi ranh giới giữa người hòa giải (amiabilis compositor) và trọng tài (arbitrator) đã trở nên mờ nhạt, Chính phủ Pháp đã ra quyết định rằng Trọng tài cũng có thể đưa phán quyết dựa trên lẽ công bằng thay vì chỉ có thể hoàn toàn dựa vào quy định pháp luật như trước đây [24]. Điều 1497 BLTTDS Pháp quy định: “Trọng tài ra phán quyết dựa theo lẽ công bằng nếu thỏa thuận của các bên trao nhiệm vụ này cho họ”. Sau sửa đổi lớn vào năm 2011, BLTTDS Pháp lần lượt quy định tại Điều 1478 (đối với trọng tài trong nước) và Điều 1512 (đối với trọng tài quốc tế, tức là trọng tài xét xử cách tranh chấp có yếu tố nước ngoài) rằng “Tòa trọng tài giải quyết tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật, trừ khi các bên đã trao cho họ nhiệm vụ giải quyết theo lẽ công bằng” (Điều 1478) và “Tòa trọng tài giải quyết theo lẽ công bằng nếu các bên đã trao cho họ nhiệm vụ này” (Điều 1512). Với quy định nêu trên, khi sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các bên có thêm niềm tin rằng, tranh chấp của họ sẽ được giải quyết không chỉ bởi việc áp dụng các quy định pháp luật khô cứng, nghiêm ngặt mà còn được xem xét theo nhiều khía cạnh khác nhau và phán quyết đưa ra dựa trên sự tổng hợp các suy xét hợp lý, và tất nhiên là, vẫn phù hợp với các nguyên tắc chung của xã hội.

Xu hướng ủng hộ trọng tài áp dụng lẽ công bằng đang phát triển rất mạnh tại Pháp. Chúng ta thấy rõ sự ủng hộ này khi đối chiếu các điều luật về trọng tài áp dụng lẽ công bằng ở các thời kỳ khác nhau. Nếu như theo quy định năm 1981, cần có “thỏa thuận của các bên”, thì cụm từ này đã không được giữ lại trong phiên bản năm 2011. Thay vào đó là “nếu các bên trao” cho trọng tài khả năng này. Sự thay đổi này có hệ quả làm nhẹ cách thức trao cho tòa trọng tài nhiệm vụ giải quyết tranh chấp theo lẽ công bằng ở hai điểm. Thứ nhất, liên quan tới hành vi trao quyền áp dụng lẽ công bằng, đó có thể là thỏa thuận trọng tài hay bất kỳ hành vi nào khác, ngay cả trọng tài vụ việc. Thứ hai, liên quan đến thời điểm lựa chọn trao cho trọng tài nhiệm vụ áp dụng lẽ công bằng, việc đơn giản hóa này cho phép các bên yêu cầu tòa trọng tài giải quyết theo lẽ công bằng ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng và bao gồm cả việc chuyển nhiệm vụ ban đầu là áp dụng pháp luật sang nhiệm vụ áp dụng lẽ công bằng.

V. Khuyến nghị đối với Việt Nam

Trên cơ sở phân tích việc áp dụng lẽ công bằng để điều chỉnh các quan hệ dân sự ở Pháp nêu trên, chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị sau:

Thứ nhất, pháp luật Việt Nam nên mở rộng chức năng của lẽ công bằng. Áp dụng lẽ công bằng để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội không phải là một việc mới mẻ ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới [25], trong đó có Pháp. Sở dĩ áp dụng lẽ công bằng được nhắc tới nhiều trong thời gian gần đây là vì chúng ta đã ý thức rõ ràng hơn về sự luôn khuyết thiếu của pháp luật. Nhà làm luật, dù có tài giỏi đến đâu, cũng không thể lường trước được tất cả những tình tiết có thể phát sinh trong đời sống xã hội. Đã thế, pháp luật Việt Nam lại là pháp luật thành văn, tức là ý chí của nhà làm luật được kết tinh trong các điều luật và ý chí đó bị “đóng khung” ở một thời điểm nhất định, trong khi cuộc sống lại diễn ra và thay đổi không ngừng nghỉ. Ngoài ra, còn phải nhắc thêm rằng tiếp cận công lý là một quyền Hiến định [26] cần được thực thi trong thực tế. Chính trong bối cảnh đó đã ra đời quy định về nghĩa vụ xét xử của Tòa án ngay cả khi chưa có luật hoặc luật không đủ rõ [27]. Nghĩa vụ này được cụ thể hóa tại khoản 2, Điều 14 BLDS năm 2015, theo đó “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đây cũng là một nguyên tắc Hiến định, được cụ thể hóa tại khoản 2, Điều 103 Hiến pháp năm 2013. Vậy làm thế nào để thẩm phán “chỉ tuân theo pháp luật” khi mà không có điều luật cụ thể để áp dụng? Câu trả lời nằm trong câu thứ hai trong khoản 2 của Điều 14 BLDS năm 2015: “Trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng”.

Trong danh sách các nguyên tắc được liệt kê tại Điều 5 và Điều 6 BLDS năm 2015, chúng ta thấy lẽ công bằng. Như vậy, áp dụng lẽ công bằng đã trở thành một nguyên tắc luật định trong giải quyết tranh chấp dân sự. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng áp dụng lẽ công bằng chỉ là một giải pháp cuối cùng khi các giải pháp khác không phát huy tác dụng. Nói cách khác, tuy đã ghi nhận việc áp dụng lẽ công bằng trong giải quyết tranh chấp dân sự, nhưng sự ghi nhận này còn “dè dặt”.

Tất nhiên, sự dè dặt này có những lý do của nó. Một trong những lý do có thể là sự thiếu rõ ràng của khái niệm này. Đây cũng là thực trạng chung của nhiều nước trên thế giới: có quy định về áp dụng lẽ công bằng nhưng không định nghĩa thế nào là lẽ công bằng. Có lẽ do tính phức tạp và dễ biến động của khái niệm này mà pháp luật của Pháp (cũng như của nhiều nước) “im lặng” và trao quyền cho thẩm phán xác định thế nào là lẽ công bằng trong các tình huống cụ thể. Ở Việt Nam, khoản 3 Điều 45 BLTTDS năm 2015 đã đưa ra chỉ dẫn theo đó “Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó”. Bản thân chỉ dẫn này cũng chưa đủ để xác định lẽ công bằng trong mọi tình huống. Vì vậy, chúng ta sẽ chỉ có câu trả lời khi xem xét các hoàn cảnh cụ thể. Trong quá trình xác định thế nào là lẽ công bằng, thẩm phán vừa phải lắng nghe niềm tin nội tâm vừa phải đo lường lòng người. Đây là các cân nhắc rất khó khăn.

Nhưng dù khó thì việc áp dụng lẽ công bằng để giải quyết tranh chấp vẫn là việc cần thiết và Tòa án vẫn sẽ phải thực hiện nhiệm vụ của mình. Kinh nghiệm của Pháp cho thấy, Tòa án không chỉ áp dụng lẽ công bằng khi được luật trao quyền, mà còn có thể áp dụng lẽ công bằng (nhưng không viện dẫn) kể cả khi luật không cho phép. Thẩm phán Pháp áp dụng lẽ công bằng không chỉ để bổ khuyết cho luật mà còn để khắc phục nhược điểm của luật.

Về khái niệm lẽ công bằng, pháp luật của Pháp không đưa ra định nghĩa mà trao quyền cho cơ quan xét xử (thẩm phán, trọng tài) tự mình xác định dựa vào các tình tiết cụ thể của tranh chấp. Định nghĩa lẽ công bằng, tức là trao cho nó một nghĩa cụ thể và không đổi, sẽ là không phù hợp khi mà chức năng của nó là làm cho pháp luật phù hợp với xã hội vốn thay đổi. Một khi đã tin tưởng cho thẩm phán, trọng tài áp dụng lẽ công bằng thì cũng phải tin tưởng, đặt niềm tin vào họ trong việc xác định thế nào là lẽ công bằng trong các trường hợp cụ thể.

Thứ hai, pháp luật Việt Nam nên mở rộng chủ thể có quyền áp dụng lẽ công bằng. Hiện nay, hai phương thức giải quyết tranh chấp dân sự được sử dụng phổ biến đó là Tòa án quốc gia và trọng tài thương mại. Tuy nhiên, các điều luật của Việt Nam hiện hành quy định về áp dụng lẽ công bằng chỉ nhắc đến thẩm quyền của Tòa án, chứ không nhắc đến trọng tài. Nói cách khác, nếu chỉ dựa vào câu chữ của điều luật thì chỉ có tòa án quốc gia mới có thẩm quyền áp dụng lẽ công bằng và trọng tài không có quyền này. Cần lưu ý rằng, ngay cả ở một số nước, từ “tribunal” được dùng chung để chỉ tòa án quốc gia và tòa án trọng tài thì trọng tài cũng không chắc chắn có thẩm quyền áp dụng lẽ công bằng. Trong quá trình sửa đổi Luật Trọng tài thương mại, chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm của Pháp để bổ sung quy định về trao quyền cho trọng tài áp dụng lẽ công bằng, theo đó khi các bên thỏa thuận trao quyền cho trọng tài áp dụng lẽ công bằng thì hội đồng trọng tài áp dụng lẽ công bằng mà không phải áp dụng các quy định của luật. Sự thỏa thuận của các bên về áp dụng lẽ công bằng (thay cho luật) có thể thể hiện thông qua nhiều dạng thức khác nhau (trong thỏa thuận trọng tài hoặc trong một văn bản riêng rẽ) và ở nhiều thời điểm khác nhau (vào thời điểm xác lập thỏa thuận trọng tài, hoặc vào thời điểm phát sinh tranh chấp). Tuy nhiên, để việc trao thẩm quyền cho trọng tài áp dụng lẽ công bằng sẽ không làm phát sinh rủi ro trọng tài lạm dụng thì chúng ta cần có cơ chế kiểm soát trọng tài thông qua các quy định về trách nhiệm của trọng tài viên mà theo chúng tôi cũng cần được quy định rõ ràng hơn trong các văn bản pháp luật có liên quan, đặc biệt là trong Luật trọng tài thương mại [28].

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. André-Jean Arnaud, Entre modernité et mondialisation – Cinq leçons d’histoire de la philosophie du droit et de l’État (Giữa hiện đại và toàn cầu hóa-Năm bài học lịch sử của triết học pháp luật và Nhà nước pháp quyền), L.G.D.J., coll. Droit et société, 1997.

2. Ahmet Cemil Yildirim, “Amiable Composition in International Arbitration” (Xét xử theo lẽ công bằng trong trọng tài thương mại quốc tế), Journal of Arbitration Studies, số 24/2014.

3. Ngô Quốc Chiến, “Quyền tiếp cận công lý của công dân và nghĩa vụ xét xử của Tòa án”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3 (335), tháng 3 (2016).

4. Ngô Quốc Chiến, Lê Thị Thu Hạnh, “Trách nhiệm của Trọng tài viên dưới góc nhìn so sánh pháp luật và gợi ý cho Việt Nam” trong Hội thảo khoa học Quốc gia “Hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển” do Trường Đại học Kinh tế-Đại học Đà Nẵng tổ chức ngày 6/9/2024, ISBN: 978-604-79-4644-0.

5. Nguyễn Đăng Dung, “Vai trò bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Tòa án theo Hiến pháp năm 2013” trong sách “THỰC HIỆN CÁC QUYỀN HIẾN ĐỊNH TRONG HIẾN PHÁP NĂM 2013”, NXB HỒNG ĐỨC, TR. 744 (2015).

6. ĐỖ VĂN ĐẠI, PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ, NXB. HỒNG ĐỨC (2022).

7. Emmanuel Siéyès, Qu’est-ce que le Tiers État?, PUF, Col. Quadrige (1982).

8. Jean-Claude Monier, A propos de deux textes de Portalis (Bàn thêm về hai bài viết của Portalis), Revue Histoire de la Justice, n° 11 (1998).

9. J. Derrida, Force de la loi, Le fondement mystique de l’autorité (Sức mạnh của Luật, nền tảng huyền bí của quyền uy), éd. Galilée (1994).

10. Đào Bá Minh, “Quá trình hình thành và phát triển nguồn luật lẽ công bằng trong pháp luật dân sự trên thế giới - Kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 391, tháng 10 (2023).

11. Newman Ralph A, “La nature de l'équité en droit civil » (Bản chất của lẽ công bằng trong pháp luật dân sự), Revue internationale de droit comparé, Vol. 16 N°2, Avril-juin (1964).

12. Pavia Marie-Luce, “Remarques méthodologiques autour du retour de l’équité dans le jugement” (Triết luận phương pháp về lẽ công bằng trong xét xử), Revue interdisciplinaire d'études juridiques, volume 4, (2001).

13. PIETER SANDERS, INTERNATIONAL COMMERCIAL ARBITRATON (TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ), SPRINGER NETHERLANDS (1960).

14. Phùng Trung Tập, “Áp dụng lẽ công bằng để giải quyết tranh chấp dân sự”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 01 (401), tháng 01/2020.

15. Yves Letartre, Le juge et l’équité:mythe ou réalité ? (Thẩm phán và lẽ công bằng: Ảo hay Thật?). URL: https://adekwa-avocats.com/juge-lequite-mythe-realite. [truy cập ngày 22/6/2024].

16. Tòa Lao động-Tòa tối cao Pháp (Cass.soc, 24 janvier 1985, 82-41.635, Bulletin 1985 V N. 62 p. 43).

17. Tòa dân sự - Tòa tối cao Pháp (Cass., civ. 2, 23/11/1956, 56-11.871, Bulletin, no 626 p. 407.

18. Tòa dân sự-Tòa tối cao Pháp (Cass., Civ., 6 mars 1876)

[*] PGS, TS, giảng viên Trường Đại học Ngoại thương. Email: ngoquocchien@ftu.edu.vn

[*] ThS, NCS Luật Kinh tế Trường Đại học Ngoại thương. Email: hanhlethu3377@gmail.com

[1] Xem Pavia Marie-Luce, “Remarques méthodologiques autour du retour de l’équité dans le jugement” (Triết luận phương pháp về lẽ công bằng trong xét xử), Revue interdisciplinaire d'études juridiques, /1 (Volume 46), p. 111-139 (2001).

[2] Trích lại từ: Yves Letartre, Le juge et l’équité:mythe ou réalité ? (Thẩm phán và lẽ công bằng: Ảo hay Thật?). URL: https://adekwa-avocats.com/juge-lequite-mythe-realite. [truy cập ngày 22/6/2024].

[3] Parlement- thời đó có chức năng xét xử.

[4] J. Derrida, Force de la loi, Le fondement mystique de l’autorité (Sức mạnh của Luật, nền tảng huyền bí của quyền uy), éd. Galilée, p. 51 (1994).

[5] Pavia Marie-Luce, tlđd, p. 111-139.

[6] Phiên bản online. Xem mục từ Équité. Có thể xem được tại: https://www.dictionnaire-juridique.com/definition/equite.php#:~:text=L'%22%C3%A9quit%C3%A9%22%20est%20le,traitement%20juste%2C%20%C3%A9galitaire%20et%20raisonnable. [truy cập ngày 23/6/2024]

[7] Trong tiếng Pháp gọi là “le vieux serpent de mer” tức là một chủ đề rất hiếu kỳ, được bàn đến nhiều, nhưng rốt cuộc không ai xác định được rõ cái mình đang bàn là gì, bởi cũng giống như quái vật Loch Ness được rất nhiều người hiếu kỳ nói tới nhưng chưa ai nhìn thấy quái vật đó cả.

[8] Pavia Marie-Luce, tlđd, p. 111-139.

[9] André-Jean Arnaud, Entre modernité et mondialisation – Cinq leçons d’histoire de la philosophie du droit et de l’État (Giữa hiện đại và toàn cầu hóa-Năm bài học lịch sử của triết học pháp luật và Nhà nước pháp quyền), L.G.D.J., coll. Droit et société (1997). Xem thêm: Jean-Claude Monier, “A propos de deux textes de Portalis” (Bàn thêm về hai bài viết của Portalis), Revue Histoire de la Justice, n° 11, p. 79-84 (1998).

[10] Emmanuel Siéyès , Qu’est-ce que le Tiers État?, PUF, Col. Quadrige, p. 88 (1982).

[11] Le juge est la bouche du droit.

[12] Tòa dân sự-Tòa tối cao Pháp (Cass., Civ., 6 mars 1876).

[13] Antoine Adeline, Gérer ses contrats par temps de crise : théorie et pratique de l’imprévision (article 1195 du code civil), La Revue (2022) https://larevue.squirepattonboggs.com/gerer-limprevision-art-1195-du-code-civil-quelques-conseils-pratiques-a-laune-de-decisions-recentes.html#:~:text=Le%20nouvel%20article%201195%20du,du%20contrat%20%C3%A0%20son%20cocontractant. [truy cập ngày 2/3/2025]

[14] Tương tự, trong lĩnh vực hành chính, thẩm phán cũng áp dụng lẽ công bằng trong việc phân bổ án phí tố tụng hành chính. Cụ thể, Điều 761-1 Bộ luật công lý hành chính Pháp quy định: “Trong tất cả các phiên tòa, thẩm phán tuyên, đối với bên phải chịu án phí hoặc bên thua kiện, phải trả cho bên kia số tiền mà thẩm phán quyết định phù hợp với các thiệt hại thực tế và không bao gồm chi phí tố tụng. Thẩm phán tính đến lẽ công bằng hoặc hoàn cảnh kinh tế của bên bị tuyên phạt. Thẩm phán có thể tự mình, cũng vì lẽ công bằng hoặc hoàn cảnh kinh tế, tuyên bố không cần đưa ra mức phạt đó”.

[15] Điều 6: 111-3 PECL quy định: Trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận trong một thời hạn hợp lý, cơ quan xét xử có thể: a) chấm dứt hợp đồng vào thời điểm và theo các điều kiện do cơ quan xét xử ấn định; hoặc b) Sửa đổi hợp đồng để phân bổ một cách công bằng giữa các bên các thiệt hại và lợi ích phát sinh từ thay đổi hoàn cảnh.

[16] Trong cả hai trường hợp, cơ quan xét xử có thể buộc bên đã từ chối đàm phán hoặc chấm dứt đàm phán thiếu thiện chí bồi thường thiệt hại mà việc từ chối hoặc chấm dứt đàm phán này gây ra.

[17] Yves Letartre, Le juge et l’équité:mythe ou réalité ?. URL: https://adekwa-avocats.com/juge-lequite-mythe-realite/ [truy cập ngày 4/7/2024]

[18] Tòa Lao động-Tòa tối cao Pháp (Cass.soc, 24 janvier 1985, 82-41.635, Bulletin 1985 V N. 62 p. 43). Giải pháp này sau đó được nhiều lần nhắc lại bởi Tòa tối cao. Xem chẳng hạn gần nhất: Cass.soc, 6 juillet 2022, 21-13652.

[19] Yves Letartre, Le juge et l’équité:mythe ou réalité ? (Thẩm phán và lẽ công bằng: Ảo hay Thật?). URL: https://adekwa-avocats.com/juge-lequite-mythe-realite/ [truy cập ngày 4/7/2024]

[20] Tòa dân sự - Tòa tối cao Pháp (Cass., civ. 2, 23/11/1956, 56-11.871, Bulletin, no 626 p. 407.

[21] A. Newman Ralph, La nature de l'équité en “droit civil”, tlđd, pp. 289-295.

[22] Về cơ chế này, xem thêm: ĐỖ VĂN ĐẠI, PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ, NXB. HỒNG ĐỨC, TR. 511 (2022).

[23] Pieter Sanders, International Commercial Arbitraton (Trọng tài thương mại quốc tế), Springer Netherlands (1960), tr. 19; phán quyết trọng tài ICC vụ kiện 3267 năm 1979 và vụ kiện 3316.

[24] Ahmet Cemil Yildirim, “Amiable Composition in International Arbitration” (Xét xử theo lẽ công bằng trong trọng tài thương mại quốc tế), Journal of Arbitration Studies, số 24, tr. 35 (2014).

[25] Ahmet Cemil Yildirim, tlđd, tr. 35.

[26] Đào Bá Minh, “Quá trình hình thành và phát triển nguồn luật lẽ công bằng trong pháp luật dân sự trên thế giới - Kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 391, (tháng 10/2023).

[27] Cụ thể khoản 1, Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định chung: "Các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội được tôn trọng và bảo đảm”. Sau đó khoản 3, Điều 102 Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ hơn sự tôn trọng và bảo đảm quyền con người khi quy định: “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân…”. Có tác giả cho rằng “Tòa án có nghĩa vụ bảo vệ công lý […]. Đó là lẽ công bằng, công bằng tức là công lý”. Xem Nguyễn Đăng Dung (2015), “Vai trò bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Tòa án theo Hiến pháp năm 2013” trong sách “THỰC HIỆN CÁC QUYỀN HIẾN ĐỊNH TRONG HIẾN PHÁP NĂM 2013”, NXB HỒNG ĐỨC, TR. 744 (2015).

[28] Về nội dung này, xem: Ngô Quốc Chiến, “Quyền tiếp cận công lý của công dân và nghĩa vụ xét xử của Tòa án”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3 (335), tháng 3 (2016).

[29] Về vấn đề trách nhiệm của trọng tài viên, xem: Ngô Quốc Chiến, Lê Thị Thu Hạnh, “Trách nhiệm của Trọng tài viên dưới góc nhìn so sánh pháp luật và gợi ý cho Việt Nam” trong Hội thảo khoa học Quốc gia “Hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển” do Trường Đại học Kinh tế-Đại học Đà Nẵng tổ chức ngày 6/9/2024, ISBN: 978-604-79-4644-0.

Cùng chuyên mục

Nhận diện những khoảng trống pháp lý khi thể chế hóa chủ trương của Nghị quyết số 18-NQ/TW vào Luật Đất đai 2024 và khuyến nghị hoàn thiện

Nhận diện những khoảng trống pháp lý khi thể chế hóa chủ trương của Nghị quyết số 18-NQ/TW vào Luật Đất đai 2024 và khuyến nghị hoàn thiện

Nghiên cứu lý luận -  52 phút trước

(PLPT) - Bài viết phân tích quá trình thể chế hóa chủ trương của Nghị quyết 18-NQ/TW vào Luật Đất đai 2024, ghi nhận những đổi mới đột phá như áp dụng giá đất theo thị trường, bảo vệ người dân khi thu hồi đất và hiện đại hóa quản lý.

Quyền cư trú của lao động di trú trong ASEAN: Cơ hội và thách thức trong tiến trình phát triển bền vững

Quyền cư trú của lao động di trú trong ASEAN: Cơ hội và thách thức trong tiến trình phát triển bền vững

Nghiên cứu lý luận -  53 phút trước

(PLPT) - Quyền cư trú của lao động di trú trong ASEAN đóng vai trò quan trọng, góp phần thúc đẩy hội nhập kinh tế, ổn định xã hội trong khu vực và phát triển bền vững.

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) vì mục tiêu phát triển bền vững

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) vì mục tiêu phát triển bền vững

Nghiên cứu lý luận -  1 tuần trước

(PLPT) - Bài viết nhận định, pháp luật Việt Nam hiện hành đã quy định tỷ lệ và quy cách tái chế bắt buộc nhưng các quy định này vẫn còn thiếu nhiều nội dung và chưa phù hợp với thực tiễn, làm cản trở hiệu quả. thực hiện EPR. Cuối cùng, bài viết đưa ra những đề xuất nhằm cải tổ một cách toàn diện pháp luật và thiết chế EPR ở Việt Nam theo hướng quy định chi tiết về: các sản phẩm, bao bì thuộc diện EPR, cách thức thực hiện EPR theo nhóm sản phẩm, tinh gọn tổ chức bộ máy quản lý EPR.

Hạn ngạch với ứng cử viên là người khuyết tật trong bầu cử

Hạn ngạch với ứng cử viên là người khuyết tật trong bầu cử

Nghiên cứu lý luận -  1 tháng trước

(PLPT) - Bài viết làm rõ bản chất và tính khả thi của hạn ngạch trong bầu cử, đồng thời dựa trên cơ sở pháp luật quốc tế và kinh nghiệm của một số quốc gia để nêu ra một số khuyến nghị cho Việt Nam về việc bổ sung cơ chế hạn ngạch đối với người khuyết tật vào hệ thống pháp luật bầu cử trong thời gian tới.

Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm tài sản giữa các doanh nghiệp bảo hiểm theo pháp luật kinh doanh bảo hiểm - Bất cập và giải pháp

Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm tài sản giữa các doanh nghiệp bảo hiểm theo pháp luật kinh doanh bảo hiểm - Bất cập và giải pháp

Nghiên cứu lý luận -  1 tháng trước

(PLPT) - Bài viết sẽ tập trung vào các nội dung chính sau: làm rõ khái niệm và vai trò của chuyển giao hợp đồng bảo hiểm; phân tích những hạn chế trong quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành liên quan đến vấn đề này; đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý về chuyển giao hợp đồng bảo hiểm.

Quyền tự do hợp đồng theo pháp luật một số quốc gia và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Quyền tự do hợp đồng theo pháp luật một số quốc gia và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam

Nghiên cứu lý luận -  1 tháng trước

(PLPT) - Bài viết tập trung làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự do hợp đồng trong pháp luật Việt Nam hiện hành, đối chiếu với kinh nghiệm pháp luật của một số quốc gia, đặc biệt là trong điều chỉnh các hợp đồng có đối tượng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất – loại hợp đồng phổ biến nhưng tiềm ẩn nhiều xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các bên.

Trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng kinh doanh bất động sản

Trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng kinh doanh bất động sản

Nghiên cứu lý luận -  2 tháng trước

(PLPT) - Bài viết tập trung phân tích vấn đề lý luận cơ bản nhất của chế định này là các yếu tố cốt lõi để xây dựng nên khái niệm trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng kinh doanh bất động sản.

Đối chứng cần được luật hóa trong bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam: Các tiếp cận pháp lý từ Vương quốc Anh

Đối chứng cần được luật hóa trong bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam: Các tiếp cận pháp lý từ Vương quốc Anh

Nghiên cứu lý luận -  2 tháng trước

(PLPT) - Bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc luật hóa đối chứng trong tố tụng dân sự nhằm tăng tính minh bạch, công bằng và hiệu quả xét xử. Đối chứng là quá trình thiết yếu để kiểm tra, xác minh tính chính xác và hợp pháp của chứng cứ.