Tóm tắt: Ngày nay, một
số quốc gia trên thế giới đã có những bước tiến
quan trọng trong việc triển khai hoạt động công chứng điện tử. Tại Việt Nam, Dự
thảo Luật Công chứng (sửa đổi) đã bước đầu ghi nhận khái niệm công chứng điện
tử và bổ sung nhiều quy định cơ bản phục vụ cho việc triển khai hoạt động này
trong tương lai. Bài viết trình bày kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc triển khai
hoạt động công chứng điện tử để góp thêm tư liệu cho quá trình xây dựng các quy
định pháp luật về hoạt động này
tại Việt Nam.
Từ khóa:
công chứng, công chứng điện tử, công
chứng viên, luật công chứng
Abstract: Nowadays, some countries have made great strides in implementing electronic
notarization. In Vietnam, the Draft Law on Notarization (Amendment) initially
accepts the concept of electronic notarization and includes basic regulations
to facilitate its future implementation. Building on this foundation, the
article highlights the experiences of other countries in conducting electronic
notarization, which can serve as valuable input for the formulation of
regulations on electronic notarization in Vietnam.
Key words:
Notarization, Electronic
notarization, Notary, Law on Notarization
1. Khái niệm công chứng điện tử
Hiện nay, khái niệm công chứng điện tử được ghi nhận tại các nước trên thế
giới. Tuy nhiên, do sự khác biệt về văn hóa, điều kiện, hoàn cảnh và cả lịch sử
phát triển khác nhau nên dẫn đến sự khác nhau trong cách tiếp cận.
Tại Nhật Bản, thuật ngữ “công chứng điện tử”
xuất hiện khá sớm tại “Report on the Legal System of Electronic Commerce” từ
năm 1998. Theo đó, công chứng điện tử được hiểu là việc mở rộng phạm vi của
dịch vụ công chứng hiện tại đối với các tài liệu điện tử, việc xử lý tài liệu trên giấy sẽ được chuyển
sang tài liệu điện tử.[1] Việc triển khai hoạt động này đã bắt đầu từ năm
2000 đối với các tài liệu cá nhân và được mở rộng phạm vi đối với việc công
chứng điều lệ của công ty vào năm 2002[2].
Tại Hoa Kỳ, cụ thể là bang Virginia định nghĩa “Công chứng điện tử có nghĩa là hành động công chứng của một công chứng viên
theo mục §47.1-12 hoặc được pháp luật cho phép liên quan đến các tài liệu điện tử”.[3]
Theo đó, mục §47.1-12 quy định: “Mỗi công chứng viên được trao quyền để thực hiện các hành vi công
chứng sau: (i) chứng nhận, (ii) tổ chức việc thực hiện lời tuyên thệ và xác
nhận, (iii) chứng nhận rằng bản sao của bất kỳ tài liệu nào, ngoại trừ tài liệu
đang được tòa án lưu giữ, là bản sao y của bản chính, (iv) chứng nhận các bản
tuyên thệ hoặc lời khai của các nhân chứng, (v) thực hiện xác minh sự thật và
(vi) thực hiện những việc khác được quy định cụ thể theo pháp luật”.[4] Theo cách
quy định này, khi công chứng viên thực hiện nhiệm vụ của mình theo luật định mà
có liên quan đến tài liệu điện tử thì được xem là công chứng điện tử. Tài liệu
điện tử theo quy định của luật này được hiểu là thông tin được tạo ra, chia sẻ,
gửi, nhận và lưu trữ bằng phương tiện điện tử. Bên cạnh đó, thuật ngữ điện tử được
hiểu là liên quan đến công nghệ điện (electrical), kỹ thuật số (digital), từ
tính (magnetic), vô tuyến (wireless), quang học (optical), điện từ
(electromagnetic) hoặc tương đương.[5]
Tại Việt Nam, một số nghiên cứu ban đầu về công chứng điện tử cũng đã đưa ra khái niệm
về hoạt động này. Tác giả Phan Thị Bình Thuận cho rằng:“Công chứng điện tử (CCĐT) là việc
công chứng viên chứng nhận tài liệu bằng phương thức điện tử. Một trong những
phương thức thực hiện CCĐT là sử dụng chữ ký số và con dấu số để chứng nhận và
xác nhận tính hợp lệ bằng việc chứng nhận số. CCĐT là một quy trình trong đó
công chứng viên (CCV) gắn chữ ký điện tử và con dấu công chứng có sử dụng khóa
bảo đảm vào tài liệu điện tử (tập tin PDF hoặc Word)”.[6] Bên cạnh đó, tác giả Phạm Thị Thúy Hồng và Hoàng Mạnh Thắng cũng có quan điểm cho rằng: “Công
chứng số hay công chứng điện tử, là cách thức Công chứng viên thực hiện chứng
nhận bằng phương thức điện tử thông qua công cụ số với nền tảng dữ liệu số, để
tạo ra văn bản công chứng điện tử phục vụ cho các giao dịch điện tử và lưu trữ
điện tử của cá nhân, tổ chức theo trình tự, thủ tục luật định”.[7]
Dưới góc độ lập pháp tại Việt Nam, khái niệm công
chứng điện tử đã được nhà làm luật đề cập tại Dự thảo Luật Công chứng điện tử (sửa
đổi) ngày 30 tháng 6 năm 2023 (sau đây gọi là “Dự Thảo”), theo đó: “Công chứng điện tử là
việc công chứng viên sử dụng chữ ký số chứng nhận hợp đồng, giao dịch trên môi
trường điện tử tạo ra văn bản công chứng
điện tử”.[8] Với quy định này của Dự thảo, có thể hiểu công
chứng điện tử là hoạt động phải thoả mãn các điều kiện sau: (i) Phải được thực
hiện bởi công chứng viên được bổ nhiệm hợp pháp; (ii) Chữ ký trong văn bản công
chứng điện tử phải là chữ ký số; (iii) Văn bản công chứng điện
tử được tạo ra từ môi trường điện tử.
Tác giả cho rằng việc xây dựng khái niệm công
chứng điện tử tại Việt Nam là rất cần thiết. Bởi lẽ, khái niệm là yếu tố quan trọng để xây dựng cơ sở lý luận, xác
định khái niệm và nội hàm khái niệm rõ ràng sẽ tạo nền tảng bảo đảm pháp luật
được hiểu và vận dụng thống nhất. [9] Dựa
vào khái niệm đã được trình bày tại Dự thảo, rõ ràng là nhà làm luật tại Việt
Nam muốn nhấn mạnh vai trò không thể phủ nhận của chữ ký số trong quá trình
công chứng điện tử. Tuy nhiên, việc đưa chữ ký số thành yếu tố cốt lõi trong
định nghĩa công chứng điện tử tạo ra một khung cảnh hạn chế, làm cho khái niệm
này trở nên khá hẹp. Cụ thể, việc tích hợp chữ ký số vào định nghĩa này khiến
khái niệm công chứng điện tử thiếu tính bao quát và linh hoạt để thích ứng với
những biến động và phát triển công nghệ trong tương lai. Thật vậy, có khả năng
các công cụ số khác, với tính năng vượt trội, sẽ xuất hiện và thay thế chữ ký
số hiện tại. Điều này đặt ra nhu cầu thiết yếu cho việc xây dựng một khái niệm
công chứng điện tử linh hoạt và bao quát hơn. Thêm vào đó, cần lưu ý rằng bản
chất của công chứng điện tử không chỉ xuất phát từ việc sử dụng chữ ký số. Thay
vào đó, tính chất đặc trưng của loại hình công chứng này chính là quá trình xử
lý và xác minh tài liệu điện tử trong môi trường số hoá. Do đó, yếu tố chữ ký
số cần được xem xét một cách cẩn thận và chi tiết trong quy trình công chứng
điện tử cũng như trong các điều kiện cung cấp dịch vụ công chứng điện tử, chứ
không nên bị gộp chung và gắn vào khái niệm. Vì các lẽ trên, tác giả cho rằng khái niệm công chứng điện tử cần được sửa đổi theo hướng: “Công chứng điện tử là
việc công chứng viên chứng nhận hợp đồng,
giao dịch trên môi trường điện tử tạo ra văn bản công chứng điện tử”.
2. Phân loại công
chứng điện tử
Công chứng điện tử có thể được phân thành hai cấp độ: công chứng điện tử trực
tiếp và công chứng điện tử trực tuyến. Công chứng điện tử trực tuyến được xem
là một bước tiến xa hơn công chứng điện tử trực tiếp khi giao dịch được thực hiện thông qua trực tuyến mà không phải tiếp xúc
trực tiếp.[10] Một số
quốc gia như Hoa Kỳ, Cộng hoà Pháp và Dự Thảo Luật Công chứng sửa đổi tại Việt Nam cũng đã ghi nhận hai hình thức này.
Về hình thức công chứng điện tử trực tiếp
Tại bang Pennsylvania (Hoa Kỳ), trong hoạt động công chứng điện tử trực tiếp các
tài liệu được hiểu là các tài liệu được công chứng dưới dạng điện tử. Công
chứng viên và khách hàng đều ký bằng chữ ký điện tử. Thay vì văn bản giấy và
con dấu công chứng vật lý, công chứng viên đặt thông tin con dấu của mình vào
một văn bản tồn tại dưới dạng dữ liệu điện tử ở dạng máy tính có thể đọc được.
Nhưng yếu tố yêu cầu người ký phải xuất hiện trực tiếp (tiếp xúc vật lý) trước
công chứng viên vẫn phải được đảm bảo.[11]
Tại Cộng hòa Pháp, Nghị định ngày 10 tháng 8 năm
2005 và Luật số 2000-230 ngày 13 tháng 3 năm 2000[12]
đã cho phép thực hiện chứng thư từ xa thông qua chứng thư xác thực điện tử bằng
hệ thống hội nghị truyền hình an toàn và được chấp thuận. Khoảng cách được đề
cập là nhằm mục đích kết nối hai bên cách xa nhau về mặt địa lý, nhưng có thể
tiếp xúc thực tế với các công chứng viên tại vị trí của họ. Cách thức này không
gây ra vấn đề gì vì mỗi bên được hỗ trợ bởi một công chứng viên có mặt trực
tiếp (tiếp xúc vật lý) để đảm bảo sự đồng ý của khách hàng của mình.[13]
Đại hội công chứng viên quốc tế lần thứ 28 của Liên Minh Công chứng Quốc tế
(International Congress of Notaries) tại Paris đã nêu rằng: Trong trường hợp
chứng nhận, lưu giữ thông qua tài liệu điện tử, chữ ký điện tử, thì công chứng
viên cần phải có mặt trực tiếp (tiếp xúc vật lý) để quá trình xác thực tài liệu
được thực hiện đầy đủ (xác định các bên, xác minh năng lực, đánh giá quyền hạn
của họ, thông báo về sự đồng ý, kiểm tra rằng sự đồng ý không có sai sót, kiểm
soát rằng sự kiện hoặc nội dung là hợp pháp... và các mục đích khác) và nội
dung của tài liệu được chứng nhận.[14]
Tại Việt Nam, hình thức công chứng này được Dự
thảo Luật Công chứng tiếp cận đối với trường hợp người yêu cầu công chứng ký
hợp đồng, giao dịch không sử dụng chữ ký số thì người yêu cầu công chứng ký vào
từng trang của hợp đồng giao dịch trước sự chứng kiến của công chứng viên; công
chứng viên sử dụng thiết bị và phần mềm chuyên dụng số hóa văn bản hợp đồng,
giao dịch mà người yêu cầu công chứng đã ký, ghi lời chứng và ký chứng nhận hợp
đồng giao dịch đó bằng chữ ký số.[15] Qua đó có thể thấy, hình thức công chứng điện tử trực tiếp tạo điều kiện
cho công chứng viên có điều kiện tiếp cận với người yêu cầu công chứng, thuận
tiện hơn trong việc đối chiếu vân tay, xác minh năng lực và tránh được các công
cụ kỹ thuật số mạo danh người yêu cầu công chứng.
Về hình thức công chứng điện tử trực tuyến
Tại Hoa Kỳ, kể từ ngày
01-07-2012 bang Virginia đã trở thành tiểu bang đầu tiên ở quốc gia này cho
phép thực hiện chức năng công chứng bằng cách sử dụng công nghệ audio (âm
thanh) – video hai chiều nhưng phải đáp ứng các tiêu chuẩn nhất định giống việc
thực hiện công chứng ‘trực tiếp’ truyền thống. Trên thực tế, luật cho phép cá
nhân hiện diện thông qua video (phương thức điện tử trực tiếp), đồng thời, điều
này cũng được coi giống như sự hiện diện trực tiếp của cá nhân trước mặt công
chứng viên theo cách truyền thống.[16]
Tại Cộng hòa Pháp, Nghị định số 2020-1422 ngày 20 tháng 11 năm 2020 của Cộng hòa Pháp đã quy
định giấy ủy quyền được công chứng điện tử trực tuyến. Nghị định này mở rộng khả năng cho các công chứng viên thực
hiện hành vi công chứng điện tử trực tuyến để có giấy ủy quyền xác thực. Công chứng viên có thể lập giấy ủy
quyền thông qua một hệ thống điện tử đảm bảo tính bảo mật và bí mật khi một
hoặc tất cả các bên không thể có mặt.[17]
Tại Việt Nam, yếu tố cốt lõi để nhận diện công chứng điện tử trực
tuyến so với công chứng điện tử trực tiếp đó là: người yêu cầu công chứng ký
vào văn bản giao dịch, hợp đồng bằng chữ ký số trước sự chứng kiến của công
chứng viên thông qua các phương tiện truyền hình trực tuyến; công chứng viên
tập hợp kết quả đối soát giấy tờ, tài liệu liên quan đến hợp đồng, giao dịch,
đính kèm với văn bản công chứng, gửi toàn bộ các tài liệu này về cơ sở dữ liệu công
chứng toàn quốc.[18] Tác giả cho rằng quy định về công chứng điện tử trực tiếp và công chứng
điện tử trực tuyến tại Dự thảo Luật công chứng (sửa đổi) tại Việt Nam khá tiệm
cận với quy tại một số quốc gia về việc số hoá văn bản, tài liệu, sử dụng chữ
ký số cũng như việc lưu trữ hoặc áp dụng phương tiện truyền hình trực tuyến
trong hoạt động công chứng điện tử.
3. Cơ sở hạ tầng thông tin trong hoạt động công
chứng điện tử
Cơ sở hạ tầng thông tin là một trong những thành tố quan trọng trong
việc triển khai hoạt động công chứng. Vì vậy, một số quốc gia đã tập trung xây dựng
cơ sở dữ liệu tập trung, đồng
bộ song song với việc triển khai hoạt động công
chứng điện tử, cụ thể:
Tại một số nước như Đức, Ý, Bỉ (các nước trong hệ thống công chứng nội dung), để
thực hiện được công chứng điện tử phải cần cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và
cơ sở pháp lý tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ. Công chứng viên có thể tiếp cận
một hệ thống cơ sở dữ liệu đồ sộ để có được những thông tin cần thiết, từ thông
tin đăng ký về nhân thân cho đến tài sản, thuế… với một quy trình chặt chẽ, bảo
mật cao. Công chứng viên có thể thực hiện toàn bộ các công đoạn từ chứng nhận
giao dịch đến nộp thuế, đăng ký sang tên chủ sở hữu. Toàn bộ chu trình này hoàn
toàn được thực hiện trên không gian mạng và xác thực bằng chữ ký điện tử. Có
thể nói công chứng điện tử đòi hỏi phải gắn với nền tảng chính phủ điện tử mà
điều này thì rất ít nước có thể thực hiện được.[19]
Tại Cộng hòa Pháp, đối với chứng thư điện tử, Nhà nước đã yêu cầu Hội
đồng công chứng tối cao đảm bảo việc lưu trữ tập trung ở cấp quốc gia tất cả
các chứng thư điện tử.[20]
Toàn bộ văn bản điện tử đều được lưu trữ tại Trung tâm MICEN đặt dưới sự giám
sát của Hội đồng công chứng tối cao Cộng hòa Pháp.[21]
Trung tâm MICEN có khả năng lưu trữ hàng nghìn chứng từ xác thực trên phương
tiện điện tử (AASSE) hàng ngày và lưu giữ chúng trong ít nhất bảy mươi lăm năm
trước khi chuyển chúng vào kho lưu trữ của bộ.[22]
Tại Trung Quốc, từ năm 2000
quốc gia này đã áp dụng các phần mềm phục vụ công chứng khác nhau được xây dựng bởi các tổ chức hành nghề công
chứng. Sau đó, Hội công chứng viên đã hợp nhất vào trong một hệ thống quản lý
chung. Đến cuối tháng 8 năm 2018, đã có 2.961 tổ chức hành nghề công chứng và
13.385 công chứng viên sử dụng hệ thống này.[23]
Việc xây dựng và áp dụng phần mềm công chứng đã giúp chuẩn hóa các dịch vụ công
chứng, nâng cao khả năng cung cấp dịch vụ, tập hợp dữ liệu công chứng và nộp hồ
sơ qua mạng (khách hàng chỉ cần đến tổ chức hành nghề công chứng 01 lần). Điều
này còn giúp chia sẻ thông tin về giao dịch công chứng giữa các công chứng viên
để giảm việc xác minh, quản lý hành nghề công chứng hoặc chia sẻ các thông tin
có liên quan khác như di chúc, sở hữu trí tuệ. Trung Quốc sẽ khai thác và thực
hiện dịch vụ công chứng điện tử trực tuyến, lưu giữ chứng cứ điện tử trực tuyến
trong thời gian tới.[24]
Từ các cơ sở trên, chúng ta có thể thấy các quốc gia luôn
chú trọng trong việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung nhằm chia sẻ
thông tin về giao dịch công chứng, tài
sản, nhân thân giữa các công chứng viên. Điều này giúp các công
chứng viên thuận lợi làm việc, hợp tác thông qua môi trường điện tử.
Tại Việt Nam, nhà
nước đã xây dựng hành lang pháp lý nhằm quản lý, quản trị dữ liệu số; kết nối, chia sẻ dữ
liệu số; sử dụng, khai thác dữ liệu số của cơ quan nhà nước; cung cấp dữ liệu
mở của cơ quan nhà nước cho tổ chức, cá nhân; quyền và trách nhiệm trong kết
nối, chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước.[25] Đồng
thời, Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) xây dựng quy định về hệ thống thông
tin công chứng bao gồm: (i) Cơ sở dữ liệu công chứng toàn quốc; (ii) Các cơ
sở dữ liệu hỗ trợ hoạt động công chứng; (iii) Các phần mềm phục vụ hoạt động
công chứng và; (iv) Hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin công chứng.[26]
Theo ghi nhận tại Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi), công
chứng viên cũng được trao quyền “truy cập vào các cơ sở dữ liệu theo quy định pháp
luật để thực hiện việc công chứng”.[27] Như
vậy, công chứng viên chỉ được truy cập vào các cơ sở dữ liệu khi quy định pháp
luật chuyên ngành của cơ sở dữ liệu cho phép. Hiện nay, nước ta đã xây dựng được
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư[28] và
việc cho phép tổ chức hành nghề công chứng được phép khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư đã được pháp luật quy định cụ thể.[29] Tuy
nhiên, Cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia vẫn chưa được hoàn thiện về mặt thực tiễn
và quy định pháp luật. Trong khi đó, phần lớn các giao dịch được công chứng đều
liên quan đến bất động sản, một trong những tài sản có giá trị lớn, dễ phát
sinh tranh chấp.
Nhìn vào kinh nghiệm tại một số quốc gia nêu trên, việc kết nối dữ liệu giúp công
chứng viên có nhiều thông tin về nhân thân, tài sản,… Từ đó, giúp họ có cái
nhìn khách quan khi chứng nhận hợp đồng, giao dịch,
hạn chế được nhiều rủi ro. Vì
vậy, việc xây dựng Cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia, các cơ sở dữ liệu chuyên
ngành và trao quyền truy cập của công chứng viên vào các cơ sở dữ liệu này giúp
họ nắm rõ được nguồn gốc tài sản, có thông tin về chủ sở hữu, người có quyền sử
dụng đối với tài sản, thông tin về chủ thể yêu cầu công chứng (ví dụ như nhóm
máu, tình trạng hôn nhân, nơi thường trú,…).
Việc trao
quyền cho công chứng viên được truy cập vào kho dữ liệu đồ sộ với nhiều thông
tin phải đi kèm với việc đặt ra trách nhiệm của công chứng viên khi tiếp cận
các thông tin này. Hiện nay, Luật Công chứng hiện hành và
Dự thảo Luật Công chứng sửa đổi nghiêm cấm hành vi tiết lộ thông tin về nội
dung công chứng và sử dụng thông tin về nội dung công chứng để xâm hại quyền,
lợi tích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trừ trường hợp được người yêu cầu công
chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác.[30]
Có thể thấy, quy định hiện tại chỉ giới hạn trách nhiệm của công chứng viên đối
với thông tin về nội dung công chứng. Vì vậy, song song với đặc quyền được truy
cập vào cơ sở dữ liệu lớn, pháp luật cần mở rộng trách nhiệm của công chứng
viên đối với việc khai thác, sử dụng các cơ sở dữ liệu này.
Trên cơ sở những phân tích trên, tác giả
cho rằng cơ sở hạ tầng thông tin là một
thành tố quan trọng bậc nhất trong hoạt động công chứng điện tử. Chính vì vậy,
pháp luật và thực hiện cần thống nhất hoàn thiện khi bắt đầu triển khai hoạt
động công chứng điện tử. Đồng thời, cần đặt ra những quy định cấp quyền truy
cập cho công chứng viên vào các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên
ngành nhằm phục vụ cho hoạt động công chứng điện tử và nghiêm cấm sử dụng các
thông tin có được từ các cơ sở dữ liệu này nhằm mục đích xâm hại đến quyền, lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Do đó, Điểm a Khoản 1 Điều 7 các hành vi bị nghiêm cấm Dự
thảo Luật Công chứng sửa đổi cần quy định theo hướng sau: “a) Tiết lộ
thông tin về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng
đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; sử dụng thông tin từ các cơ sở dữ liệu trong cơ quan nhà nước, thông tin về nội dung công chứng để xâm hại quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức”.
4. Vấn đề sử dụng truyền hình trực tiếp trong hoạt động công chứng điện tử
Công chứng điện tử không
chỉ là thủ tục liên quan đến kỹ thuật số mà còn đóng vai trò như một cơ chế
“giám sát” quá trình thực hiện công chứng giữa công chứng viên và người yêu cầu
công chứng thông qua chức năng lưu trữ dài hạn, ghi hình và thu âm.
Tại Công hòa Pháp, buổi công chứng điện tử trực tuyến phải được thực hiện bằng một hệ thống
xử lý, liên lạc và truyền thông tin đảm bảo nhận dạng được các bên, đảm bảo
được tính toàn vẹn và bí mật của nội dung và được Hội động công chứng tối cao chấp thuận.[31] Không
được sử dụng các ứng dụng công cộng (ví dụ: Skype, Zoom, WhatsApp, FaceTime,
v.v.).[32] Để giám sát việc thực hiện buổi công chứng
điện tử trực tuyến, việc trao đổi với công chứng viên phải diễn ra bằng hệ
thống hội nghị truyền hình an toàn sử dụng phần mềm LifeSize do Hội đồng công
chứng cấp cao cho phép.[33]
Theo bài nghiên cứu của
tác giả Anna V.Sukhovenk, bản ghi video được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu đám
mây của công chứng viên và có thể được sử dụng để giải quyết các tranh chấp về
giao dịch. Các tài liệu điện tử được đính kèm với giao dịch, bao gồm cả những
tài liệu được ký điện tử, được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu đám mây và có thể
được khôi phục trong trường hợp mất mát.[34]
Tại Hoa Kỳ, công chứng viên thực hiện công chứng
điện tử được yêu cầu phải có quyền truy cập vào máy tính, webcam, micrô và kết
nối Internet an toàn. Máy tính phải có khả năng hỗ trợ giao tiếp âm thanh và
hình ảnh hai chiều để hoạt động với nền tảng công nghệ công chứng trực tuyến từ
xa phù hợp với quy định cụ thể tại từng tiểu bang[35].
Điều này có nghĩa rằng, mỗi tiểu bang sẽ đặt ra tiêu chuẩn cụ thể đối với
phương tiện truyền hình trực tuyến thực hiện công chứng điện tử trực tuyến. Ví
dụ, bang Virginia quy định công nghệ hội nghị video và âm thanh trong hoạt động
công chứng điện tử phải đáp ứng các tiêu chuẩn như: (i) Công chứng viên và
người yêu cầu công chứng phải đồng thời nhìn và nói chuyện trực tiếp với nhau;
(ii) hệ thống truyền hình và âm thanh phải trực tiếp và đúng thời điểm thực
hiện công chứng; (iii) Việc truyền tín hiệu phải được đảm bảo không bị ngăn
chặn; (iv) hoặc phải đáp ứng bất kỳ thông số kỹ thuật nào khác mà Chánh án Toà
án Tối cao ban hành[36].
Một số nhà cung cấp công nghệ giải pháp công chứng trực tuyến tại Hoa Kỳ như BlueNotary,
DocuSign, DocVerify, Notarize, NotaryCam, OnlineNotary.us, Pavaso, Safedocs,…[37].
Tại Cộng hoà Liên bang
Đức, pháp luật của quốc gia này không có phép các bên liên quan và công chứng
viên được quyền tự do hệ thống thông tin liên lạc (video) để sử dụng cho mục
đích công chứng trực tuyến. Thay vào đó, việc công chứng trực tuyến phải được
thực hiện bằng hệ thống thông tin liên lạc cụ thể do Phòng Công chứng Liên bang
vận hành[38].
Tại Việt Nam, Dự thảo
Luật công chứng (sửa đổi) đề xuất việc cho phép công chứng viên và người yêu
cầu công chứng tiến hành thủ tục công chứng qua hình thức điện tử thông qua các
phương tiện truyền hình trực tuyến. Tuy nhiên, Dự thảo này không đưa ra các quy
định cụ thể về phương tiện truyền hình trực tuyến cũng như điều kiện áp dụng
cho phương tiện này. Điều này có thể tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn phát sinh trong quá trình kiểm soát, quản lý và lưu trữ hình ảnh của buổi
công chứng điện tử. Thêm vào đó, việc áp dụng công chứng điện tử đồng thời cũng
tạo ra nhiều rủi ro. Những rủi ro này bao gồm, nhưng không giới hạn ở: vấn đề
về công nghệ, độ chính xác và an toàn dữ liệu, tội phạm mạng. Một ví dụ điển
hình là việc một số cá nhân lợi dụng công nghệ Deepfake, dựa trên trí tuệ nhân
tạo, để sản xuất video giả mạo hình ảnh và khuôn mặt của người khác.[39]
Thực tiễn cho thấy, vấn đề tận dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI)
nhằm mục đích lừa đảo đang xảy ra tràn lan[40],
nhiều người đã bị lừa gạt bằng hình ảnh và giọng nói trên không gian mạng[41].
Chính vì vậy, tác giả cho
rằng trước khi Dự thảo Luật công chứng sửa đổi được thông qua, các nhà lập pháp
tại Việt Nam cần quy định cụ thể về vấn đề truyền hình trực tuyến. Theo đó, phương tiện truyền hình trực tuyến cũng cần phải được đặt dưới sự kiểm soát, quản lý, lưu trữ của cơ quan có thẩm quyền nhằm hạn chế các rủi ro nêu trên. Ngoài ra, nhà làm
luật cũng cần bổ sung quy định về việc lưu trữ video về buổi thực hiện công chứng giữa công chứng viên và người
yêu cầu công chứng nhằm làm
cơ sở, bằng chứng giải quyết các tranh
chấp về sau. Điều này góp phần
điều chỉnh hành vi, giúp các bên hạn chế tình trạng gian lận trong hoạt động
công chứng.
5. Trách nhiệm của tổ chức cung cấp chữ ký điện
tử
Trong hoạt động công chứng truyền thống, một hợp đồng, giao dịch được công
chứng sẽ có sự tham gia của công chứng viên và một (hoặc các) bên cùng tham gia
vào giao dịch. Đồng thời, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành
nghề công chứng và công chứng viên đã được pháp luật quy định cụ thể tại Điều 38
Luật Công chứng năm 2014 và Điều 39 Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi). Trong hoạt động công chứng điện tử, ngoài các chủ thể được liệt kê nêu
trên còn có một chủ thể khác liên quan mật thiết và đóng vai trò vô cùng quan
trọng cho việc giao kết hợp đồng, giao dịch điện tử. Đó chính là các tổ chức
cung cấp dịch vụ mạng và tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử,
chữ ký số. Những chủ thể này không trực tiếp tham gia vào quá trình công chứng
của công chứng viên và các bên tham gia giao dịch nhưng lại là chủ thể hỗ trợ
cho việc hoàn thành công chứng điện tử. Người ký số là một thuê bao của tổ chức
cung cấp dịch vụ chứng thực nên vai trò trung gian bảo đảm an toàn cho việc sử
dụng chữ ký số vào các hoạt động giao dịch thương mại phụ thuộc rất lớn vào tổ
chức cung cấp dịch vụ này.[42]
Trong thực tiễn hoạt động, một số tổ chức cung cấp dịch vụ chữ ký số không
đảm bảo điều kiện cho thấy nhiều rủi ro cho việc giao kết hợp đồng, giao dịch
trên môi trường điện tử. Điển hình là việc Trung tâm Chứng thực điện tử quốc
gia (NEAC) thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành công văn số
216/NEAC-TĐPC về việc đề nghị Công ty Cổ phần Misa dừng cung cấp dịch vụ chữ ký
số (CKS) công cộng (MISA-CA) do chưa đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn, các quy định
pháp luật.[43] Qua đó, chúng ta có thể thấy những tồn tại về tính tuân thủ tiêu chuẩn kỹ thuật, hành lang
pháp lý hiện hành đối với các nhà cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số[44]. Đồng thời, chữ ký số là một trong những công
cụ quan trọng khi triển khai hoạt động công chứng điện tử. Do đó, các tổ chức
này có tác động rất lớn đến hiệu quả của việc triển khai hoạt động công chứng điện tử.
Trước đây Nghị định số
26/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 02 năm 2007 quy định chi tiết thi
hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số (văn
bản đã hết hiệu lực) có ghi nhận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức
cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng khi vi phạm về nghĩa vụ trong
việc lưu trữ và sử dụng thông tin, gia hạn, tạm dừng, khôi phục thu hồi, chứng
thư số[45].
Tuy nhiên các trách nhiệm này của tổ chức, cá nhân dịch vụ chứng thực chữ ký số
công cộng đã không được khi nhận khi Nghị định số 130/2018/NĐ-CP ra đời.
Về vấn đề này, quy định về dịch vụ
nhận dạng, xác thực và tin cậy điện tử (The Electronic
Identification and Trust Services Regulation
or “eIDAS”)[46] đã quy định các nhà cung cấp “dịch vụ ủy thác”[47]
phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do cố ý hoặc do sơ suất gây ra cho bất kỳ cá
nhân hoặc pháp nhân nào do không tuân thủ các nghĩa vụ theo quy định này[48].
Đồng thời, việc tổ chức cung cấp dịch vụ ủy thác, duy trì đủ nguồn lực tài
chính và/hoặc mua bảo hiểm trách nhiệm đối với rủi ro trách nhiệm bồi thường
thiệt hại theo quy định trên được xem là tổ chức cung cấp dịch vụ ủy thác đủ
điều kiện.[49] Qua đó có thể thấy, trên
thế giới cũng đã ghi nhận rõ ràng về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại
đối với tổ chức cung cấp dịch vụ chữ ký điện tử, con dấu điện tử. Bên cạnh đó,
quy định yêu cầu về tiềm lực tài chính giúp đảm bảo khả năng bồi thường của các
tổ chức này khi phát sinh các trách nhiệm. Từ đó, quyền lợi của những người sử
dụng chữ ký điện tử do các tổ chức này cung cấp được đảm bảo tối đa.
Chính vì vậy, tác giả cho rằng, pháp luật công chứng cũng cần
đặt ra trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với với các nhà cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số nếu có lỗi trong việc gây ra thiệt hại cho các bên tham gia hợp đồng,
giao dịch công chứng điện tử hoặc tổ chức hành nghề công chứng. Bên cạnh đó,
điều này sẽ giúp nâng cao trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ chứng
thực chữ ký số, đảm bảo quyền lợi của các bên và hạn chế rủi ro phát sinh đối với các hợp đồng, giao dịch
công chứng điện tử.
6. Vấn đề giới hạn phạm vi công chứng hợp đồng,
giao dịch
Công chứng điện tử trực tuyến giúp “dỡ bỏ” các giới hạn, khoảng cách về vật
lý giữa công chứng viên và người yêu cầu công chứng, mở ra một không gian ảo
rộng lớn trên Internet cho các bên. Cho nên, nhằm mục đích phát huy vai trò này
của công chứng điện tử trực tuyến, việc nghiên cứu lộ trình mở rộng phạm vi
công chứng hợp đồng, giao dịch là hoàn toàn cần thiết.
Tại Hoa Kỳ, hầu hết các tiểu
bang và khu vực pháp lý của quốc gia này chỉ cho phép cho các công chứng viên
thực hiện các hành vi công chứng trong biên giới của tiểu bang này. Ví dụ: Một
công chứng viên được trao quyền ở California hoặc Florida có thể thực hiện công
chứng ở bất kỳ đâu trong biên giới của các tiểu bang này, nhưng không được thực
hiện công chứng ở một tiểu bang khác, chẳng hạn như Georgia.[50] Tuy
nhiên, vẫn có một số tiểu bang cho phép công chứng bên ngoài tiểu bang, nhưng
chỉ trong những điều kiện cụ thể hoặc đối với một số loại tài liệu. Bang Montana (Hoa Kỳ) cho phép công chứng viên thực
hiện các hành vi công chứng ở bất kỳ quận nào trong tiểu bang hoặc ở bất kỳ
tiểu bang giáp biên nào nếu tiểu bang giáp biên công nhận thẩm quyền của công
chứng viên trong tiểu bang đó.[51] Công chứng viên tại bang Virginia (Hoa Kỳ) có thể
công chứng một tài liệu trong hoặc ngoài Khối thịnh vượng chung Virginia nếu
tài liệu đó sẽ được sử dụng trong Khối thịnh vượng chung hoặc bởi chính phủ Hoa
Kỳ.[52]
Tại Cộng hòa Pháp, sau khi thực hiện bãi bỏ giới hạn trong phạm vi một tỉnh theo quy định
trước đây, công chứng viên tại nước này đã có thẩm quyền trên toàn quốc (có
thể công chứng văn bản tại bất cứ nơi nào của nước Pháp) ngoại trừ một số loại
văn bản nhất định phải được công chứng tại văn phòng công chứng theo quy
định của pháp luật.[53]
Tại Cộng hòa Liêng Bang Đức, công chứng viên chỉ được thực hiện các hoạt động công chứng ngoài phạm vi
nếu được cơ quan giám sát đồng ý hoặc vì lợi ích chính đáng của người yêu cầu
công chứng. Bên cạnh đó, công chứng viên có thể phải thông báo cho cơ quan giám
sát khi có yêu cầu. Tuy nhiên, sự vi phạm về địa phận này không ảnh hưởng đến
hiệu lực của việc công chứng. Mặc dù trên thực tế, công chứng viên phải gắn
với địa bàn mình đã được phân công. Tuy nhiên, người yêu cầu công chứng được tự
do lựa chọn bất kỳ công chứng viên nào ở bất kỳ nơi đâu; và các văn bản công
chứng do một công chứng viên xác lập có hiệu lực thi hành và hợp lệ trên toàn
quốc.[54]
Tại một số nước Châu Âu, công chứng điện tử cũng đã được triển khai ở nhiều nước như Italia, Tây
Ban Nha, Malta và phạm vi của công chứng điện tử đã vượt ra khỏi phạm vi của
một quốc gia[55]. Như đã đề cập, EU ban hành Quy định eIDAS quy định về định danh điện tử và
dịch vụ tin cậy đối với các giao dịch số trong thị trường chung Châu Âu. Điều này cho phép tiến hành thực hiện công chứng giữa
các quốc gia thành viên nhưng vẫn đảm bảo được giá trị sử dụng của văn bản công
chứng, được công nhận ở các quốc gia thành viên mà không cần thông qua các hoạt
động hợp thức hóa riêng biệt ở mỗi quốc gia[56]. Có
thể thấy, các quốc gia cho phép triển khai
hoạt động công chứng điện tử có xu hướng mở
rộng thẩm quyền của công chứng viên ra
khỏi phạm vụ địa lý nhất định. Điều
này giúp đáp ứng mạnh mẽ nhu cầu công chứng của người dân ở cả những nơi xa xôi.
Tại Việt Nam, thẩm quyền của công chứng viên trong việc
công chứng, chứng thực các hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản vẫn
đang bị giới hạn theo phạm vi địa hạt. Từ Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ
(đã hết hiệu lực) quy định về công chứng, chứng thực[57] đến Luật công chứng hiện hành đều duy trì quy định
giới hạn này. Trong bối cảnh công chứng truyền thống, việc giới hạn
phạm vi địa hạt là cần thiết vì sẽ tạo điều kiện cho công chứng viên dễ dàng thu thập thông tin chính xác về bất
động sản trong việc xác minh trong trường hợp có căn cứ cho rằng
trong hồ sơ yêu cầu công chứng có vấn đề chưa rõ, từ đó góp phần hạn chế hiện tượng gian lận, lừa đảo.[58]
Do đó, Dự thảo Luật Công chứng (sửa
đổi) giữ nguyên tinh thần về vấn đề giới hạn phạm vi
công chứng hợp đồng, giao dịch theo pháp luật hiện hành,
chỉ thay đổi cụm từ “về” thành cụm từ “có liên quan”. Theo đó, “Công chứng
viên của tổ chức hành nghề công chứng chỉ được công chứng hợp đồng, giao dịch
có liên quan đến bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở, trừ trường hợp công chứng di chúc, văn bản từ
chối nhận di sản là bất động sản, văn bản ủy quyền liên quan đến việc thực hiện
các quyền đối với bất động sản”.
Đến thời điểm hiện tại, tác giả cho rằng việc tiếp tục kế
thừa quy định giới hạn thẩm quyền của công chứng viên trong phạm vi địa hạt đối
với việc công chứng hợp đồng, giao dịch có liên quan đến bất động sản là điều
cần thiết. Tuy nhiên, nếu nhà làm luật đã chính thức thừa nhận tính pháp lý và
cho phép hoạt động công chứng điện tử triển khai thì cần phải có lộ trình mở
rộng thẩm quyền của các công chứng viên để tận dụng được những ưu điểm của công
chứng điện tử. Tuy nhiên, phần lớn các
giao dịch được công chứng điều liên quan đến bất động sản - một
trong những tài sản có giá trị lớn, dễ phát sinh tranh chấp. Do đó, việc mở rộng giới hạn về phạm vi thẩm quyền
phải tiến hành từng bước dựa trên những điều kiện thực tế để triển khai công
chứng điện tử như nền tảng công nghệ, tính hoàn thiện của cơ sở dữ liệu và dự
phòng được những giải pháp phòng ngừa rủi ro phát sinh. Trong đó, việc kết nối giữa Cơ sở dữ liệu công chứng với các cơ sở
dữ liệu khác như Cơ sở dữ liệu đăng ký giao dịch bảo đảm quốc gia, Cơ sở Dữ liệu
quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, Cơ sở Dữ liệu đất đai quốc gia, Cơ sở Cơ sở Dữ liệu quốc gia về đăng ký các phương tiện vận tải và một số cơ sở
dữ liệu quan trọng khác được thông suốt là một trong những
điều kiện tiên quyết.
Tác giả
chia sẻ với quan điểm cho rằng cần xây dựng không
gian pháp lý thử nghiệm (sandbox) cho công chứng điện tử trước khi triển khai hoạt động này rộng rãi trên phạm vi
cả nước.[59] Việc thử
nghiệm này nên chia thành những
giai đoạn khác nhau để vừa vận hành vừa nhận diện rủi ro và xây dựng khung pháp
lý chính thức dựa trên những kinh nghiệm có được tự giai đoạn thử nghiệm. Theo đó, có
thể thiết kế hai giai đoạn cho hoạt động thử nghiệm như sau: (i) Giai đoạn 1: Cho phép phạm vi công chứng hợp đồng,
giao dịch không bị giới hạn bởi hai tỉnh giáp ranh; (ii) Giai
đoạn 2: Mở rộng phạm vi công chứng hợp đồng giao dịch theo khu vực hoặc trên
phạm vi cả nước.
7. Kết luận
Trước bối cảnh xã hội đang có sự thay đổi mạnh mẽ dưới sự tác động của công
nghệ, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng,
trong đó phải kể đến Nghị quyết số 52/NQ-TW ngày 27 tháng
9 năm 2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15 tháng
6 năm 2021 quyết định phê duyệt chiến lược phát triển chính phủ điện tử hướng
tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030 của Chính phủ. Do đó, việc ghi nhận tính pháp lý của công chứng điện tử tại Dự thảo Luật
công chứng (sửa đổi) là một hành động thể hiện rõ nét quá trình thực thi đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà Nước.
Theo kinh nghiệm của những quốc gia mà tác giả đã trình bày, việc triển
khai hoạt động công chứng điện tử dường như là một quá trình phát triển tất yếu
của hoạt động công chứng nói chung. Tuy nhiên, để đảm bảo các điều kiện pháp lý
cũng như phi pháp lý như hạ tầng kỹ thuật, công nghệ, cơ sở dữ liệu và con
người thì việc xây dựng khung pháp lý cũng như quy trình triển khai hoạt động
công chứng điện tử tại Việt Nam cần được thực hiện từng bước và thận trọng. Dự thảo Luật Công chứng sửa đổi đã có những bước tiến trong việc ghi nhận văn bản công
chứng điện tử, chữ ký số, các phương thức công chứng điện tử. Tuy nhiên, chúng
ta cần đặt ra các quy định “cấp quyền truy cập” cho công chứng viên sử dụng thông tin từ các cơ sở
dữ liệu trong cơ quan nhà nước nhằm phục vụ cho hoạt động công chứng. Đồng thời,
pháp luật cũng cần đặt ra trách nhiệm đối với tổ chức cung cấp cung cấp chữ ký điện tử;
trách nhiệm trong việc sử dụng thông tin từ các cơ sở dữ liệu trong cơ quan nhà
nước của công chứng viên. Đối với phương thức công chứng điện tử trực tuyến,
việc quy định liên quan đến việc kiểm soát, giám sát truyền hình trực tuyến
nhằm hạn chế rủi ro, tranh chấp cho các bên sử dụng là điều rất cần thiết. Đồng
thời, việc mở rộng phạm vi công chứng hợp đồng, giao dịch hợp đồng sẽ giúp phát
huy tiềm năng tối đa của hoạt động công chứng điện tử, từ đó thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Tài liệu tham khảo
1.
Anna V. Sukhovenko (2020), Electronic Notarial System as a New Social
Institution in a Digital Economy: Quality, Availability, Security, Rostov
State University of Economics, Rostov-on-Don, Russia, Page.1037.
2.
Bộ
Chính trị (2019), Nghị quyết số 52/NQ-TW của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng ngày 27 tháng 9 năm 2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động
tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
3.
Bộ Tư pháp Việt Nam -
Hội đồng công chứng tối cao Cộng hòa Pháp (2018), Thực trạng và triển vọng phát triển ở Việt Nam, Tài liệu Tọa đàm Kinh nghiệm số hóa công chứng Pháp, tháng 7 năm 2018, tr.7.
4.
Chính
phủ (2000), Nghị định số 75/2000/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 8 tháng 12 năm 2000
5.
Chính phủ (2020), Nghị định số: 47/2020/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ Quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước.
6.
Chính phủ (2021), Nghị
định số 37/2021/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29 tháng 3 năm 2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 137/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Căn cước công dân.
7.
Christian Gomille (2023), “Online
Notarization in Germany”, từ cơ sở dữ liệu : https://s.net.vn/v3Cb, truy cập lần cuối ngày
[8-10-2023].
8.
Code Of Virginia Sections of the Code of
Virginia Pertaining to Notaries Public, Published by the Office of the
Secretary of the Commonwealth, May 12, 2021, từ cơ sở dữ liệu: https://www.governor.virginia.gov/media/governorvirginiagov/secretary-of-the-commonwealth/pdf/notary/Code-of-Virginia.pdf, truy cập lần cuối ngày [16-10-2022].
9.
Đào Duy An (2020), “Ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động công chứng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp Luật – Ấn phẩm đặc biệt dành cho Hiệp hội Công
chứng viên Việt Nam xuất bản tháng 01-2020.
10. David Thun (2014) “FAQ: Can I Notarize Documents In Other States Or
Countries?”, National Notary Association, từ cơ sở dữ liệu,
https://tinyurl.com/yjr22xur, truy cập lần cuối ngày [01-10-2022].
11. Décret n° 2020-1422 du 20 novembre 2020 instaurant la procuration notariée
à distance, từ cơ sở dữ liệu https://www.legifrance.gouv.fr/jorf/id/JORFTEXT000042544060, truy cập lần cuối ngày [16-10-2022].
12.
Décret n° 2020-1422 du 20 novembre 2020
instaurant la procuration notariée à distance, từ cơ sở dữ liệu: https://tinyurl.com/3tnxbxbr, truy cập lần cuối ngày [08-11-2022].
13.
Dossier
De Presse (2008), Signature du premier acte authentique sur support
électronique, Conseil
supérieur du notariat, Tr.7
14. Dương Bạch Long (2022), ”Hành nghề công chứng
và tổ chức hành nghề công chứng ở Cộng hòa Pháp, CHLB Đức”, Viện Khoa học pháp lý - Bộ tư Pháp, từ
cơ sở dữ liệu https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2623, truy cập lần cuối ngày [01-10-2022].
15. Hải Lan
(2023), “Nhiều bị hại
sập bẫy lừa bằng hình ảnh, giọng nói trên không gian mạng”, Trang thông tin điện tử
Báo Công an Nhân dân, từ cơ sở dữ liệu: https://cand.com.vn/Ban-tin-113/nhieu-bi-hai-sap-bay-lua-bang-hinh-anh-giong-noi-tren-khong-gian-mang-i689404/, truy cập lần cuối ngày [14-09-2023].
16. Hiệp hội
công chứng quốc gia Nhật Bản (2018), Báo cáo
“Xây dựng thông tin cho hoạt động công chứng”, Hội nghị toàn thể lần thứ 8, Ủy ban các vấn đề châu Á của Liên minh
công chứng quốc tế tổ chức tại Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc, tháng 9 năm 2018,
tr.30-34.
17. Hiệp hội công chứng Trung Quốc (2018), Báo cáo “Xây dựng thông tin của công nghệ công chứng Trung Quốc” tại Hội
nghị toàn thể lần thứ 8 Ủy ban các vấn đề Châu án của Liên minh công chứng quốc
tế tổ chức tại Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc, tháng 9 năm 2018 tr.19.
18. Hùng Quân
(2023), “Cảnh giác với thủ đoạn lợi dụng công nghệ Deepfake để lừa đảo”,
Trang thông tin điện tử Báo Công an Nhân dân, từ cơ sở dữ liệu: https://cand.com.vn/Cong-nghe/canh-giac-voi-thu-doan-loi-dung-cong-nghe-deepfake-de-lua-dao-i688571/, truy cập lần cuối ngày [09-14-2023].
19.
International Union of Notaries (2016), Electronic notarial acts
and paperless processes 28th International Congress of Notaries, 28th
International Congress of Notaries, Paris,
Page 1.
20. Khánh An
(2023), “Lừa đảo AI giả
giọng nói tràn lan tại Mỹ”, Trang thông tin điện tử Báo Thanh niên, https://thanhnien.vn/lua-dao-ai-gia-giong-noi-tran-lan-tai-my-185230613125638474.htm, , truy cập lần cuối ngày [14-09-2023].
21.
Loi n°2000-230 du 13 mars 2000 et décret
n°2005-973 du 10 août 2005, từ cơ sở dữ liệu https://www.legifrance.gouv.fr/jorf/id/JORFTEXT000000399095, truy cập lần cuối ngày [31-8-2022].
22.
Michael Lewis (2018), “Remote
Notarization: What You Need To Know”, National Notary Association, https://www.nationalnotary.org/notary-bulletin/blog/2018/06/remote-notarization-what-you-need-to-know, truy cập lần cuối ngày [10-10-2022].
23. Montana Code Annotated 2021, từ cơ sở dữ liệu https://leg.mt.gov/bills/mca/title_0010/chapter_0050/part_0060/section_0050/0010-0050-0060-0050.html, truy cập lần cuối ngày [17-10-2022].
24. National
Notary Association, “How to become a Remote Online Notary”, từ cơ sở dữ
liệu https://www.nationalnotary.org/knowledge-center/remote-online-notary/how-to-become-a-remote-online-notary, truy
cập lần cuối ngày [25-09-2023].
25. Nguyễn Huy
Cường (2019), “Chế định về công chứng và chứng thực theo pháp luật Việt Nam
- Bất cập và kiến nghị hoàn thiện”, cổng thông tin điện tử Sở Tư pháp -
Tỉnh Bình Dương, cơ sở dữ liệu
https://tinyurl.com/4u64hftx, truy cập lần cuối ngày [22-12-2022].
26.
Par Marie-Claire Varenne, Etudiante (2022) « L’acte authentique par comparution à distance : quel avenir ? », Village
des Notaires, từ cơ sở dữ liệu https://www.village-notaires.com/L-acte-authentique-par-comparution#:~:text=Par%20Marie%2DClaire%20Varenne%2C%20Etudiante,qui%20est%20un%20%C3%A9v%C3%A8nement%20exceptionnel, truy cập lần cuối ngày
2[4-09-2022].
27.
Pennsylvania Department of State: “Electronic/Remote Notarization”, https://www.dos.pa.gov/Pages/default.aspx, truy cập lần cuối ngày [31-8-2022].
28. Phạm Thị Thúy Hồng & Hoàng Mạnh Thắng (2022), “Công chứng số-
Tương lai của Công chứng Việt Nam” , Tạp
chí Nghề luật số 01/2022, Học viện Tư Pháp, Tr.9.
29.
Phan Thị Bình Thuận (2020), “Công chứng
điện tử tại Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0”, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp số
20 (420), Tr.41.
30.
Quốc hội (2014), Luật Công
chứng năm 2014.
31.
Quốc hội (2023), Dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi), Cổng thông tin điển tử Chính phủ, dẫn từ
cơ sở dữ liệu: https://chinhphu.vn/du-thao-vbqppl/du-thao-luat-cong-chung-sua-doi-5737, truy cập lần cuối ngày [25-09-2023].
32. Thái Bình
(2007), “Bỏ "công chứng theo địa
hạt", tạo kẽ hở cho tội phạm?”,
Báo Công an Nhân dân, từ cơ sở dữ liệu
https://cand.com.vn/Xa-hoi/Bo-cong-chung-theo-dia-hat-tao-ke-ho-cho-toi-pham-i42942/,
truy cập lần cuối ngày [01-10-2022].
33.
Timothy S Reiniger & Philip M Marston
(2013) “The Deed Is Done: On-Line Notarization becomes a Reality”. Digital Evidence and
Electronic Signature Law Review, Page 144.
34. Trần Thăng
Long & Trương Thị Nho (2022), “Hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về chữ ký số”, Trang thông tin điển tử Tạp chí Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tư pháp,
cơ sở dữ liệu https://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=763, truy cập lần cuối ngày [02-10-2022].
35. Trần Thị Ngọc Thảo, “Xây
dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành trong các cơ quan đảng, nhà nước và
doanh nghiệp”, Trang Thông tin điện tử Tạp chí Xây dựng Đảng, https://www.xaydungdang.org.vn/nghi-quyet-va-cuoc-song/xay-dung-he-thong-co-so-du-lieu-chuyen-nganh-trong-cac-co-quan-dang-nha-nuoc-va-doanh-nghiep-18112, truy cập lần cuối ngày [12-09-2023].
36. Xuân
Phúc (2020), “Misa dừng cung cấp chữ ký
số từ xa do chưa đáp ứng quy định”, Tạp chí điện tử Thông tin và Truyền thông,
từ cơ sở dữ liệu https://ictvietnam.vn/misa-dung-cung-cap-chu-ky-so-tu-xa-do-chua-dap-ung-quy-dinh-20200526125544275.htm, truy cập lần cuối ngày [02-10-2022].
* ThS. Trường Đại học
Kinh tế - Luật, ĐHQG – HCM. Duyệt đăng 24/3/2024
** ThS Trường Đại học
Kinh tế - Luật, ĐHQG – HCM. Email: sanglm@uel.edu.vn
[1] The Ministry of Justice (1998), “Report on the Legal
System of Electronic”, dẫn từ cơ sở dữ liệu: https://www.moj.go.jp/ENGLISH/information/rotlf-11.html, truy
cập lần cuối ngày [8-10-2023].
[2] Báo cáo “Xây dựng thông
tin cho hoạt động công chứng” của Hiệp hội công chứng quốc gia Nhật Bản tại Hội
nghị toàn thể lần thứ 8, Ủy ban các vấn đề châu Á của Liên minh công chứng quốc
tế tổ chức tại Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc, tháng 9 năm 2018, tr.30-34.
[3] Section 47.1-2 Powers, Code Of Virginia Sections of the Code of
Virginia Pertaining to Notaries Public, Published by the Office of the
Secretary of the Commonwealth, May 12, 2021, từ cơ sở dữ liệu: https://www.governor.virginia.gov/
media/governorvirginiagov/secretary-of-the-commonwealth/pdf/notary/Code-of-Virginia.pdf, truy cập lần
cuối ngày [16-10-2022].
[4] Section 47.1-12 Powers, Code Of Virginia Sections of the Code of
Virginia Pertaining to Notaries Public, Published by the Office of the
Secretary of the Commonwealth, May 12, 2021, từ cơ sở dữ liệu: https://www.governor.virginia.gov/
media/governorvirginiagov/secretary-of-the-commonwealth/pdf/notary/Code-of-Virginia.pdf, truy cập lần
cuối ngày [16-10-2022].
[5] Section 47.1-2 Powers, Code Of Virginia Sections of the Code of
Virginia Pertaining to Notaries Public, Published by the Office of the
Secretary of the Commonwealth, May 12, 2021, từ cơ sở dữ liệu: https://www.governor.virginia.gov/media/governorvirginiagov/secretary-of-the-commonwealth/pdf/notary/Code-of-Virginia.pdf, truy cập lần
cuối ngày [16-10-2022].
[6] Phan Thị Bình Thuận, “Công
chứng điện tử tại Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0”, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp số
20, Tr.41 (2020)
[7] Phạm Thị Thúy Hồng &
Hoàng Mạnh Thắng, “Công chứng số- Tương lai của Công chứng Việt Nam” , Tạp chí Nghề luật số 01/2022, Học viện
Tư Pháp, Tr.9. (2022)
[8] Dự thảo Luật Công
chứng (sửa đổi), Cổng thông tin điển tử Chính phủ, dẫn từ cơ sở dữ liệu: https://chinhphu.vn/du-thao-vbqppl/du-thao-luat-cong-chung-sua-doi-5737, truy cập lần cuối ngày [25-09-2023].
[9] Phan Trung Hiền,”Về nội hàm của một số khái niệm trong pháp
luật đất đai”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 20,
Tr.28-36. (2013)
[10] Michael Lewis (2018), “Remote
Notarization: What You Need To Know”, National Notary Association, https://www.
nationalnotary.org/notary-bulletin/blog/2018/06/remote-notarization-what-you-need-to-know, truy cập lần cuối ngày [10-10-2022].
[11] Pennsylvania Department of State:
“Electronic/Remote Notarization”, https://www.dos.pa.gov/Pages/default.aspx, truy cập lần cuối ngày [31-8-2022].
[12] Loi n°2000-230 du 13 mars
2000 et décret n°2005-973 du 10 août 2005, từ cơ sở dữ liệu https://www. legifrance.gouv.fr/jorf/id/JORFTEXT000000399095.
[13] Par
Marie-Claire Varenne, Etudiante (2022) « L’acte authentique par comparution à distance : quel avenir ? », Village
des Notaires, từ cơ sở dữ liệu
https://www.village-notaires.com/L-acte-authentique-par-comparution#
:~:text=Par%20Marie%2DClaire%20Varenne%2C%20Etudiante,qui%20est%20un%20%C3%A9v%C3%A8nement%20exceptionnel,
[truy cập lần cuối ngày 24-09-2022].
[14] International Union of
Notaries (2016), Electronic notarial acts
and paperless processes 28th International Congress of Notaries, 28th
International Congress of Notaries, Paris, Page 1.
[15] Điểm c Khoản 1 Điều 62 Dự thảo
Luật Công chứng (sửa đổi), Cổng thông tin điển tử Chính phủ, dẫn từ cơ sở dữ
liệu: https://chinhphu.vn/du-thao-vbqppl/du-thao-luat-cong-chung-sua-doi-5737, truy cập lần cuối ngày [25-09-2023].
[16] Timothy S Reiniger &
Philip M Marston, “The Deed Is Done: On-Line Notarization becomes a Reality”. Digital Evidence and Electronic Signature Law
Review, Page 144 (2013)
[17] Décret
n° 2020-1422 du 20 novembre 2020 instaurant la procuration notariée à distance,
từ cơ sở dữ liệu:
https://tinyurl.com/3tnxbxbr, truy cập lần cuối ngày [08-11-2022].
[18] Khoản 2 Điều 62 Dự thảo Luật Công chứng
sửa đổi, Trang thông tin điện tử Chính phủ, https://chinhphu.vn/du-thao-vbqppl/du-thao-luat-cong-chung-sua-doi-5737, truy cập lần cuối ngày [12-09-2023]
[19] Đào Duy An, “Ứng dụng
công nghệ thông tin trong hoạt động công chứng”, Tạp chí Dân chủ và Pháp
Luật – Ấn phẩm đặc biệt dành cho
Hiệp hội Công chứng viên Việt Nam xuất bản tháng 01 (2020)
[20] Dossier De Presse (2008), Signature du premier acte authentique sur support
électronique, Conseil
supérieur du notariat, Tr.7.
[21] Bộ Tư pháp Việt Nam - Hội đồng công chứng tối cao Cộng hòa Pháp (2018),
Thực trạng và triển vọng phát triển ở Việt Nam, Tài liệu Tọa đàm Kinh nghiệm số
hóa công chứng Pháp, tháng 7 năm 2018, tr.7, tr.7.
[22] Dossier De Presse (2008), Signature du premier acte authentique sur support
électronique, Conseil
supérieur du notariat, Tr.7.
[23] Hiệp hội
công chứng Trung Quốc (2018), Báo cáo “Xây
dựng thông tin của công nghệ công chứng Trung Quốc” tại Hội nghị toàn thể
lần thứ 8 Ủy ban các vấn đề Châu án của Liên minh công chứng quốc tế tổ chức
tại Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc, tháng 9 năm 2018 tr.19.
[24] Hiệp hội
công chứng Trung Quốc (2018), Báo cáo “Xây
dựng thông tin của công nghệ công chứng Trung Quốc” tại Hội nghị toàn thể
lần thứ 8 Ủy ban các vấn đề Châu án của Liên minh công chứng quốc tế tổ chức
tại Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc, tháng 9 năm 2018 tr.22-24.
[25] Nghị định số:
47/2020/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ Quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước.
[26] Điều 64 Dự thảo Luật Công
chứng sửa đổi, Trang thông tin điện tử Chính phủ, https://chinhphu.vn/du-thao-vbqppl/du-thao-luat-cong-chung-sua-doi-5737, truy cập lần cuối ngày [12-09-2023].