Pháp luật về hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
(PLPT) - Bài viết nghiên cứu hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa tại Việt Nam.
Tóm tắt:
Bài viết chỉ
ra rằng, lý luận của thuyết pháp nhân hư cấu được tiếp thu trong lý luận về tư
cách pháp nhân của công ty cổ phần tại Việt Nam không phù hợp với trường phái
triết học Marx – Engels (chủ nghĩa cộng sản) - nền tảng tư tưởng chủ đạo của
Nhà nước và pháp luật tại Việt Nam. Bằng phương pháp phê phán của Marx đối với
chủ nghĩa duy tâm của đại diện tiêu biểu Hegel, bài viết làm rõ yếu tố cốt lõi
trong lý luận này là đặc sản thuộc trường phái duy tâm: “chủ nghĩa thần bí”[1] và
là quan điểm sai lầm. Hệ quả tất yếu của nó là xa rời thực tiễn, cụ thể là,
thực tiễn công ty cổ phần. Từ đó, đề xuất ý kiến khắc phục.
Từ khóa: lý thuyết
pháp nhân hư cấu, tư cách pháp nhân, công ty cổ phần, duy tâm, duy vật
The article
points out that the fiction theory of legal personality which was adopted to
form legal personality of joint-stock company in Vietnam, is fundamentally
incompatible with Marx–Engels philosophy – the foundation of the State and law
in Vietnam. By Marx’s critical method in his own work which criticized Hegel
idealism, the article highlights the peculiar feature of the idealist -
“mysticism” in the fiction theory of legal personality. Its common outcome is
unrealistic. To prove the unrealistic of the theory, this article focus on the
practical realities of the joint-stock company. Hence, this article also
proposes suggestions to improve the problems.
Keywords: fiction theory, legal personality,
joint-stock company, idealism, materialism
Tư cách pháp lý của tổ chức (pháp nhân) là một khái niệm nền tảng của pháp luật phương Tây,[2] trong đó, bao gồm tư cách pháp lý của công ty. Vấn đề này đã được các chuyên gia nghiên cứu và tranh luận qua nhiều thập kỷ.[3] Nhiều học thuyết về công ty đối vốn đã được phát triển ở Hoa Kỳ[4] nhưng nhìn chung, lý thuyết có sức ảnh hưởng chủ yếu là lý thuyết giả tưởng về pháp nhân (trường phái duy pháp) và lý thuyết thực tại về pháp nhân (trường phái duy thực).[5] Lý luận mà các lý thuyết mang lại chủ yếu là các nội dung về nguồn gốc pháp nhân và các điều kiện, đặc điểm chung, trong đó, bao gồm năng lực pháp lý của pháp nhân, được vận dụng chung cho tất cả các loại pháp nhân bao gồm pháp nhân công quyền là Nhà nước và pháp nhân tư. Nguyên nhân là do việc nghiên cứu về nguyên bản pháp nhân thực của học giả Otto von Gierke và pháp nhân hư cấu của học giả Friedrich Carl von Savigny cũng không có sự phân biệt rõ ràng. Các ví dụ được sử dụng để lập luận cho các đặc điểm chung của pháp nhân đến từ tất cả các loại hiệp hội, hội đoàn, từ hội đoàn tôn giáo, hiệp hội thương mại cho đến lãnh địa và hội đồng thành phố mà không phân biệt rõ nét giữa khối công và tư. Vậy nên, về cơ bản, khi Việt Nam tham khảo và tiếp thu các lý luận này từ nước ngoài[6] cũng đã đồng thời, tiếp thu các đặc điểm chung này cho tất cả các tổ chức được xem là pháp nhân. Vì lẽ đó, khi nghiên cứu tư cách pháp nhân của công ty cổ phần (CTCP), bài viết phải sử dụng phép so sánh bằng đối tượng tại Việt Nam tương tự với ví dụ mà các chuyên gia đã sử dụng trong nghiên cứu gốc, cụ thể ở các phần liên quan đến hội đồng thành phố, cơ quan nhà nước và chính Nhà nước, để làm rõ bản chất vấn đề.
Pháp nhân là CTCP được phân loại là pháp nhân thương mại (Điều 75 Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2015).[7] Có quan điểm cho rằng, pháp nhân mà Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015 (BLDS 2015) thể hiện tương đồng với pháp nhân thuộc trường phái duy thực.[8] Tuy nhiên, bởi vì sự tiếp thu đồng thời cả hai lý thuyết nên một vài lý luận cốt lõi của thuyết pháp nhân hư cấu vẫn tồn tại trong hệ thống lý luận về pháp nhân hiện nay tại Việt Nam mà không có sự phân biệt với lý thuyết thực thể thực mặc dù hai loại lý thuyết này về cơ bản có sự khác biệt rõ ràng. Qua quá trình vận dụng, các nội dung của lý thuyết pháp nhân hư cấu thể hiện những điểm không phù hợp với thực tế, ví dụ cụ thể là thực tiễn của CTCP, cũng như có nhiều điểm mâu thuẫn với các luận điểm khác của pháp nhân thực được Việt Nam tiếp thu và các quy định liên quan đến CTCP tại Luật Doanh nghiệp Việt Nam.
Vì thế nên, bài viết góp phần rà soát lại một cách có hệ thống, ngắn gọn lý thuyết của pháp nhân hư cấu. Trong đó, xác định các vấn đề mâu thuẫn trong lý luận lẫn thực tiễn vận dụng đối với CTCP. Đồng thời, bằng quan điểm duy vật của Marx và Engels, bài viết chỉ ra nguyên nhân của vấn đề bắt nguồn từ quan điểm sai lầm được tạo thành bởi chủ nghĩa duy tâm trong thuyết pháp nhân hư cấu. Từ đó, đề xuất ý kiến nhằm cải thiện tình trạng này.
Nền tảng tư tưởng chủ đạo của pháp luật Việt Nam là chủ nghĩa duy vật lịch sử được trình bày bởi Marx và Engels trong tác phẩm“Hệ tư tưởng Đức” vào năm 1845-1846.[9] Theo đó, pháp luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử là một phần của “kiến trúc thượng tầng”, được hình thành từ “cơ sở hạ tầng” kinh tế.[10] Bên cạnh đó, pháp luật không phải là hiện tượng trung tính hay tự chủ mà phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị. Pháp luật bị quy định bởi các quan hệ sản xuất và phục vụ việc duy trì, củng cố địa vị của giai cấp trong xã hội có giai cấp.[11] Từ đó, Marx cho rằng, không thể hiểu được pháp luật nếu không phân tích các quan hệ sản xuất và điều kiện kinh tế cơ bản của xã hội.[12] Hệ quả là, các thay đổi trong cơ sở kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi trong pháp luật.[13] Tuy nhiên, Marx cũng thừa nhận rằng, pháp luật có thể tác động ngược lại đối với cơ sở kinh tế, nhưng chỉ ở mức phụ thuộc và hạn chế.[14] Vì lẽ đó, việc phân tích sự phát triển của pháp luật có nhiệm vụ phơi bày lợi ích giai cấp chứa đựng trong đó.[15] Vậy nên, pháp nhân của chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng phải là một phạm trù thuộc “kiến trúc thượng tầng”, được hình thành từ “cơ sở hạ tầng” kinh tế và có khả năng phơi bày được lợi ích nhóm chứa đựng trong đó.
Bên cạnh đó, Marx và Engels đã chỉ ra rằng, đặc điểm phổ biến của các sản phẩm thuộc trường phái duy tâm là “chủ nghĩa thần bí” (mysticism) và hệ quả tất yếu của nó là quan điểm sai lầm, xa rời thực tiễn.[16] Bằng phương pháp phê phán của Marx đối với triết lý về quyền của Hegel, bài viết làm rõ yếu tố “thần bí” trong lý luận của thuyết pháp nhân hư cấu và chứng minh cho sự xa rời thực tiễn, sai lầm của lý luận bằng thực tiễn CTCP.
Lý luận về tư cách pháp nhân của công ty tại Việt Nam được cho là xuất phát từ lý thuyết pháp nhân hư cấu (thuyết giả tưởng về pháp nhân). Sau đó, có sự thay đổi sang lý thuyết pháp nhân thực.[17] Tuy nhiên, qua các công trình nghiên cứu tại Việt Nam, có thể thấy rằng, quan điểm lý luận về tư cách pháp nhân công ty tại Việt Nam có sự khác biệt, không thống nhất giữa các chuyên gia. Một vài chuyên gia thể hiện rõ xu hướng theo đuổi trường phái pháp nhân thực,[18] trong khi các chuyên gia khác lại vẫn giữ nguyên các quan điểm lý luận của lý thuyết pháp nhân hư cấu và thêm vào một số luận điểm của lý thuyết pháp nhân thực[19]. Thế nên, có thể thấy rằng, các quan điểm lý luận hình thành nên khái niệm tư cách pháp nhân của CTCP tại Việt Nam hiện nay đang được tiếp thu từ cả hai lý thuyết và có thể được trình bày ngắn gọn như sau:
Về nguồn gốc, pháp nhân có thể được hình thành bởi sự sáng tạo của cá nhân, pháp nhân.[20] Thời điểm pháp nhân được thành lập theo quy định của luật là sự thể hiện cho việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ từ các sáng lập viên sang cho pháp nhân.[21] Trong đó, thừa nhận việc hình thành và hoạt động dựa trên sự thỏa thuận tự nguyện giữa các thành viên.[22] Nói cách khác, quan điểm này thừa nhận mối quan hệ hợp đồng giữa các thành viên trong CTCP.
Về ý chí, cơ cấu tổ chức, tài sản và việc tham gia vào các quan hệ pháp luật, pháp nhân được khẳng định không phải là số cộng đơn giản của nhiều người hay là sự kết hợp rời rạc của các đồng sở hữu mà là một thể thống nhất, độc lập không phụ thuộc vào ý chí của thành viên hay bất kì ai.[23]
Tuy nhiên, các lý luận trong hai lý thuyết này có sự khác biệt về cơ bản một cách rõ nét và có thể được khái quát như sau:
Đầu tiên là lý thuyết pháp nhân hư cấu. Lý thuyết này là mô hình nền tảng lý luận sớm nhất về tư cách pháp nhân của CTCP. Nguồn gốc của nó đến từ Luật La Mã và việc xây dựng tư cách pháp nhân của tổ chức được thực hiện thông qua mô phỏng vị trí pháp lý của thể nhân (tư cách pháp nhân La Mã).[24] Vì tư cách pháp nhân La Mã (bao gồm cả tư cách pháp lý của thể nhân) không thể bị phân chia và chuyển nhượng.[25] Vậy nên, cách duy nhất là sáng tạo ra một con người pháp lý. Từ đó, nó có tên gọi là giả định nhân tạo hay hư cấu pháp lý.[26] Đồng thời, nguồn gốc, mục đích, quyền và nghĩa vụ pháp lý của tổ chức đều là do con người hay pháp luật sáng tạo ra. Theo đó, nội dung của ý chí, mục đích pháp lý, quyền và nghĩa vụ của pháp nhân cũng bị giới hạn và được cố định theo thiết lập ban đầu của sự sáng tạo trong pháp luật.[27] Vì thế nên, nó được đặc trưng bởi tính độc lập tuyệt đối về ý chí, mục đích, tài sản và quyền tài sản của pháp nhân.[28]
Tiếp theo là lý thuyết pháp nhân thực. Lý thuyết này là mô hình của tư cách pháp nhân theo Luật Đức (tư cách pháp nhân Đức), được xây dựng dựa trên nền tảng có sẵn của pháp luật Đức với quan điểm “thống nhất trong đa dạng” và việc tiếp thu có điều chỉnh “sự trừu tượng hóa” từ Luật La Mã.[29] Sự khác biệt của tư cách pháp nhân Đức được khẳng định là không có đặc tính độc lập tuyệt đối như pháp nhân của Luật La Mã và pháp nhân hư cấu mà thay vào đó là đặc tính độc lập “có điều kiện và bị giới hạn” [30] (độc lập tương đối) do nhân cách Đức (quyền và nghĩa vụ pháp lý của thể nhân) có khả năng phân chia và chuyển giao cho tổ chức.[31] Thêm vào đó, pháp nhân thực không phải là sự sáng tạo của pháp luật hay con người mà là tổ chức được hình thành trong đời sống xã hội của con người và được pháp luật thừa nhận. Điều này có nghĩa là, các tổ chức tồn tại như một hiện tượng xã hội và pháp luật cần phải thừa nhận các tổ chức này như cái cách mà pháp luật đã thừa nhận quyền và nghĩa vụ của thể nhân. Vì lẽ đó, nguồn gốc, ý chí, mục đích, quyền và nghĩa vụ pháp lý của pháp nhân đều xuất phát từ con người và phải thông qua con người chứ không phải là sự sáng tạo và hoạt động, phát triển tự thân như pháp nhân hư cấu.[32]
Từ đó, có thể thấy rằng, quan điểm pha trộn về tư cách pháp nhân CTCP được Việt Nam tiếp thu vừa có sự độc lập tuyệt đối của pháp nhân hư cấu nhưng lại vừa có việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ của thể nhân cho pháp nhân cùng với mối quan hệ giữa các thành viên thuộc lý luận của pháp nhân thực mặc dù hai quan điểm này là trái ngược nhau.[33]
Như đã trình bày bên trên, lý luận về tư cách pháp nhân CTCP tại Việt Nam được cho là có sự chuyển đổi từ pháp nhân hư cấu sang pháp nhân thực. Lý giải cho sự thay đổi này là do việc thừa nhận công ty hợp danh là pháp nhân. Bởi lẽ, công ty hợp danh không phải là pháp nhân do pháp luật sáng tạo ra theo thiết lập ban đầu, mà dựa trên hoạt động và sự tác động tới bên thứ ba của nó trên thực tế, pháp luật buộc phải thừa nhận tư cách pháp nhân của nó.[34] Nói cách khác, công ty hợp danh đóng vai trò là một kết quả kiểm chứng đối với lý luận về nguồn gốc của pháp nhân. Theo đó, nó đã chứng minh cho tính đúng đắn của lý luận về nguồn gốc pháp nhân thực và ngược lại, thể hiện sự sai lệch của lý luận về nguồn gốc pháp nhân hư cấu. Nhận thức được sự không phù hợp của lý luận thuộc trường phái pháp nhân hư cấu, các chuyên gia ủng hộ quan điểm của pháp nhân thực đã hoàn toàn loại bỏ đặc tính độc lập tuyệt đối của pháp nhân, thể hiện qua việc không ghi nhận các quan điểm phủ nhận ý chí, quyền của thành viên.[35] Thay vào đó, chỉ ghi nhận sự độc lập của pháp nhân nhằm: (i) phân biệt với tư cách chủ thể của các thành viên sáng lập; (ii) làm cơ sở xây dựng và giải thích quy định về tài sản pháp nhân và trách nhiệm pháp lý của pháp nhân.[36] Điều này thể hiện sự phù hợp với đặc tính độc lập tương đối của pháp nhân thực.
Tình trạng này xảy ra là do sức ảnh hưởng mạnh mẽ của lý thuyết pháp nhân hư cấu. Bởi lẽ, nó là nền tảng lý luận đầu tiên cho đặc tính độc lập của pháp nhân CTCP và là tiền đề cho lý luận về trách nhiệm hữu hạn của pháp nhân. Ngay cả lý thuyết pháp nhân thực cũng tiếp thu có điều chỉnh thuyết pháp nhân hư cấu để hình thành sự thống nhất và đặc tính độc lập (có điều kiện và bị giới hạn) cho pháp nhân Đức. Thế nên, không chỉ tại Việt Nam, ở Hoa kỳ vẫn có nhiều chuyên gia ủng hộ quan điểm lý luận của lý thuyết pháp nhân hư cấu và cả lý thuyết pháp nhân thực.[37] Vậy nên, việc ghi nhận sự tồn tại song song cả hai lý thuyết là điều rất phổ biến và dễ dàng tìm được ở nhiều tài liệu nghiên cứu khác nhau.
Thuyết pháp nhân hư cấu về tư cách pháp lý của tổ chức (bao gồm CTCP) được trình bày một cách đầy đủ bởi tác giả Friedrich Carl von Savigny trong tác phẩm “System des heutigen Römischen Rechts” tập 2 vào năm 1840.[38] Tác giả Savigny được biết đến là nhà lãnh đạo của trường phái triết học pháp luật lịch sử[39] và là cha đẻ của lý thuyết “Volksgeist” (thuyết tinh thần dân tộc[40] hay ý chí[41] dân tộc)[42] được trình bày trong tập 1 của tác phẩm trên. Theo Savigny, nguồn gốc của luật pháp nằm ở “tinh thần dân tộc” mà cái “tinh thần dân tộc” này “không thể đồng nhất với bất kỳ thực thể cụ thể nào, hoặc với các quyết định và hành động có ý thức của những người cụ thể”[43]. Thậm chí, bản thân ông còn tự thừa nhận rằng, lý thuyết về nguồn gốc của luật pháp này nằm ngoài khả năng kiểm chứng thực nghiệm và giống với thuyết khế ước xã hội.[44] Từ đó, pháp luật được gọi là “luật dân tộc” (“Volksrecht”). Thế nhưng, pháp luật không được hình thành bởi ý chí cá nhân của các thành viên trong dân tộc, mà theo đó, phải là “Volksgeist” – ý thức chung của dân tộc - sống và hoạt động chung trong mỗi cá nhân, đã tạo ra pháp luật hiện hành.[45] Từ đó, hình thành quy luật phát triển của pháp luật, mà theo đó, Savigny đã khẳng định rằng, pháp luật phát triển hữu cơ trong đời sống dân tộc, và “sự phát triển này cũng tuân theo cùng quy luật của sự hình thành từ sức mạnh và nhu cầu nội tại, độc lập với sự ngẫu nhiên và ý chí cá nhân”.[46] Điều này lý giải cho quan điểm pháp luật là chủ thể sáng tạo ra pháp nhân và các đặc điểm của pháp nhân trong lý luận của pháp nhân hư cấu, bởi lẽ, pháp luật của Savigny được cho là có ý chí riêng. Thế nên, có quan điểm cho rằng, Savigny là luật gia theo trường phái duy tâm lịch sử, trong đó, lịch sử đạo đức của một dân tộc là tiêu chí quyết định để xác định “tinh thần” của luật pháp (spirit of the laws).[47] Thật vậy, quan điểm về “tinh thần dân tộc” của Savigny hoàn toàn tương đồng với định nghĩa và đặc điểm của chủ nghĩa duy tâm khách quan.[48] Trong đó, có “sự thần bí” một cách rõ ràng, cụ thể là, pháp luật có ý chí riêng (“ý chí dân tộc”) tách biệt ra khỏi các sự vật, hiện tượng cụ thể, con người cụ thể và có khả năng tự phát triển.[49] Tại đây, bằng một trong những quan điểm phê phán của Marx, có thể nhận thấy rằng, sự tồn tại của pháp luật trong thực tiễn đời sống xã hội của con người không được thể hiện (hay mô tả) như chính bản chất thực sự của nó mà lại được mô tả một cách trừu tượng thành “tinh thần dân tộc” như trên.[50] Cụ thể hơn, cái gọi là tinh thần dân tộc, nó là ý chí chung của thành viên trong cộng đồng và là thuộc tính[51] của con người. Tuy nhiên, Savigny đã “đối tượng hóa” (objectified)[52] thuộc tính này trở thành một chủ thể độc lập,[53] tách biệt khỏi chủ thể thực sự ban đầu của nó là các thành viên cộng đồng và gọi nó là “tinh thần dân tộc”. Nó có đặc tính phổ quát và có khả năng tự phát triển. Vậy nên, có thể khẳng định rằng, “tinh thần dân tộc” của Savigny chính là một “thực thể huyền bí” (the mystical substance).[54] Đồng thời, qua lăng kính của Marx, có thể khẳng định rằng, pháp luật, với tư cách là một hiện tượng thường thấy trong xã hội có giai cấp và có khả năng kiểm chứng được, sẽ “không có ý chí riêng” hay có khả năng “phát triển từ chính nó”.[55] Thế nên, về bản chất, thuyết pháp nhân hư cấu của Savigny là sản phẩm được hình thành từ nền tảng của trường phái triết học duy tâm lịch sử.
Sự hình thành pháp nhân hư cấu của Savigny chịu ảnh hưởng lớn và có nguồn gốc từ pháp nhân của Luật La Mã.[56] Theo Savigny và Luật La Mã, chỉ có cá nhân con người mới có năng lực pháp lý.[57] Vậy nên, tư cách pháp nhân đồng nghĩa với nhân cách – “Persönlichkeit”, mà theo đó, tư cách pháp nhân của các hiệp hội (bao gồm công ty) là kết quả của việc “nhân cách hóa” (“Personificirung”) các tổ chức. Cách thức xây dựng này được chấp nhận một cách rộng rãi. Từ đó, tư cách pháp nhân của các tổ chức xuất hiện trong pháp luật như một giả định nhân tạo hay một hư cấu pháp lý[58] và được gọi là “con người pháp lý” – “pháp nhân” (“juristische person”).[59] Nguyên nhân là vì tổ chức không thể tự có được năng lực pháp lý và cũng không thể nhận sự chuyển giao năng lực pháp lý từ các thành viên. Bởi lẽ, những thành viên này được cho là không có “mối liên hệ nội tại với nó”.[60] Từ đó, các đặc điểm thiết yếu của tư cách pháp nhân La Mã cũng chính là nền tảng của pháp nhân hư cấu và có thể được kể đến như sau:[61]
Thứ nhất, bản chất tư cách pháp nhân La Mã là ý chí cá nhân được luật pháp công nhận, là một quyền lực ý chí không giới hạn trong phạm vi luật tư. Từ đó, nhân cách La Mã (römische Persönlichkeit) là tuyệt đối. Theo đó, “một ý chí bị lệ thuộc vào ý chí của người khác sẽ không còn là ý chí nữa”[62].
Thứ hai, tư cách pháp nhân La Mã không thể bị phân chia. Nó không thể tách rời bất kì phần nào của bản thân mình mà không tự hủy hoại, do đó, nó cũng không thể là một phần hay một bộ phận của một tư cách pháp nhân khác.
Thứ ba, tư cách pháp nhân La Mã không có khả năng chuyển nhượng.
Các đặc điểm trên đã góp phần hình thành pháp nhân hư cấu của Savigny, theo đó, pháp nhân được định nghĩa như sau: “pháp nhân […] không phải là một thực thể có thật trong tự nhiên, mà là một chủ thể mang ý chí được pháp luật thừa nhận.”[63] Ngoài các đặc trưng nêu trên thì pháp nhân của Savigny còn bao gồm những vấn đề cụ thể như sau:
Về năng lực pháp lý, tổ chức có năng lực pháp lý độc lập do nó là một chủ thể nhân tạo được công nhận thông qua sự “nhân cách hóa” của pháp luật. Vì lẽ đó, nó chỉ được thừa nhận sự tồn tại cho các mục đích pháp lý nhất định.[64] Bên cạnh đó, pháp luật quy định rõ các trường hợp cần thiết tham gia vào các giao dịch tài sản; bao gồm cả khả năng ký kết hợp đồng, chuyển giao quyền sở hữu v.v.[65] Đồng thời, nó có năng lực tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn và bị đơn.[66]
Về nguồn gốc của pháp nhân, Savigny cho rằng, một số pháp nhân là một sự tồn tại tự nhiên hoặc cần thiết, trong khi những pháp nhân khác lại là sản phẩm nhân tạo hoặc mang tính tự nguyện. Trong đó, bao gồm các cộng đồng xã hội (pháp nhân công quyền) và các hiệp hội, công ty, là những pháp nhân được trao các quyền nhất định.[67] Thế nên, thuyết pháp nhân hư cấu của Savigny cũng là một phần trong lịch sử của lý thuyết nhượng quyền (concession theory).[68] Từ thời La Mã cổ đại đã có các hội đoàn thuộc nhiều loại khác nhau, đặc biệt là, các hội đoàn tôn giáo và nghề nghiệp. Tuy nhiên, tại thời điểm này, vẫn chưa xuất hiện nhu cầu cấp thiết về việc cần phải phát triển khái niệm về pháp nhân.[69] Khi lãnh thổ nhà nước được mở rộng, đã làm phát sinh khái niệm về pháp nhân. Bởi lẽ, nhu cầu cấp thiết tại thời điểm đó là việc hình thành vị trí pháp lý cho các thuộc địa vì nó có các nhu cầu về tài sản và khả năng sở hữu tài sản, kéo theo đó là việc tham gia các quan hệ xã hội khiến nó có khả năng bị kiện ra tòa. Từ đó, khái niệm pháp nhân được vận dụng và có một sự phát triển nhất định. Sau các thuộc địa, hội nhóm của các thầy tư tế và thợ thủ công cũng bắt đầu được coi là pháp nhân.[70]
Về tài sản, theo Savigny, bản chất của pháp nhân được đặc trưng bằng “năng lực sở hữu tài sản”.[71] Trong đó, tài sản có khả năng tự mở rộng và hoạt động tự do bằng pháp nhân.[72]
Về ý chí, Savigny đã khẳng định rằng, các quyền về tài sản của pháp nhân không tự phát sinh mà chỉ hình thành thông qua các hành vi pháp lý. Tuy nhiên, các hành vi pháp lý chỉ có thể được thực hiện bởi những cá thể có nhận thức và có ý chí, tức là con người cụ thể.[73] Ở đây xuất hiện mâu thuẫn nội tại của một chủ thể có năng lực tài sản nhưng không thể tự mình đáp ứng các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền đó.[74] Savigny đã đưa ra một ví dụ để minh họa và nỗ lực thuyết phục rằng, có sự tách biệt hoàn toàn giữa ý chí của pháp nhân với ý chí của các thành viên. Bằng ví dụ về mối quan hệ giữa trẻ vị thành niên hay người mất năng lực hành vi với người giám hộ, Savigny đã khẳng định rằng, tổng thể các thành viên của pháp nhân hoàn toàn khác biệt với bản thân pháp nhân. Đồng thời, sự đại diện của pháp nhân nằm ở quyền lực được thiết lập một cách nhân tạo cho một cộng đồng có tổ chức, chứ không phải ở các thành viên hiện tại.[75] Nói cách khác, Savigny cho rằng, ý chí và hành động của pháp nhân được định hình dựa trên nội dung quyền và nghĩa vụ pháp lý được thiết lập sẵn trước đó nhằm mục đích pháp lý nhất định chứ không dựa trên ý chí của thành viên.
Bên cạnh đó, Savigny thể hiện rõ quan điểm không đồng tình với quan điểm ý chí đa số (đa số phiếu) trong Luật La Mã đối với hội đoàn.[76] Theo Savigny, nguyên tắc cơ bản là toàn thể các thành viên tạo thành một thể thống nhất thực sự. Trên cơ sở đó, đa số chỉ là một biến thể tự nhiên cần thiết. Nếu tách rời khỏi tính toàn thể đó, thì chỉ nên thừa nhận quan điểm của đa số trong trường hợp phần lớn các thành viên cùng tham dự, thì ý chí của cuộc họp đó mới mang ý nghĩa quyết định về mặt pháp lý.[77] Vì lẽ đó, Savigny ủng hộ sự bình đẳng tuyệt đối giữa các thành viên.[78]
Tóm lại, về ý chí pháp nhân của Savigny, có ba ý chính: một là, pháp nhân có ý chí độc lập tuyệt đối của riêng mình; hai là, nó bị ràng buộc bởi thiết lập nhân tạo ban đầu nên không bị chi phối bởi ý chí tự do của thành viên; ba là, trong phạm vi ý chí pháp nhân đó, sự quyết định của các thành viên phải là một thể thống nhất thực sự. Từ đó, thành viên có thể thay đổi liên tục mà không ảnh hưởng đến bản chất hoặc sự thống nhất của hội đoàn.[79] Điều này cũng chính là sự lý giải cho quan điểm của Savigny rằng: “bản thân hội đoàn là một sự tồn tại liên tục, bất tận, bất kể sự thay đổi của các cá nhân”[80].
Về cơ cấu tổ chức của pháp nhân, Savigny phản đối quan điểm không xem trọng các cơ quan hoặc chỉ xem các cơ quan như những công cụ phụ thuộc của bộ máy hành chính.[81] Savigny đưa ra dẫn chứng là các Hội đồng thành phố ở Đức. Theo đó, các Hội đồng đóng vai trò là các cơ quan đại diện cho công dân. Vậy nên, toàn quyền thực tế không nằm ở tất cả các thành viên là công dân mà chỉ ở các thành viên trong Hội đồng.[82] Vì thế, các cơ quan mới là nơi chứa đựng quyền lực thực sự. Từ đó, Savigny khẳng định rằng, quan điểm toàn thể thành viên là chủ thể duy nhất có toàn quyền là quan điểm sai lầm.[83]
Mặc dù Savigny cho rằng, có một số pháp nhân tồn tại do nhu cầu thực tiễn và một số là tự nhiên hay nhân tạo mà có, thế nhưng, đến cuối cùng, Savigny thường xuyên khẳng định rằng, nguồn gốc và tất cả mọi đặc điểm thuộc về pháp nhân đều bắt đầu từ sự sáng tạo của pháp luật (giả định hư cấu). Quan điểm này cũng đã được Việt Nam tiếp thu. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận một điều rằng, việc xác định nguồn gốc pháp nhân mang ý nghĩa rất quan trọng: đầu tiên, nó mang lại khả năng lý giải nhu cầu xác lập quyền sở hữu của thành viên (một cách gián tiếp) đối với khoản đóng góp của họ trong pháp nhân; kế đến, nó mang lại khả năng lý giải đối với nguồn gốc của mục đích pháp lý, quyền và nghĩa vụ pháp lý của pháp nhân; cuối cùng, nó đóng vai trò là điểm khởi nguồn để xác định quy luật phát triển của hiện tượng xã hội là pháp nhân. Đối với pháp nhân hư cấu, nguồn gốc pháp nhân mà Savigny sử dụng để mô tả chi tiết đến từ hội đoàn tôn giáo. Theo đó, nguồn gốc pháp nhân của hội đoàn tôn giáo được trình bày rằng, do nhu cầu sở hữu tài sản dẫn đến hình thành các quỹ do nhà thờ lập ra được hiến cúng từ các tín đồ và sử dụng nhằm mục đích phụng sự thần linh.[84] Qua đó, lập luận này trở thành căn cứ hình thành quyền sở hữu tài sản độc lập một cách tuyệt đối cho pháp nhân và không thừa nhận quyền sở hữu (dù là gián tiếp) của thành viên. Bởi lẽ, bản thân người hiến cúng không có nhu cầu xác lập quyền cũng như chi phối đối với quỹ và cũng không có mục đích, động cơ lợi nhuận để cần thiết phải xác lập quyền đối với phần tài sản mà họ đóng góp. Từ đó, tài sản pháp nhân không phải chịu sự giám sát, chi phối bởi cá nhân như CTCP mà chỉ bị quản lý, chi phối bởi ý chí của linh mục. Khác với CTCP, khi các cá nhân cùng nhau đầu tư kinh doanh dưới một hình thức chung là pháp nhân CTCP hiện đại vì mục đích lợi nhuận, họ có nhu cầu xác lập quyền sở hữu dù là gián tiếp với khoản đầu tư của họ trong pháp nhân. Thậm chí, họ còn có nhu cầu giám sát và chi phối việc sử dụng khoản đầu tư đó. Vậy nên, có thể nói rằng, lập luận về nguồn gốc pháp nhân này không phù hợp với pháp nhân là CTCP.
Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này đến từ việc quan điểm của các nhà duy tâm, cụ thể trong trường hợp này là Savigny, thường không thừa nhận nguồn gốc hình thành nên “nhu cầu thực tiễn” hay động lực sáng tạo của con người. Theo quan điểm của Marx và Engels, “động lực thúc đẩy con người hoạt động trong tiến trình lịch sử là nhu cầu và lợi ích, trước hết là nhu cầu vật chất”.[85] Theo đó, nhu cầu thực tiễn và động lực sáng tạo của con người được tạo thành bởi hai khía cạnh: thứ nhất là, điều kiện vật chất khách quan, độc lập với ý thức của con người (biện chứng khách quan); thứ hai là, sự phản ánh của các điều kiện vật chất đó vào bộ não của con người (biện chứng chủ quan).[86] Điều đó có nghĩa là, Savigny không thừa nhận tầm quan trọng của điều kiện vật chất khách quan và sự phản ánh của nó lên não bộ con người trong việc hình thành nhu cầu, sự sáng tạo của con người mà chỉ thừa nhận, “nhu cầu” và sự sáng tạo này là sản phẩm của ý thức người, xuất phát từ con người, mà từ đó, tạo nên thế giới vật chất. Điều đó dẫn đến việc lý luận về pháp nhân này không có khả năng biến đổi linh hoạt với thực tiễn đa dạng. Vì nếu nó gắn liền với nhu cầu thực tiễn khách quan hình thành nên tổ chức được thừa nhận là pháp nhân, thì pháp nhân cũng sẽ có khả năng biến đổi linh hoạt bởi chính nhu cầu, động lực thực tiễn đó. Ví dụ như, nhu cầu xác lập hoặc không xác lập quyền sở hữu (một cách gián tiếp) đối với phần tài sản đã đóng góp vào pháp nhân của thành viên. Bên cạnh đó, nếu được gắn liền với điều kiện hình thành khách quan, nó còn mang lại khả năng lý giải cho: (i) mục đích pháp lý, quyền và nghĩa vụ pháp lý khác nhau của các loại pháp nhân khác nhau và (ii) sự biến đổi của mục đích, quyền và nghĩa vụ pháp lý linh hoạt theo điều kiện, nhu cầu của thực tiễn qua các thời kỳ phát triển.
Ngoài ra, đối với CTCP (“stock companies”), theo quan điểm của Marx, nó được hình thành vì “sự mở rộng to lớn về quy mô sản xuất và doanh nghiệp, điều mà các tư bản cá thể không thể nào thực hiện được”[87]. Nói cách khác, sự hình thành CTCP xuất phát từ nhu cầu vật chất của các tư bản cá thể, mà theo đó, là nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Từ đó, có thể thấy rằng, mục đích – nội dung của ý chí, quyền và nghĩa vụ pháp lý của pháp nhân được cho là do pháp luật sáng tạo ra là quan điểm duy tâm vì nó không gắn sự hình thành các yếu tố này với các điều kiện của thực tiễn xã hội. Việc thừa nhận sự sáng tạo của pháp luật đối với các đặc điểm của pháp nhân khiến cho pháp nhân có khả năng tồn tại liên tục, bất tận ngay từ nguồn gốc hình thành chứ không cần phải chờ đến các luận điểm tiếp theo về sự độc lập tuyệt đối của ý chí, tổ chức và tài sản pháp nhân.[88] Có thể thấy rằng, đây là một quan điểm sai lầm. Bởi lẽ nếu sự tồn tại của pháp nhân (bao gồm các đặc điểm của nó) được gắn với nhu cầu thực tiễn và các điều kiện khách quan hình thành nên nó, thì nó sẽ tiêu vong khi điều kiện đó không còn. Chẳng hạn, Nhà nước của chủ nghĩa cộng sản không phải là phạm trù bất tử. Nhà nước sẽ tiêu vong khi điều kiện hình thành nhà nước không còn.[89] Vậy nên, rõ ràng rằng, lý luận về pháp nhân hư cấu mâu thuẫn với Nhà nước và các cơ quan nhà nước tại Việt Nam. Mặc dù BLDS 2015 không xem Nhà nước là pháp nhân nhưng trong danh sách pháp nhân phi thương mại vẫn có cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị (Điều 76 Luật này). Tương tự như vậy, CTCP là một mô hình của tư bản xã hội.[90] Chính xác hơn, Marx nhìn nhận, đây là một mô hình thể hiện bước quá độ (“transitional phase”), chuyển hóa từ tư bản cá thể thành tư bản xã hội.[91] Vì vậy, sự phát triển của nó có hai khả năng: một là, tiêu vong; hai là, chuyển hóa thành một loại hình mới khi xã hội đạt đến trình độ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Dù là khả năng nào, nó cũng không thể tồn tại như nguyên bản của nó hiện nay. Thế nên, tổ chức là pháp nhân thương mại như CTCP hoàn toàn không có khả năng bất tử. Nói cách khác, việc thừa nhận lý luận về nguồn gốc tư cách pháp nhân theo quan điểm của Savigny là đi ngược lại với định hướng tiến lên xã hội chủ nghĩa của Việt Nam vì nó phủ nhận sự tiêu vong hoặc chuyển đổi theo điều kiện kinh tế của tất cả các tổ chức được thừa nhận là pháp nhân. Từ đó, có thể thấy rằng, lý luận về nguồn gốc của thuyết pháp nhân hư cấu không phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử và thực tiễn khách quan. Thêm vào đó, lý luận này về pháp nhân cũng không mang lại khả năng giải quyết các vấn đề liên quan đến nguồn gốc (điều kiện) hình thành pháp nhân, ví dụ như, khởi nguồn của CTCP để giải quyết các mối quan hệ giữa thành viên và công ty. Đồng thời, không thể quan sát được quy luật phát triển của pháp nhân vì nó không có điểm khởi nguồn từ đời sống thực tiễn và vì vậy, cũng không có điểm kết thúc. Bằng quan điểm của chủ nghĩa Marx-Engels, có thể khẳng định rằng, những hiện tượng xã hội thường thấy như pháp nhân phải là sản phẩm của sự giao tiếp trước đó (the preceeding intercourse) của cá nhân con người.[92] Vậy nên, pháp nhân không phải là tổ chức được hình thành tự nhiên hoặc chỉ đơn thuần là sự sáng tạo của con người hay pháp luật mà chỉ có thể tồn tại tổ chức là pháp nhân do nhu cầu thực tiễn của con người tạo thành. Trong đó, nhu cầu của con người được hình thành từ sự tác động của điều kiện vật chất thuộc thế giới khách quan.
Liên quan đến ý chí của pháp nhân, như đã trình bày bên trên, theo Savigny và Luật La Mã, ý chí pháp nhân là một loại ý chí độc lập tuyệt đối, tách biệt khỏi ý chí của thành viên, mà theo đó, phủ nhận ý chí của thành viên. Bản thân Savigny cũng thừa nhận việc các quyền về tài sản của pháp nhân không thể tự phát sinh mà chỉ có thể hình thành thông qua các hành vi pháp lý, được thực hiện bởi những cá thể có nhận thức và có ý chí, là con người cụ thể.[93] Vậy, tại sao Savigny lại phủ nhận ý chí của các thành viên? Vấn đề này được Savigny giải thích rằng, bản chất các tập đoàn (“corporationen”) là chủ thể của quyền, mà theo đó, quyền này sẽ không nằm ở các thành viên riêng lẻ (hoặc thậm chí ở các thành viên cộng lại), mà nằm ở cái “toàn thể lý tưởng” (“Idealen Ganzen”).[94] Thoạt nhìn, nó có vẻ hợp lý vì quyền của pháp nhân được phân biệt rõ ràng với thành viên. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ, sự phân biệt này ở pháp nhân hư cấu bị “tuyệt đối hóa”. Theo đó, tập hợp các cá nhân riêng lẻ được cho là tách biệt và khác hoàn toàn với cái gọi là “toàn thể” hay “cộng đồng”[95] và giữa các thành viên với toàn thể không có bất kì mối quan hệ nào với nhau. Từ đó, tạo thành ý chí và quyền lực độc lập tuyệt đối của pháp nhân.
Quan điểm này hoàn toàn không phù hợp với nền tảng triết học Marx - Engels. Nguyên nhân là vì nó chính là sự thể hiện rõ nét của “chủ nghĩa thần bí”. Cụ thể, ý chí pháp nhân – ý chí “toàn thể”, về bản chất, chính là ý chí chung của các thành viên, mà theo đó, ý chí hay chính xác hơn là ý thức từ lâu đã được chủ nghĩa Marx – Lenin khẳng định rằng:
Ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất, nhưng không phải mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người. […] [Ý] thức không thể tách rời bộ óc. Tất cả những quan niệm tách rời hoặc đồng nhất ý thức với óc người đều dẫn đến quan điểm duy tâm, thần bí hoặc duy vật tầm thường.[96]
Vậy nên, cái ý chí chung này vốn dĩ chỉ đơn thuần là “thuộc tính” của các thành viên. Thế nhưng, các nhà duy tâm lại “đối tượng hóa” cái ý chí chung này trở thành cái gọi là ý chí “toàn thể” và tách biệt nó ra khỏi chủ thể thực sự của nó - chính là các thành viên. Từ đó, ý chí “toàn thể” được biến thành chủ thể thực sự và được cho là độc lập tuyệt đối – đặc tính vốn chỉ có ở chủ thể thực sự của nó là các thành viên. Hệ quả khi ý chí “toàn thể” trở thành chủ thể là nó biến chủ thể thực sự ban đầu – các thành viên, thành một yếu tố cấu thành của ý chí “toàn thể”. Đồng thời, nó cần có cái chứa đựng nó (a bearer) và đó chính là “pháp nhân”.[97] Tại đây, có thể thấy rằng, ý chí độc lập tuyệt đối của pháp nhân chính là một “thực thể huyền bí”. Ngay cả bản thân Savigny cũng gọi pháp nhân là “thực thể lý tưởng” (“Ideale Wesen”).[98] Điều này chứng thực cho quan điểm, pháp nhân trong khái niệm của Savigny là vật chứa cho “thực thể huyền bí”. Đây cũng là câu trả lời cho câu hỏi vì sao ý chí của pháp nhân có nguồn gốc xuất phát từ ý chí của thành viên nhưng cuối cùng lại phủ nhận ý chí của các thành viên. Theo ngôn ngữ của Marx, thì đây là sự biểu hiện của việc “không có một cây cầu nào” từ ý chí pháp nhân (một loại ý chí phổ quát) sang ý chí cụ thể của thành viên.[99] Marx đã khẳng định rằng, đây là đặc điểm của “bản sắc bị chia cắt” và gọi nó là “sự tha hóa trong thống nhất” của triết học Hegel (đại biểu trường phái duy tâm).[100] Từ đó, có thể thấy rằng, khi tiếp thu thuyết pháp nhân hư cấu, Việt Nam đã vô tình tiếp thu quan điểm pháp nhân là tập hợp thống nhất không phải là các thành viên riêng lẻ cộng lại và tách biệt với các thành viên, mà không nhận ra rằng, đằng sau đó là sự ẩn tàng của chủ nghĩa duy tâm để tạo thành ý chí độc lập tuyệt đối cho pháp nhân nhằm phủ nhận ý chí của thành viên để đạt được sự độc lập tuyệt đối cho pháp nhân về quyền tài sản.
Qua đó, có thể thấy rằng, cái ý chí “toàn thể” này được tạo thành giống như “tinh thần dân tộc” của Savigny. Vậy nên, hoàn toàn có thể khẳng định rằng, lý thuyết về pháp nhân hư cấu là sản phẩm của triết học duy tâm lịch sử và Savigny là một nhà duy tâm lịch sử. Savigny đã xây dựng pháp nhân thành một thực thể siêu hình (a metaphysical construct) và điển hình là Nhà nước.[101] Vậy nên, nếu nhà nước của chủ nghĩa duy tâm là sự che đậy cho ý chí, lợi ích của giai cấp thống trị (giai cấp tư sản)[102], trá hình thành ý chí phổ quát của toàn thể công dân thì pháp nhân của chủ nghĩa duy tâm chính là sự che đậy cho ý chí, lợi ích nhóm, được trá hình thành ý chí độc lập của pháp nhân – ý chí “toàn thể”. Vấn đề này đối với Nhà nước, từ lâu, đã được các nhà duy vật chứng minh là sai lầm. Nó hoàn toàn mâu thuẫn với nội dung cốt lõi – bản chất nhà nước của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước của trường phái duy vật không phải là nhà nước của “ý chí phổ quát”, mà là Nhà nước có giai cấp, có tính đảng. Vậy nên, cùng với sự không phù hợp của lý luận về nguồn gốc pháp nhân bên trên, có thể khẳng định rằng, lý luận về tư cách pháp nhân của thuyết pháp nhân hư cấu không phù hợp để trở thành lý luận chủ đạo của pháp nhân phi thương mại như Nhà nước[103] và các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh đó, đối với CTCP, trong các công trình nghiên cứu về CTCP của các quốc gia và tổ chức quốc tế, đều thừa nhận sự tồn tại của khái niệm gọi là cổ đông kiểm soát và các vấn đề liên quan đến xung đột lợi ích giữa các nhóm cổ đông. Sự thừa nhận cái ý chí độc lập này của pháp nhân sẽ phủ nhận cái gọi là cổ đông kiểm soát và xung đột lợi ích bên trong CTCP. Vậy nên, Savigny đã nỗ lực trong việc triệt tiêu lợi ích nhóm bằng cách thể hiện sự không đồng tình với phương thức đa số biểu quyết của Luật La Mã. Thế nhưng, việc làm này là không thực tế vì phương án đa số biểu quyết từ lâu đã được các quốc gia công nhận rộng rãi bởi nhiều yếu tố khách quan, đặc biệt là CTCP với số lượng lớn cổ đông. Thậm chí, phương thức này còn được áp dụng trong cơ quan nhà nước.[104]
Lập luận về ý chí độc lập của pháp nhân là luận điểm cốt lõi trong tư cách pháp nhân của Savigny. Vì đối với các quan điểm duy tâm, ý thức là cái có trước, quyết định vật chất.[105] Vậy nên, Savigny mới nỗ lực để khẳng định ý chí pháp nhân và ý chí thành viên tách biệt nhau. Qua đó, các quyền về tài sản của pháp nhân được thực hiện bởi ý chí độc lập của pháp nhân chứ không phải ý chí của thành viên. Tuy nhiên, theo lập trường duy vật, đây là quan điểm sai lầm.[106] Vì thế nên, cần phải mô tả về pháp nhân như đúng bản chất thật của nó. Pháp nhân, với tư cách là một hiện tượng thường thấy trong đời sống thực tiễn của con người, sẽ không có ý chí riêng hay có khả năng tự phát triển.[107] Thế nên, cũng sẽ không có cái gọi là ý chí “toàn thể” – ý chí độc lập của pháp nhân mà chỉ tồn tại ý chí chung của các thành viên - ý chí đa số của các thành viên. Nói cách khác, việc quan sát và mô tả sự tồn tại của pháp nhân phải xuất phát từ chủ thể thực sự của nó là các thành viên. Theo đó, quan điểm này phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa cộng sản về việc mô tả sự tồn tại của các hiện tượng xã hội. Cụ thể là, chủ nghĩa cộng sản đã tạo dựng một “nền tảng đích thực để khiến cho bất cứ điều gì cũng không thể tồn tại độc lập với các cá nhân”.[108] Từ đó, các quyền về tài sản của pháp nhân hoàn toàn bị chi phối bởi ý chí của (đa số) thành viên. Thế nên, quan điểm pháp nhân có quyền sử dụng, định đoạt, chiếm hữu bởi ý chí riêng của nó không phụ thuộc vào ý chí thành viên, hiện đang được tiếp thu tại Việt Nam, là quan điểm duy tâm và sai lầm. Vì việc thực hiện các quyền về tài sản của pháp nhân như quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt, phải chịu sự chi phối bởi ý chí của (đa số) các thành viên chứ không phải bởi ý chí riêng của pháp nhân. Từ đó, lập luận phủ nhận tư cách chủ sở hữu của thành viên cũng là quan điểm sai lầm. Chẳng hạn như, đối với CTCP, Marx gọi các cổ đông là “nhà tư bản-tiền tệ đơn thuần”[109] và tài sản của CTCP là “tài sản của những người sản xuất liên kết với nhau” [110] (tiền đề cho tài sản xã hội). Thế nên, lập luận cho sự độc lập về mặt tài sản của pháp nhân chỉ nên dừng lại ở chỗ là: (i) cơ sở cho sự bảo vệ của Nhà nước đối với các mối quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động của pháp nhân (bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ tài sản), thông qua các quy định ràng buộc như quy định về việc thừa nhận pháp nhân (đăng ký thành lập) và quy định giám sát; (ii) tiền đề của trách nhiệm hữu hạn.
Ngoài ra, như đã trình bày bên trên, thuyết pháp nhân hư cấu của Savigny chỉ thừa nhận quyền của pháp nhân, không thừa nhận mối quan hệ giữa quyền, ý chí của pháp nhân với các thành viên riêng lẻ.[111] Nguyên nhân là do việc hình thành pháp nhân theo luật La Mã và Savigny là một sự mô phỏng của cá nhân con người, theo đó, thành viên không có mối quan hệ liên kết bên trong với pháp nhân. Vậy nên, nó không giải quyết mối quan hệ giữa các thành viên với nhau và giữa thành viên với pháp nhân. Từ đó, phủ nhận mối quan hệ giữa các thành viên là mối quan hệ hợp đồng vì pháp nhân không được bắt đầu dựa trên hành vi của các thành viên mà là dựa trên sự thừa nhận của pháp luật.[112] Nhận định này có nghĩa là, tồn tại sự khác biệt rõ nét trong con đường hình thành nên việc thực hiện quyền (phương thức tồn tại) của pháp nhân. Với nguồn gốc, ý chí và các quyền tài sản của pháp nhân như đã trình bày bên trên, con đường thực hiện quyền do pháp nhân hư cấu tạo ra phải bắt đầu sự sáng tạo của pháp luật bao gồm mục đích pháp lý, quyền và nghĩa vụ pháp lý được thiết lập sẵn trong luật. Các yếu tố này định hình ràng buộc nội dung của ý chí pháp nhân và được khẳng định là khác biệt với “ý chí tổng thể các thành viên của pháp nhân”. Từ đó, quyền của pháp nhân được thực hiện bởi ý chí của pháp nhân, độc lập, tách biệt với ý chí tổng thể của các thành viên. Các thành viên chỉ là người thực hiện quyền thay cho pháp nhân vì nó không thể tự mình thực hiện được. Vậy nên, có thể thấy rằng, con đường thực hiện quyền của pháp nhân hư cấu là đi từ trên xuống – từ pháp luật đến đời sống hiện thực. Ngược lại, con đường thực hiện quyền bằng mối quan hệ hợp đồng giữa các thành viên là con đường đi từ việc tự do thỏa thuận, tự do định đoạt trong khuôn khổ pháp luật của các thành viên đến đạt được ý chí thống nhất để thực hiện quyền. Nói cách khác, quyền của pháp nhân được thực hiện bằng ý chí thống nhất của các thành viên dựa trên cơ sở tự do thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật. Đây là con đường đi từ dưới lên – từ các thành viên đến đời sống hiện thực. Vấn đề này đã được Marx đề cập từ lâu và là vấn đề của triết học duy tâm Đức. Bằng phép ẩn dụ, Marx chỉ ra rằng, sản phẩm của trường phái duy tâm đi theo con đường “từ trên trời xuống đất” và của triết học duy vật là “từ đất lên trời”.[113] Theo đó, con đường đúng đắn cho việc mô tả sự tồn tại của sự vật, hiện tượng “không xuất phát từ những gì con người nói, sáng tạo, được tưởng tượng, được quan niệm, để đạt đến con người bằng xương bằng thịt” mà phải “xuất phát từ những con người thực tế, năng động, và trên cơ sở quá trình sống thực tế của họ”.[114] Vậy nên, nguồn gốc của việc phủ nhận mối quan hệ giữa các thành viên – mối quan hệ hợp đồng là vấn đề của quan điểm duy tâm. Qua đó, khẳng định con đường đường đúng đắn cho việc thực hiện quyền của pháp nhân là phải đi từ các thành viên – đi từ dưới lên.
Thêm vào đó, một trong những quan điểm về tài sản pháp nhân của Savigny là, “các tổ chức phải hoàn toàn tránh mọi thay đổi đáng kể về tài sản của mình”.[115] Quan điểm này không phù hợp để áp dụng cho CTCP vì CTCP là loại tổ chức không thể tránh khỏi việc thay đổi thường xuyên về mặt tài sản cũng như mua bán, sáp nhập tổ chức thậm chí là phá sản, giải thể. Vậy nên, quan điểm của Savigny cho rằng, pháp nhân tồn tại liên tục, bất tận vì có ý chí và tài sản độc lập không phụ thuộc vào sự thay đổi thành viên cũng là quan điểm sai lầm, không phù hợp với thực tiễn của CTCP.
Bên cạnh đó, vì quá đề cao sự độc lập của pháp nhân nên Savigny cho rằng, các cơ quan đại diện mới là nơi nắm giữ quyền lực thực sự. Quan điểm của Savigny về cơ quan của pháp nhân cũng không phù hợp với Việt Nam. Nếu các Hội đồng thành phố với vai trò là cơ quan đại diện là nơi có quyền lực thực sự thì tại Việt Nam, chưa bao giờ thừa nhận rằng, quyền lực nhà nước thuộc về cơ quan đại diện (khoản 2 Điều 2 Hiến pháp 2013). Theo đó, việc hình thành các cơ quan chỉ nhằm mục đích thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước. Vậy nên, khi trình độ sản xuất thay đổi (công nghệ kỹ thuật) thì bộ máy các cơ quan nhà nước cũng có sự thay đổi nhất định như tinh giản bộ máy, bãi bỏ nhiều cơ quan. Tương tự như vậy, các cơ quan của CTCP cũng chỉ là phương tiện nhằm thực hiện các nhiệm vụ nhất định chứ không tồn tại như các cơ quan hữu cơ của một con người thật sự. Thực tiễn CTCP cho thấy rằng, ngoài hai cơ quan cốt lõi phát sinh do sự tách bạch quyền sở hữu và quản lý một cách phổ biến, thì CTCP còn có thể có các loại cơ quan khác linh hoạt tùy theo nhu cầu, lĩnh vực kinh doanh. Vì thế, quan điểm về cơ cấu tổ chức của pháp nhân của Savigny không phù hợp với cả cơ quan nhà nước và CTCP. Đồng thời, khẳng định quan điểm cho rằng, các thành viên là chủ thể duy nhất có toàn quyền. Vì lẽ đó, quan điểm được Việt Nam tiếp thu cho rằng, pháp nhân có khả năng hoạt động độc lập, không lệ thuộc về mặt tổ chức đối với thành viên là quan điểm không chính xác. Bởi lẽ, sự độc lập của các cơ quan chỉ nằm ở mức tương đối và sự tồn tại của các cơ quan bắt buộc là nhằm mục đích nhất định chứ không phải để biện minh cho cái gọi là “sự độc lập tuyệt đối” của pháp nhân. Ví dụ như, sự phân định rạch ròi giữa Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị trong CTCP trước hết là việc thừa nhận sự phổ biến của hai cơ quan này trong thực tiễn khách quan và chủ yếu là nhằm mục đích bảo vệ các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động của công ty chứ không phải nhằm mục đích chứng minh cho việc các cơ quan này độc lập với thành viên.
Tóm lại, có thể thấy rằng, trong lý thuyết pháp nhân hư cấu, sự tồn tại trên thực tế của pháp nhân không được thể hiện (mô tả) như chính nó mà lại được mô tả như một thực thể có sự sống nhờ vào ý chí riêng và tài sản riêng, cơ cấu độc lập tuyệt đối như một con người hoàn chỉnh.[116]
Không khó để nhận ra rằng, pháp nhân của Savigny có tính logic hệ thống rõ ràng.[117] Bắt nguồn từ lập luận về việc chỉ thừa nhận con người (công dân) là chủ thể có tư cách pháp lý duy nhất và cho rằng, pháp luật có ý chí riêng, dẫn đến cách tiếp cận và tư duy rằng, pháp nhân là do pháp luật sáng tạo ra. Trong đó, pháp nhân là sản phẩm của sự nỗ lực mô phỏng con người, làm cơ sở cho việc có được quyền và nghĩa vụ pháp lý như một con người. Từ đó, bản thân pháp nhân, quyền và nghĩa vụ pháp lý của pháp nhân đều là do sáng tạo mà có. Pháp nhân – thực thể lý tưởng, với tư cách là một con người nhân tạo, sẽ phải có ý chí và tài sản độc lập tuyệt đối để thực hiện các quyền của mình, mà theo đó, đồng nghĩa với việc tư cách của pháp nhân không thể phân chia, không thể chuyển nhượng và phải tránh thay đổi về tài sản. Hệ quả của hệ thống lý luận này là: (i) phủ nhận ý chí và quyền sở hữu (gián tiếp) của thành viên; (ii) bằng việc phản đối phương thức biểu quyết đa số, phủ nhận ý chí, lợi ích nhóm; (iii) phủ nhận mối quan hệ nội tại giữa thành viên và pháp nhân dẫn đến phủ nhận mối quan hệ hợp đồng giữa các thành viên trong pháp nhân công ty; (iv) đề cao sự độc lập của pháp nhân đến mức cho rằng toàn quyền thực tế nằm ở các cơ quan đại diện không phụ thuộc vào thành viên; (v) không có khả năng giải quyết các vấn đề liên quan đến nguồn gốc hình thành pháp nhân; (vi) tồn tại liên tục, bất tận – biểu hiện của việc không có quy luật phát triển.
Nói cách khác, đối với CTCP, nếu thừa nhận sự độc lập tuyệt đối của pháp nhân bao gồm cả về ý chí và quyền tài sản thì trước hết, không thể thừa nhận quan điểm chuyển giao quyền và nghĩa vụ từ cá nhân sang pháp nhân. Tiếp đó, sẽ không thể thừa nhận ý chí, lợi ích nhóm, đặc thù bởi cổ đông kiểm soát và các vấn đề liên quan đến bảo vệ cổ đông, kéo theo cả các mối quan hệ nội tại bên trong pháp nhân - mối quan hệ hợp đồng. Điều này có nghĩa là, tồn tại điểm mâu thuẫn trong chính hệ thống lý luận về pháp nhân CTCP được Việt Nam tiếp thu. Từ đó, nó gây cản trở trong việc nghiên cứu pháp luật về các vấn đề trên và khiến cho nhiều luận điểm mâu thuẫn lẫn nhau mà đến nay vẫn chưa thể giải quyết được. Ví dụ như, tranh cãi về tư cách chủ sở hữu của nhà đầu tư và cơ sở lý luận của quy định về việc cho phép cổ đông rút vốn bằng cách yêu cầu công ty mua lại cổ phần hay thực tiễn CTCP hủy bỏ tư cách cổ đông của cổ đông xâm phạm quyền lợi công ty.
Hệ thống lý luận về tư cách pháp nhân của Savigny – lý thuyết pháp nhân hư cấu, đặc biệt là các lý luận về sự độc lập tuyệt đối của pháp nhân về ý chí, quyền về tài sản và cơ cấu tổ chức hoàn toàn không phù hợp với nền tảng triết học chủ đạo về nhà nước và pháp luật của Việt Nam. Tuy nhiên, một nguyên tắc được chấp nhận rộng rãi về pháp nhân là pháp nhân cần phải có một sự độc lập nhất định để phân biệt giữa tư cách chủ thể của tổ chức và tư cách chủ thể của các thành viên, tiền đề trách nhiệm hữu hạn của pháp nhân.[118] Thế nên, không thể phủ nhận rằng, các lý luận của thuyết pháp nhân hư cấu có giá trị trong việc đặt nền tảng cho sự độc lập của pháp nhân là CTCP cho đến tận ngày nay.
Thông qua việc phê phán, điều chỉnh quan điểm lý luận của thuyết pháp nhân hư cấu bằng quan điểm của chủ nghĩa Marx – Engels, có thể đúc kết được rằng, pháp nhân là sản phẩm của (sự giao tiếp trước đó của cá nhân) con người, là phạm trù pháp luật thuộc kiến trúc thượng tầng, có nguồn gốc hình thành từ nhu cầu thực tiễn của con người do tác động của điều kiện vật chất khách quan (cơ sở hạ tầng). Pháp nhân không thể có ý chí độc lập mà thay vào đó, ý chí (đa số) của các thành viên chi phối và thực hiện các quyền về tài sản của pháp nhân. Tuy nhiên, pháp nhân vẫn có tính độc lập tương đối trong quan hệ với thành viên. Từ đó, pháp nhân của chủ nghĩa duy vật lịch sử có khả năng phơi bày lợi ích nhóm bên trong đó và đáp ứng được sự thay đổi linh hoạt của điều kiện vật chất khách quan cũng như nhu cầu của con người qua thời gian.
Trên cơ sở đó, riêng đối với CTCP, Việt Nam có khả năng tiếp thu và vận dụng một số nội dung chính của lý luận về pháp nhân thực được trình bày bởi tác giả Otto von Gierke trong tác phẩm “Das deutsche Genossenschaftsrecht, Zweiter Band: Geschichte des deutschen Körperschaftsbegriffs” vào năm 1873, cụ thể như sau:
Thứ nhất là về nguồn gốc pháp nhân, giống như pháp nhân hư cấu, pháp nhân thực của Gierke cũng quan niệm rằng, chỉ có cá nhân con người mới có năng lực pháp lý nhưng thay vì sáng tạo ra một con người pháp lý mô phỏng con người thật như Sagviny do nhân cách La Mã là tuyệt đối không thể phân chia thì Gierke lại cho rằng, pháp nhân Đức hay còn gọi là nhân cách Đức (germanischen persönlichkeit) “đủ phong phú để từ bỏ một phần của chính mình nhằm ủng hộ cho một sự thống nhất ý chí mới mà không tự hủy diệt”[119]. Nói cách khác, nhân cách Đức có khả năng phân chia do quan điểm “thống nhất trong đa dạng” xuyên suốt hệ thống pháp luật Đức chứ không phải là quan điểm khác biệt, đối lập như luật công và luật tư của La Mã.[120] Từ đó, đúc kết được khái niệm về pháp nhân như sau:
[Pháp nhân] không phải là sự sáng tạo của con người mà nó giống như các cá nhân, sự tồn tại [của pháp nhân] xuất phát từ cá nhân con người và thông qua con người, mà theo đó, được pháp luật công nhận (“erkannt” - sự tồn tại về mặt nhận thức) và thừa nhận (“anerkannt” - sự tồn tại về mặt pháp lý).[121]
Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với chủ nghĩa duy vật biện chứng Marx – Engels vì nó mô tả đúng bản chất của pháp nhân. Theo đó, pháp nhân xuất phát từ con người và chỉ tồn tại thông qua con người, không tách khỏi con người. Đồng thời, việc khẳng định pháp nhân “không phải sự sáng tạo của con người” là sự phản bác của Gierke đối với luận điểm của Savigny về pháp nhân. Vậy nên, khái niệm này lý giải được nguồn gốc về quyền và nghĩa vụ pháp lý của pháp nhân. Theo đó, quyền và nghĩa vụ pháp lý của pháp nhân xuất phát từ quyền và nghĩa vụ pháp lý của con người. Ví dụ như, các cơ quan nhà nước được Nhân dân trao quyền, điều này được gọi là “ủy thác quyền lực”.[122] Tương tự như vậy, đối với CTCP, là sự chuyển giao quyền tự do kinh doanh từ các thành viên cho pháp nhân. Từ đó, có thể thấy rằng, khái niệm cùng quan điểm về nguồn gốc pháp nhân Đức phù hợp hơn với Việt Nam. Không những vậy, do kết cấu mở của khái niệm, khiến cho nó có thể áp dụng linh hoạt cho nhiều loại pháp nhân khác nhau tương ứng với nhu cầu, điều kiện hình thành khác nhau. Hệ quả là, pháp nhân Đức không có khả năng bất tử, mà sẽ hình thành và tiêu vong theo điều kiện hình thành nó. Thế nên, theo quan điểm của bài viết, khái niệm này còn có thể áp dụng với tổ chức là Nhà nước. Ngoài ra, sự linh hoạt của pháp nhân Đức còn nằm ở chỗ, do nhu cầu thực tiễn khác nhau dẫn đến loại quyền và nghĩa vụ của cá nhân chuyển giao cho tổ chức cũng không giống nhau góp phần hình thành nên các loại pháp nhân có mục đích khác nhau.
Thứ hai là các đặc điểm về pháp nhân. Theo Gierke thì pháp nhân Đức hay còn gọi là “nhân cách Đức” có những đặc điểm như:[123]
Một là, nhân cách Đức không mang tính tuyệt đối mà được tạo thành từ sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ của thành viên một cách có điều kiện và bị giới hạn. Theo đó, nhân cách Đức có sự thừa nhận đối với ý chí, quyền sở hữu của thành viên nhưng bị giới hạn bởi ý chí chung, quyền của liên minh và ngược lại, quyền của liên minh bị giới hạn bởi quyền của thành viên.[124] Tại đây, theo quan điểm của Gierke thì tính độc lập (tương đối) của pháp nhân Đức có được là do tiếp thu “sự trừu tượng hóa” (abstraktion) từ pháp nhân La Mã[125] và điều chỉnh từ mức độ trừu tượng hóa tuyệt đối – điều khiến cho tính toàn thể tách rời, đối lập với tập hợp các thành viên, giảm xuống mức trừu tượng hóa chỉ vừa đủ để khiến cho pháp nhân trở thành một thể thống nhất bao gồm ý chí, quyền của các thành viên[126]. Tuy nhiên, theo quan điểm của bài viết, cái mà Gierke cho là tiếp thu từ pháp nhân hư cấu không phải là biểu hiện của “chủ nghĩa thần bí”. Bởi lẽ, ý chí, quyền của pháp nhân không tách biệt khỏi thành viên mà được hình thành từ các thành viên. Thế nên, các lập luận liên quan đến việc trừu tượng hóa theo quan điểm của Gierke chỉ là để củng cố cho đặc tính độc lập tương đối của pháp nhân và nó không mang bản chất của quan điểm duy tâm.
Hai là, nhân cách Đức có khả năng phân chia. Thông qua việc chuyển giao một phần các quyền và nghĩa vụ trong nhân cách của chính mình (có thể là cá nhân, pháp nhân) đã tạo nên khả năng hình thành một tổng thể “nhân cách” cao hơn (pháp nhân) được xem là các hiệp hội độc lập.
Ba là, nhân cách Đức có khả năng chuyển nhượng. Đây là đặc điểm thể hiện rõ sự đối lập với khái niệm nhân cách La Mã. Ví dụ như, CTCP có tư cách pháp nhân (nhân cách công ty) được thể hiện dưới hình thức là cổ phần - một loại hàng hóa tách rời khỏi mọi mối quan hệ cá nhân. Các thành viên trong CTCP được xem là các “đồng sở hữu/đồng gánh vác nhân cách công ty” (“die Mitträgerschaft einer Körperschaftspersönlichkeit”). Vì thế nên, một người có thể có một số “phần nhân cách” (“Theilpersönlichkeiten”) có khả năng giao dịch.
Bên cạnh đó, Gierke còn đưa ra lập luận giải quyết xung đột về lợi ích trong mối quan hệ giữa tập thể với các thành viên.[127] Ngoài ra, dựa trên cấu trúc mở của khái niệm, thì lý luận về pháp nhân của Gierke còn có những ưu điểm đối với CTCP như:
Thứ nhất là, nó mang lại khả năng thừa nhận mối quan hệ hợp đồng giữa các thành viên trong pháp nhân. Bởi nó cho phép thừa nhận sự tồn tại của pháp nhân là CTCP xuất phát từ nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất của các tư bản cá thể. Theo đó, kết hợp với lý luận của Oliver Hart về nguồn gốc hình thành của CTCP, có thể khẳng định rằng, tồn tại một thỏa thuận/hợp đồng giữa các đồng sở hữu (cổ đông) và loại hợp đồng này là hợp đồng không đầy đủ.[128] Bên cạnh đó, thỏa thuận này, về bản chất, chính là thỏa thuận chuyển giao quyền và nghĩa vụ từ thành viên sang pháp nhân và là khởi nguồn cho sự hình thành quyền và nghĩa vụ pháp lý của CTCP. Vì sự thừa nhận về nguồn gốc này, nó mang lại khả năng “đơn phương chấm dứt hợp đồng”: (i) cho cổ đông khi không được đảm bảo về quyền lợi hoặc (ii) cho công ty khi quyền lợi của công ty bị xâm phạm, trong “thỏa thuận liên minh”. Đây chính tiền đề lý luận của việc cho phép cổ đông rút vốn bằng cách yêu cầu công ty mua lại cổ phần nhằm mục đích bảo vệ cổ đông. Tuy nhiên, lý luận của Oliver Hart không mang lại cho thành viên trong “thỏa thuận liên minh” quyền tự do kinh doanh như một cá nhân thông thường mà nó được nhấn mạnh “bị giới hạn bởi pháp luật” và các hợp đồng trước đó.[129] Cụ thể, trong CTCP, nó bị ràng buộc bởi các quy định pháp luật nhằm bảo vệ các bên liên quan bao gồm cả các đồng sở hữu khác (công ty) và bên thứ ba.[130]
Thứ hai là, lý luận này giải thích được vấn đề tư cách chủ sở hữu của nhà đầu tư trong CTCP mà vẫn bảo đảm cho pháp nhân là một chủ thể pháp lý độc lập có khả năng phân biệt với tư cách chủ thể của các thành viên. Đó là khái niệm “đồng sở hữu/gánh vác tư cách pháp nhân” và “chuyển nhượng phần tư cách pháp nhân”. Mặc dù khái niệm này còn khá mới mẻ, tuy nhiên, nó vẫn có giá trị tham khảo nhất định. Theo Gierke, mô hình xây dựng khái niệm về quyền và khái niệm về tư cách pháp nhân ở Luật Đức là một.[131] Vậy nên, tư cách pháp nhân mà ông đề cập ở đây đồng nghĩa với các quyền pháp lý của pháp nhân. Thế nên, tư cách pháp nhân (hay các quyền của pháp nhân) của CTCP bị chi phối và phải thực hiện thông qua nhà đầu tư nên các nhà đầu tư của CTCP được xem là các “đồng sở hữu/gánh vác tư cách pháp nhân”. Theo đó, chuyển nhượng cổ phần đồng nghĩa với chuyển nhượng việc “sở hữu/gánh vác tư cách pháp nhân”. Vậy nên, cổ phần không chỉ đơn thuần là một loại tài sản thông thường mà cũng có thể được xem là tư cách pháp nhân công ty được chia phần. Điều này đồng nghĩa với việc, khi chuyển nhượng cổ phần, nhà đầu tư không chỉ chuyển nhượng tài sản thông thường mà là chuyển nhượng một phần tư cách pháp nhân của công ty. Từ đó, nhà đầu tư của CTCP không cần thiết phải sở hữu tài sản của CTCP mới được xem là chủ sở hữu công ty mà chỉ cần với tư cách là chủ thể nắm giữ, chi phối quyền tài sản của pháp nhân, nhà đầu tư hoàn toàn có thể được xem là chủ sở hữu thực sự của pháp nhân. Đồng thời, CTCP vẫn giữ được tư cách chủ sở hữu tài sản một cách độc lập, tiền đề của trách nhiệm hữu hạn. Lý luận này vừa đảm bảo được sự tách biệt về tư cách chủ thể giữa nhà đầu tư và pháp nhân vừa đảm bảo được tính thực tiễn. Bên cạnh đó, lập luận này còn phù hợp với định nghĩa về cổ đông của CTCP và quy định mới về “chủ sở hữu hưởng lợi của doanh nghiệp” được trình bày tại khoản 3, 35 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020 (sửa đổi, bổ sung 2025).
Danh mục tài liệu tham khảo
1.
Hiến pháp 2013, ngày 28 tháng 11 năm 2013
2.
Bộ Luật Dân sự số 91/2015/QH13, ngày 24 tháng 11 năm 2015
3.
Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14, ngày 17 tháng 06 năm
2020
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Doanh nghiệp số 76/2025/QH15, ngày 17 tháng 06 năm 2025
4.
Andrew Vincent, Marx and Law,
Journal of Law and Society, 20, 371-391, (1993)
5.
ARISTOTLE, CATEGORIES AND DE INTERPRETATIONE – BẢN DỊCH VỚI GHI
CHÚ CỦA J. L. ACKRILL, OXFORD UNIVERSITY PRESS, (2002)
6.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO, GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN, NXB
CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT, 147 (2021)
7.
Ngô Huy Cương, Chế định pháp
nhân nhìn từ cấu trúc bên trong của nó, Tạp chí điện tử Nghiên cứu lập pháp
(14-06-2024), http://lapphap.vn/Pages/TinTuc/211903/Che-dinh-phap-nhan-nhin-tu-cau-truc-ben-trong-cua-no.html?fbclid=IwY2xjawK_QtxleHRuA2FlbQIxMABicmlkETE4MEgxanB0MFBlSmZuZVloAR4AmXdSPLdnZ3iAA6W_pc432AF3SOqICl_1QDr0_MfYpGh4FN33KOvcQujWVA_aem_lQxqI6Rl_gbSpm5eEcDjxw
8.
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI - TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT, GIÁO TRÌNH LUẬT DÂN
SỰ 1 – PHẦN CHUNG, NXB ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI, 142 (2024)
9.
FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, SYSTEM
DES HEUTIGEN RÖMISCHEN RECHTS, ZWEITER BAND, VEIT UND COMP, BERLIN, (1840)
10. FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, SYSTEM DES HEUTIGEN RÖMISCHEN RECHTS, ERSTER BAND, VEIT UND COMP,
BERLIN, (1840)
11. FREDERICK C. BEISER, THE GERMAN HISTORICIST
TRADITION, OXFORD UNIVERSITY PRESS, (2011)
12.Frederick Engels, Origin of the Family, Private Property, and the State – dịch bởi Alick
West, (1962), https://www.marxists.org/archive/marx/works/1884/origin-family/
13. Karl Marx, Marx’s
Critique of Hegel's Philosophy of Right dịch bởi by Annette Jolin Joseph
O’Malley, Cambridge University
Press,(1970), https://www.marxists.org/archive/marx/works/download/Marx_Critique_of_Hegels_Philosophy_of_Right.pdf
14. Karl Marx, Capital
Volume Three - The Process of Capitalist Production as a Whole, (1894), Part V. Chapter 27,
https://www.marxists.org/archive/marx/works/1894-c3/ch27.htm
15. Karl Marx và Frederick Engels, The German Ideology, (1932) https://www.marxists.org/archive/marx/works/download/Marx_The_German_Ideology.pdf
16. OTTO VON GIERKE, DAS
DEUTSCHE GENOSSENSCHAFTSRECHT, ZWEITER BAND: GESCHICHTE DES DEUTSCHEN
KÖRPERSCHAFTSBEGRIFFS, WEIDMANNSCHE BUCHHANDLUNG, BERLIN, (1873)
17.OLIVER HART, FIRMS, CONTRACTS AND FINANCIAL
STRUCTURE, OXFORD UNIVERSITY PRESS INC., (1995)
18. Robert Schütze, German Idealism after Kant: Nineteenth-Century Foundations of
International Law, Journal of the history of International Law, 25, 105,
(2023)
19. Susan Watson, The corporate legal person, Journal of Corporate Law Studies, 8,
(2018) https://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/14735970.2018.1435951
20. TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.
HCM, GIÁO TRÌNH LUẬT HIẾN PHÁP, NXB HỒNG ĐỨC, (2022)
21.TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ
CHÍ MINH, GIÁO TRÌNH NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, NXB CÔNG AN NHÂN DÂN,
(2024)
22. Visa A.J. Kurki, Legal Personhood, Cambridge University Press, Helsinki Legal
Studies Research Paper No. 82, (2023) https://ssrn.com/abstract=4669283
* Nghiên cứu sinh, Khoa Luật, Trường Kinh tế, Luật và Quản lý nhà nước, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh Email: vandieutho@gmail.com, ngày duyệt đăng 28/10/2025
** Trưởng bộ môn Luật Kinh tế, Trường Kinh tế, Luật và Quản lý nhà nước, Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh
[1] Nguyên văn “a stylistic peculiarity of Hegel, one which recurs often and is a product of mysticism” trong tác phẩm của Karl Marx, Marx’s Critique of Hegel's Philosophy of Right dịch bởi by Annette Jolin và Joseph O’Malley, Cambridge University Press, (1970), https://www.marxists.org/archive/marx/works/download/Marx_Critique_of_Hegels_Philosophy_of_Right.pdf
[2] Visa A.J. Kurki, Legal Personhood, Cambridge University Press, Helsinki Legal Studies Research Paper No. 82, 1, (2023) https://ssrn.com/abstract=4669283
[3] Visa A.J. Kurki, tlđd, 2, 2 và 33
[4] ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI - TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT, GIÁO TRÌNH LUẬT DÂN SỰ 1 – PHẦN CHUNG, NXB ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI, 143 (2024)
[5] ĐHQGHN – TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT, tlđd, 4, 142
Visa A.J. Kurki, tlđd, 2, 2 và 33
[6] ĐHQGHN – TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT, tlđd, 4, 142
[7] TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH, GIÁO TRÌNH NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, NXB CÔNG AN NHÂN DÂN, 147, 159 (2024)
[8] Ngô Huy Cương, Chế định pháp nhân nhìn từ cấu trúc bên trong của nó, Tạp chí điện tử Nghiên cứu pháp luật (14-06-2024), http://lapphap.vn/Pages/TinTuc/211903/Che-dinh-phap-nhan-nhin-tu-cau-truc-ben-trong-cua-no.html?fbclid=IwY2xjawK_QtxleHRuA2FlbQIxMABicmlkETE4MEgxanB0MFBlSmZuZVloAR4AmXdSPLdnZ3iAA6W_pc432AF3SOqICl_1QDr0_MfYpGh4FN33KOvcQujWVA_aem_lQxqI6Rl_gbSpm5eEcDjxw
[9] BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO, GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN, NXB CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT, 147 (2021)
[10] Andrew Vincent, Marx and Law, Journal of Law and Society, 20, 371-391, 394 (1993)
[11] Andrew Vincent, tlđd, 10, 381
[12] Andrew Vincent, tlđd, 10, 380
[13] Andrew Vincent, tlđd, 10, 380
[14] Andrew Vincent, tlđd, 10, 387
[15] Andrew Vincent, tlđd, 10, 374
[16] Karl Marx và Frederick Engels, The German Ideology, (1932) https://www.marxists.org/archive/marx/works/download/Marx_The_German_Ideology.pdf
[17] ĐHQGHN – TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT, tlđd, 4, 142-143
[18] ĐHQGHN – TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT, tlđd, 4, 140- 162
[19] TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH, tlđd, 7, 144-179
[20] TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH, tlđd, 7, 146
ĐHQGHN – TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT, tlđd, 4, 152
[21] Lý luận này là lý luận của pháp nhân thực. TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH, tlđd, 7,162
[22] Lý luận này là lý luận của pháp nhân thực. TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH, tlđd, 7, 158
[23] TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH, tlđd, 7, 163, 165, 170, 179
[24] ĐHQGHN – TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT, tlđd, 4, 142
[25] OTTO VON GIERKE, DAS DEUTSCHE GENOSSENSCHAFTSRECHT, ZWEITER BAND: GESCHICHTE DES DEUTSCHEN KÖRPERSCHAFTSBEGRIFFS, WEIDMANNSCHE BUCHHANDLUNG, BERLIN, 29 (1873)
[26] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 29
[27] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, SYSTEM DES HEUTIGEN RÖMISCHEN RECHTS, ZWEITER BAND, VEIT UND COMP, BERLIN, 283 (1840)
[28] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 29
[29] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 26
[30] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 36-37
[31] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 36-37
[32] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 40-41
[33] Không chỉ có tại Việt Nam, sự nhầm lẫn này còn được tìm thấy trong tài liệu của các chuyên gia kinh tế hàng đầu tại Hoa Kỳ. Xem thêm Jensen và Meckling, Theory of the firm: Managerial Behavior, Agency Costs and Ownership Structure, Journal of Financial Economics, 3, 305, 313 (1976). Nguyên văn: “It is important to recognize that most organizations are simply legal fictions which serve as a nexus for a set of contracting relationships among individuals”. Vấn đề này sẽ được lý giải cụ thể tại phần so sánh tương quan ở mục V của bài viết.
[34] ĐHQGHN – TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT, tlđd, 4, 142-143
[35] ĐHQGHN – TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT, tlđd, 4, 140-162 (2024)
[36] ĐHQGHN – TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT, tlđd, 4, 149-150
[37] Visa A.J. Kurki, Xem thêm, 2 và bài viết của tác giả Susan Watson, The corporate legal person, Journal of Corporate Law Studies, (2018), https://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/14735970.2018.1435951
[38] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27
[39] FREDERICK C. BEISER, THE GERMAN HISTORICIST TRADITION, OXFORD UNIVERSITY PRESS, 215 (2011)
[40] Theo Beiser, chữ “Geist” được giải thích tốt nhất qua tác phẩm của Montesquieu “Esprit des lois” và nó đồng nghĩa với “spirit of the laws” – tinh thần pháp luật. Vậy nên, Volkgeist thường được dịch là tinh thần dân tộc. FREDERICK C. BEISER, tlđd, 39, 250
[41] Trong bản dịch của Annette Jolin và Joseph O’Malley, “Geist” được dịch là “mind” và “Idea”. Karl Marx, xem, 1
[42] FREDERICK C. BEISER, tlđd, 39, 218
[43] FREDERICK C. BEISER, tlđd, 39, 249
[44] FREDERICK C. BEISER, tlđd, 39, 249
[45] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, SYSTEM DES HEUTIGEN RÖMISCHEN RECHTS, ERSTER BAND, VEIT UND COMP, BERLIN, 14 (1840)
[46] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 45, 17
[47] Robert Schütze, German Idealism after Kant: Nineteenth-Century Foundations of International Law, Journal of the history of International Law, 25, 105, 114 (2023) Thêm vào đó, theo mô tả về giả định cốt lõi của lý thuyết Volksgeist, hoàn toàn không có sự xuất hiện của vật chất hay các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng mà chỉ tập trung vào nền văn hóa bao gồm luật lệ, phong tục, tôn giáo, ngôn ngữ. FREDERICK C. BEISER, Xem, 39, 250
[48] BGDĐT, tlđd, 9, 17
[49] “Sự thần bí” (mystification) của chủ nghĩa duy tâm đã được Karl Marx mô tả chi tiết rõ ràng. Xem thêm “Công thức” về việc đối tượng hóa thuộc tính ý thức của con người thành “thực thể huyền bí” một cách độc lập (the mystical substance) của ông tại Karl Marx, tlđd, 1. Nguyên văn: Từ cụm “The existence of the predicate is the subject” cho đến “the mystical idea becomes this bearer”.
[50] Karl Marx, tlđd, 1
[51] Nguyên văn trong bản dịch là “predicate” và “subject”. Trong đó, “predicate” không mang nghĩa là “vị ngữ” như định nghĩa thông thường mà mang hàm ý là “thuộc tính” nhiều hơn theo định nghĩa của ARISTOTLE trong tác phẩm “CATEGORIES AND DE INTERPRETATIONE – BẢN DỊCH VỚI GHI CHÚ CỦA J. L. ACKRILL”, OXFORD UNIVERSITY PRESS, 4 (2002). Aristotle dùng ví dụ về “con người”, trong đó, phần “con” và phần “người” đều là thuộc tính của “con người”.
[52] Tồn tại phiên bản dịch là “khách thể” và “khách thể hóa”. Tuy nhiên, trong triết học, “object” mang ý nghĩa là cái được phân tích, quan sát. Vậy nên, “đối tượng” là cách dịch phù hợp hơn.
[53] Đặc tính độc lập vốn dĩ chỉ có ở con người và trong trường hợp này là đặc tính của các thành viên cộng đồng. Xem thêm Karl Marx, tlđd, 1
[54] Karl Marx, tlđd, 1
[55] Karl Marx, tlđd, 1
[56] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 26
[57] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 25
[58] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 29
[59] Tư cách pháp nhân của tổ chức được gọi là “con người pháp lý” (“juristische person”) và được mô tả là “một giả định hư cấu” (“fiction angenommene subjecte”). Xem thêm FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 263
[60] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 29
[61] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 29
[62] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 29
[63] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 282
[64] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 236
[65] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 314
[66] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 293
[67] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 242-244
[68] Susan Watson, tlđd, 37, 8
[69] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 246
[70] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 246-247
[71] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 237
[72] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 238
[73] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 283
[74] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 283
[75] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 283
[76] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 328
[77] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 331
[78] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 335
[79] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 242-244
[80] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 335
[81] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 333-334
[82] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 333-334
[83] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 333-334
[84] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 246
[85] BGDĐT, tlđd, 9, 135
[86] Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan phải thống nhất với nhau mới tạo thành cơ sở phương pháp luận của hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, mà theo đó, trong khoa học pháp lý, có thể được xem là phương pháp luận của hoạt động hoàn thiện pháp luật. BGDĐT, Xem thêm, 9, 85
[87] Karl Marx, Capital Volume Three - The Process of Capitalist Production as a Whole, (1894), Part V. Chapter 27., https://www.marxists.org/archive/marx/works/1894-c3/ch27.htm
[88] Theo nhận định của Chánh án Coke trong vụ án Thomas Sutton thì công ty là: “vô hình, bất tử và chỉ tồn tại trong ý định và sự suy xét của pháp luật”. Susan Watson, tlđd, 37, 9-10.
[89] Frederick Engels, Origin of the Family, Private Property, and the State – dịch bởi Alick West, (1962), https://www.marxists.org/archive/marx/works/1884/origin-family/
[90] Karl Marx, tlđd, 87
[91] Karl Marx, tlđd, 87
[92] “Thực tại chỉ là sản phẩm của sự giao tiếp trước đó (“the preceding intercourse”) của các cá nhân”, được trích từ Karl Marx và Frederick Engels, tlđd, 16
[93] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 283
[94] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 243-244
[95] Gierke gọi cái này là “cộng đồng” (römischen Kommunionen). OTTO VON GIERKE, Xem thêm, 25, 41
[96] BGDĐT, tlđd, 9, 70
[97] Quá trình này diễn ra tương đồng với Nhà nước của đại biểu Hegel. Theo đó, “ý chí phổ quát” tách biệt với ý chí của thành viên và được chứa đựng trong cái gọi là “Nhà nước”. Xem thêm Karl Marx, tlđd, 1
[98] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 283
[99] Karl Marx, tlđd, 1
[100] Karl Marx, tlđd, 1
[101] Robert Schütze, tlđd, 47, 114
[102] Marx giải thích rằng, “mục đích của nhà nước và quyền lực của nhà nước bị che giấu ở chỗ chúng xuất hiện dưới dạng các phương thức tồn tại của bản chất”, mà bản chất nhà nước của Hegel lại xuất phát từ mục đích phổ quát. Trong đó, “phổ quát” chính là một “thực thể huyền bí”. Xem thêm Karl Marx, tlđd, 1
[103] Nhà nước là pháp nhân được xem là xu hướng phổ biến của Luật Quốc tế. Vậy nên, vấn đề này cần được nghiên cứu một cách thận trọng. Xem thêm ĐHQGHN – TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT, tlđd, 4, 158
[104] TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HCM, GIÁO TRÌNH LUẬT HIẾN PHÁP, NXB HỒNG ĐỨC, 374 (2022)
[105] BGDĐT, tlđd, 9, 49
[106] BGDĐT, Xem thêm, 9, 69
[107] Karl Marx, tlđd, 1
[108] Karl Marx và Frederick Engels, tlđd, 16
[109] Karl Marx, tlđd, 87
[110] Karl Marx, tlđd, 87
[111] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 243-244
[111] Susan Watson, tlđd, 37, 11
[113] Nguyên văn từ cụm “In direct contrast to German philosophy” đến cụm “empirically verifiable and bound to material premises.” Karl Marx và Frederick Engels, Xem thêm, 16.
[114] Karl Marx và Frederick Engels, tlđd, 16.
[115] FRIEDRICH CARL VON SAVIGNY, tlđd, 27, 352
[116] Karl Marx, tlđd, 1
[117] Như cái tên của tác phẩm: “Hệ thống luật La Mã hiện đại”.
[118] ĐHQGHN – TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT, tlđd, 4, 149-150
[119] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 40
[120] Theo quan điểm của bài viết, quan điểm “thống nhất trong đa dạng” này khá tương đồng với nguyên tắc tập trung dân chủ của Việt Nam. OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 36
[121] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 40
[122] TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HCM, tlđd, 104, 214
[123] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 36-37
[124] Quyền sở hữu tài sản của thành viên được gọi là “quyền đặc biệt”. Quyền của liên minh được gọi là quyền tài sản chung của tập thể. OTTO VON GIERKE, Xem thêm, 25, 34-36, 142, 151
[125] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 26
[126] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 26, 31
[127] Theo Gierke, xu hướng phủ nhận quyền sở hữu của thành viên là “quan điểm tiêu cực”. OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 145, 151
[128] OLIVER HART, FIRMS, CONTRACTS AND FINANCIAL STRUCTURE, OXFORD UNIVERSITY PRESS INC., 53 (1995)
[129] Oliver Hart, tlđd, 128, 30
[130] Lập luận này có vẻ giống với lý thuyết hợp đồng (Aggregate Theory) về pháp nhân. Tuy nhiên, do nhận thức rõ hạn chế của lý thuyết này về pháp nhân, bài viết chủ trương tiếp thu nền tảng của pháp nhân thực và thực hiện điều chỉnh cho phù hợp với CTCP bằng lý thuyết hợp đồng.
[131] OTTO VON GIERKE, tlđd, 25, 34
(PLPT) - Bài viết nghiên cứu hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng kỳ hạn trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa tại Việt Nam.
(PLPT) - Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài sản đóng vai trò quan trọng trong việc xác định chủ thể có quyền tham gia giao kết hợp đồng bảo hiểm cũng như quyền lợi của họ khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Việc tuân thủ nguyên tắc này là điều kiện tiên quyết để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản theo quy định pháp luật Việt Nam.
(PLPT) - Bài viết trình bày về tầm quan trọng của việc phát triển không gian ngầm và công trình ngầm để giải quyết vấn đề thiếu đất ở các đô thị lớn, đặc biệt trong bối cảnh tốc độ đô thị hóa nhanh chóng được xem là xu thế tất yếu để sử dụng tài nguyên đất một cách tối ưu.
(PLPT) - Bài viết nghiên cứu những tác động của trí tuệ nhân tạo (AI) đến luật bản quyền và sự cần thiết phải điều chỉnh khung pháp lý để cân bằng lợi ích giữa các bên
(PLPT) - Bài viết nghiên cứu và so sánh cơ chế miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường giữa Chỉ thị 2004/35/EC (ELD) của EU và Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam năm 2020 nhằm chỉ ra những hạn chế trong luật pháp Việt Nam và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường.
(PLPT) - Gian lận trong kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản là một vấn đề dai dẳng và phức tạp tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
(PLPT) - Ở Việt Nam, lẽ công bằng đã trở thành một nguồn của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, việc áp dụng lẽ công bằng vẫn chưa hiệu quả do các quy định về áp dụng lẽ công bằng còn hẹp cả về chức năng, lĩnh vực và chủ thể áp dụng.
(PLPT) - Bài viết phân tích quá trình thể chế hóa chủ trương của Nghị quyết 18-NQ/TW vào Luật Đất đai 2024, ghi nhận những đổi mới đột phá như áp dụng giá đất theo thị trường, bảo vệ người dân khi thu hồi đất và hiện đại hóa quản lý.