Một số kiến nghị hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung
Châu Phụng Chi
Thứ hai, 29/07/2024 - 18:43
(PLPT) - Bài viết này phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn đối với yêu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm thực hiện mục tiêu này.
Tóm tắt:Nhằm thể chế hóa chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động,
sáng tạo vì lợi ích chung theo Kết luận số 14-KL/TW của Bộ Chính trị[1], Chính phủ đã
ban hành Nghị định 73/2023/NĐ-CP Quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ
năng động, sáng tạo dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Nghị định này tạo cơ sở
pháp lý, chính trị vững chắc để giải tỏa, khắc phục tâm lý sợ làm sai,
sợ bị xử lý trách nhiệm của cán bộ, đặc
biệt trong bối cảnh công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đang
được đẩy mạnh. Bài viết này phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn đối với
yêu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm thực hiện
mục tiêu này.
Từ
khóa: Hành lang pháp lý; cán bộ năng động sáng tạo; bảo vệ cán bộ.
Abstracts: One of the important breakthroughs
that the 13th National Congress of the Communist Party of Vietnam clearly
indicated: "Having appropriate incentive policies and mechanisms to
protect cadres and party members with high fighting will, exemplary
implementation of the principles of the Party and the State's laws, who
dare to think, dare to speak out, dare to do, dare to take responsibility, dare
to innovate, dare to face difficulties and challenges and act decisively for
the public interest". The Decree creates necessary and strong legal
framework to protect cadres, as well as prevent the abuse of innovation and
creativity. This article analyzes the provisions of the law and limits the
enforcement of responsibilities and powers of civil servants in the Vietnamese
legal system, hence proposes to complete the legal corridor to realize this
goal.
Key words: legal corridor; cadres ‘‘6
dared’’; official protection; Anti-corruption.
1. Quan niệm về cán bộ năng động sáng tạo dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung
Một
trong những nội dung đột phá quan trọng mà Văn kiện Đại hội
XIII của Đảng chỉ rõ: “Có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ
những cán bộ đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện các nguyên tắc
của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách
nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt
trong hành động vì lợi ích chung”[2].Thực
tiễn đổi mới sâu rộng để phát triển nhanh, bền vững đất nước theo mục tiêu,
phương hướng mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra, đòi hỏi
mỗi cán bộ, đảng viên và đặc biệt là lãnh đạo, người đứng đầu các cơ quan, tổ
chức cần hội tụ và phát huy đầy đủ phẩm chất “6 dám” ở các vị trí công việc,
trên mọi cương vị mà Đảng, Nhà nước phân công. Nhằm tiếp tục khuyến khích và bảo
vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, Bộ
Chính trị (khóa XIII) đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW về chủ trương khuyến
khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.
Như vậy, về mặt lý luận chính trị, có thể hiểu rằng, cán bộ năng động sáng tạo vì lợi ích chung chính là những cán bộ có đầy đủ phẩm chất
“sáu dám” đó là “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám
đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong
hành động vì lợi ích chung”. Theo đó, “sáu
dám” là một chỉnh thể cấu thành nhân cách người cán bộ, đảng viên.“Dám” có
nghĩa là không ngại, không sợ làm những việc khó, việc mạo hiểm, việc chưa có
tiền lệ, chưa được hoạch định bằng cơ chế... Thống nhất theo quan điểm đó,
PGS.TS Đoàn Thế Hanh[3] đã phân tích nội hàm các phẩm chất của cán bộ “6 dám” là
phẩm chất cấu thành bởi
bản lĩnh, nghị lực, quyết tâm chính trị và đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên. Bản lĩnh là khả năng đương đầu với khó khăn, giải quyết
những vấn đề mới, khó của cuộc sống một cách bình tĩnh, sáng suốt và tỉnh táo.
Bản lĩnh còn là lòng dũng cảm, kiên trì, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm;
là sự tự khẳng định mình, bày tỏ những quan điểm cá nhân, có chính kiến riêng
và dám đương đầu với mọi thử thách để đạt điều mong muốn. Nghị lực là
sức mạnh tinh thần tạo cho con người sự kiên quyết trong hành động, không lùi
bước trước khó khăn, thử thách. Quyết tâm chính trị là ý chí
thực hiện cho kỳ được mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đồng thuận xác định ở Đại
hội XIII là đẩy mạnh đổi mới đi vào chiều sâu để xây dựng một nước Việt Nam
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đạo đức cách mạng là
“Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”[4].
Ở
góc độ pháp lý, Luật khoa học và công nghệ 2013 có đề cập đến khái niệm “đổi
mới sáng tạo là
việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản
lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất
lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa”[5]. Tuy nhiên, phạm
vi và đối tượng điều chỉnh của Luật này chủ yếu đối với các hoạt động trong
lĩnh vực khoa học và công nghệ. Do đó, nội hàm “đổi mới sáng tạo” theo Luật
Khoa học và Công nghệ không phản ánh hết được phạm vi, đối tượng điều chỉnh và
tinh thần của Kết luận 14.
Kết
luận số 14-KL/TW nêu rõ cán bộ năng động, sáng tạo chính là cán bộ ”có tư duy
sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt
trong cơ chế, chính sách, tập trung vào những vấn đề chưa được quy định hoặc đã
có quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng
góp tích cực vào sự phát triển chung”.
Đối
chiếu với các quy định pháp luật thì khái niệm “cán bộ năng động sáng tạo vì lợi
ích chung” chưa được đề cập đến trong các văn bản pháp luật. Nhằm thể chế hóa nội dung trên, Chính phủ đã khẩn trương soạn thảo và lấy ý kiến đối với dự
thảo Nghị định Quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ
năng động, sáng tạo. Ngày 29/9/2023, Chính phủ ban
hành Nghị định 73/2023/NĐ-CP quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ
năng động, sáng tạo dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, khái niệm “ Cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm” lần đầu tiên được thể chế
hóaở cấp Nghị định kể từ sau đại hội IV của Đảng.
Tại Điều 3 Nghị định 73/2023/NĐ-CP có nêu: “Cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm là cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý, viên chức quản lý,
người giữ chức danh, chức vụ và người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp
theo quy định của Chính phủ có tư duy đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám chịu
trách nhiệm trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, xuất phát
từ yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn nhằm tháo gỡ, giải quyết những điểm
nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách chưa được quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, địa
phương, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ,
đóng góp tích cực vào sự phát triển chung.”
Như vậy, có thể nhận thấy rằng, nội hàm của khái niệm “cán
bộ năng động, sáng tạo” được nhận diện thông qua hai yếu tố:
Một là, tư duy, hành động
trong quá trình thực thi công vụ của cán bộ, công chức đối với những vấn đề
chưa được quy định, nhưng tất cả những hành động đó đều không được trái với hai
đạo luật gốc điều chỉnh mọi hoạt động của xã hội và hành vi của cán bộ đảng
viên là Hiến pháp và Điều lệ Đảng.
Hai là, những tư duy, hành
động và kết quả mang lại phải tạo ra giá trị chung cho xã hội, người dân và các
đối tượng thụ hưởng chính sách, không có yếu tố vụ lợi cá nhân, lợi ích cục bộ,
lợi ích nhóm. Đây là chính là yếu tố mấu chốt để phân loại động cơ, mục đích
cũng như cơ sở để xác định, xem xét trách nhiệm cán bộ khi có hậu quả xảy ra từ
hoạt động đổi mới sáng tạo.
2. Các hình thức bảo vệ cán bộ năng động sáng tạo
vì lợi ích chung theo
quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước
Khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động sáng tạo là một trong những nhiệm vụ then chốt được Đảng ta xác định
cần tập trung lãnh đạo thực hiện từ rất sớm. Qua từng thời kỳ Đại hội, Đảng ta
luôn xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm quyết định sự thành bại trong sự nghiệp
bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Hệ thống các quy định của Đảng, pháp luật của nhà
nước trong thời gian qua đã xác lập cơ sở chính trị, pháp lý cho việc thực thi
cơ chế bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo. Cụ thể:
Một là, bảo vệ cán bộ thông qua công tác quản lý cán bộ và kiểm
soát quyền lực để giữ cho cán bộ không tiếp cận với cái tiêu cực, với cái xấu dẫn
đến tha hóa. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, Đảng ta
luôn xác định cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Xây dựng
đội ngũ cán bộ, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp là công việc hệ trọng
của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và
hiệu quả. Bởi vì, điều này gắn với trách nhiệm chính trị và trách
nhiệm đạo đức, công vụ của cán bộ các cấp, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng
đầu cấp ủy, chính quyền trong việc thực thi kỷ luật, kỷ cương góp phần tích cực để
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn
chặn và đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. Đây chính là tiền đề
cho việc nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người
đứng đầu, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng và đồng thuận trong xã hội về
chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám
làm, dám đột phá vì lợi ích chung.
Vấn
đề này đã được quy định tại các văn bản Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị, Về một
số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên; Quy định số 08-QĐi/TW,
ngày 25 tháng 10 năm 2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy
viên Ban Chấp hành Trung ương; Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07 tháng
6 năm 2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất
là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định số 109-QĐ/TW,
ngày 03/01/2018 của Ban Bí thư về công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Bên
cạnh các quy định của Đảng, pháp luật cũng đã có quy định cụ thể về trách nhiệm
thực thi công vụ của các bộ, công chức như Luật cán bộ, công chức và các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật Phòng chống
tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Thực thi tốt các quy định này, mỗi cán
bộ, công chức tự tu dưỡng, rèn luyện, đề cao
trách nhiệm nêu gương, tự giác thực hiện tốt nhất quyền và trách nhiệm được
giao và tự kiểm soát chức trách, nhiệm vụ của chính mình.
Hai là, bảo vệ cán bộ thông qua theo dõi, kiểm tra, giám sát quá trình triển khai
thực hiện
thí điểm các đề xuất đổi mới, sáng tạo. Phát hiện sớm
và kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh sai sót, vi phạm. Song song đó, siết chặt kỷ luật Ðảng
và pháp luật Nhà nước, bảo đảm việc kiểm soát quyền lực có hiệu quả. Cấp ủy, tổ chức đảng quản
lý chặt chẽ cán bộ của mình, bất kỳ một dấu hiệu gì của một cán bộ nào đấy là
phải nắm được. Mọi nhận thức, tư tưởng,
dấu hiệu lệch lạc phải “thổi còi” ngay, không phải để tự tung tự tác mà không
hay
không biết. Bởi vì việc
buông lỏng sẽ dẫn đến hệ quả gắn với trách nhiệm hành chính của cán bộ, nặng
hơn là trách nhiệm hình sự. Do vậy, kiểm tra, giám sát nhằm kịp thời phát hiện,
ngăn chặn và phòng ngừa sai phạm là nội dung hết sức quan trọng trong bảo vệ
cán bộ. Khi phát hiện sai phạm, hình thức xử lý cũng là quan trọng khi cần nhận
diện rõ đâu là cán bộ suy thoái, cố ý làm trái thì cần xử lý nghiêm khắc mang
tính răn đe. Ngược lại, cán bộ vi phạm do quy định pháp luật chồng chéo hoặc vấn
đề chưa có quy định nhưng do yêu cầu cấp bách từ thực tiễn đòi hỏi phải hành động,
song không trái với Hiến pháp và Điều lệ Đảng thì cần xem xét giảm nhẹ các hình
thức trách nhiệm.
Hệ thống các quy định của Đảng trong công tác kiểm tra, giám sát; phòng ngừa
và xử lý vi phạm tương đối hoàn chỉnh, bao gồm, Quy định
22-QĐ/TW ngày 28/7/2021 của Ban chấp hành TW về công tác kiểm tra, giám
sát và kỷ luật của Đảng; Quy định số 24-QĐ/TW, ngày 30/7/2021 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về thi hành Điều lệ Đảng; Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 06/7/2022
của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm; Quyết định
89-QĐ/TW năm 2022 của Ban Chấp hành Trung
ương
về quy trình kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng, giải quyết tố cáo, khiếu
nại kỷ luật đảng của cấp ủy tỉnh và tương đương đến cơ sở.
Về các quy định pháp luật có liên
quan, cũng đã hình thành hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh từ công tác
phòng, chống, phát hiện, ngăn chặn và xử lý trách nhiệm pháp lý (bao gồm trách
nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự), cụ thể là các quy định của Luật
Khiếu nại; Luật tố cáo; Bộ Luật Hình sự; Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước;
Nghị định số 112/2020/NĐ-CP của Chính phủ về
xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.
Ba là, bảo vệ cán bộ thông qua công tác tổ chức cán bộ nhằm khuyến khích cán bộ
có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút
thắt trong cơ chế, chính sách, tập trung vào những vấn đề chưa được quy định hoặc
đã có quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn, mang lại giá trị, hiệu quả
thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển
chung. Nội dung này cũng chính là sự cụ thể hóa quan điểm
Đại hội XIII của Đảng về công tác cán bộ. Bác Hồ từng khẳng định: "Cán bộ
là cái gốc của mọi công việc". Cán bộ giỏi thì dân được nhờ, cán bộ
kém thì dân phải gánh chịu. Các cấp ủy Đảng cần thường xuyên giám
sát, theo dõi kiểm tra; kịp thời ngăn chặn, xử lý vi phạm; hoặc biểu dương,
nhân rộng, khen thưởng xứng đáng, ưu tiên bố trí sử dụng cán bộ năng động sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm, vì lợi ích chung. Người đứng đầu mỗi cơ quan, đơn vị phải
thật sự tiêu biểu về tính năng động, sáng tạo vì lợi ích chung; công tâm khách
quan sắp xếp, bố trí cán bộ phù hợp với năng lực, sở trường để phát huy tính
năng động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ[6].
Hiện
nay, các quy định của Đảng trong công tác cán bộ gồm có Quy định số 80-QĐ/TW ngày 18/8/2022
về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; Quy định số
50-QĐ/TW ngày 27/12/2021 của Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ; Quy định
số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về việc kiểm soát quyền lực trong
công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền; Quy định về khen thưởng trong Đảng
được thực hiện theo Quy định số 24-QĐ/TW, ngày 30/7/2021 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về thi hành Điều lệ Đảng. Quy định của
pháp luật về công tác tuyển dụng, bố trí, sử dụng, đào tạo, khen thưởng cán bộ
công chức được thực hiện chủ yếu theo quy định của Luật thi đua khen
thưởng 2022; Nghị định số 138/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tuyển dụng,
sử dụng và quản lý công chức; Văn bản hợp nhất số 6/VBHN-BNV ngày 16/08/2022 của Bộ Nội Vụ ban hành Nghị định
về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
Qua
đó, có thể thấy rằng hệ thống các quy định của Đảng và pháp luật của nhà nước
điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt động thực thi chức trách, nhiệm vụ của
cán bộ công chức ở Việt Nam tương đối hoàn thiện và đầy đủ.
Mặc
dù vậy,
việc phát huy tinh thần đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi
ích chung của cán bộ vẫn còn những khó khăn, hạn chế nhất định. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong tiến trình cách mạng Việt
Nam nói chung, trong hơn 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng nói riêng
đã cho thấy: Việc cán bộ “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” có vai trò
quan trọng không chỉ đối với vấn đề hoàn thành nhiệm vụ được giao mà còn có ảnh
hưởng không nhỏ tới sự phát triển của đất nước và mỗi địa phương, cơ quan, đơn
vị. Trước những khó khăn, thách thức của thực tiễn, “dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm” chính là sự quyết tâm, táo bạo, dám ra quyết định đột phá của người
cán bộ lãnh đạo, để họ không chỉ hoàn thành trọng trách mà Đảng và nhân dân
giao phó mà trong những trường hợp cụ thể có thể tránh được những tổn hại không
cần thiết cho tập thể, cộng đồng[7].
Nhằm
tiếp tục khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, Bộ Chính trị (khóa XIII) đã ban hành Kết
luận số 14-KL/TW về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo
vì lợi ích chung. Trong đó chỉ rõ “Nâng cao nhận thức,
tăng cường trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu, tạo sự
thống nhất cao trong toàn Đảng và đồng thuận trong xã hội về chủ trương khuyến
khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi
ích chung; khơi dậy mạnh mẽ ý thức trách nhiệm, khát vọng cống hiến, tinh thần
đổi mới, hết lòng, hết sức vì nhân dân phục vụ của đội ngũ cán bộ”.
Bác Hồ khẳng định: "Công việc thành công hoặc
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải nuôi dạy cán bộ như
người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán
bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta"[8].
Do vậy, nhận định về nội hàm bảo
vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung theo tinh thần Kết luận số 14 – KL/TW
trong tình hình hiện nay, PGS.TS.
Nguyễn Trọng Phúc cho rằng “ở đây là chủ động vun trồng,
tạo nguồn, nuôi dưỡng cán bộ, thúc đẩy cán bộ tốt phát triển, có chính sách
đúng đắn đề bạt, sử dụng cho tốt. Bảo vệ cũng có nghĩa là cố tránh cho cán bộ
sa vào môi trường có thể làm tha hóa, hư hỏng, để cán bộ luôn tu dưỡng, rèn luyện
trong môi trường tốt đẹp, trong ánh sáng để xa rời bóng tối. Bảo vệ khác với bao che
cán bộ phạm sai lầm, mà đã phạm sai lầm phải nghiêm túc sửa chữa. Ngay cả cán bộ
phạm sai lầm, khuyết điểm thì xử lý thế nào cho có lý, có tình cũng là quan trọng
để cán bộ có thể sửa chữa, tiến bộ, tốt hơn là đẩy họ vào thế cùng, thậm chí bị
kẻ xấu lôi kéo.
Đồng quan điểm, tác
giả bài viết nhận thấy, bên cạnh các hình thức bảo vệ cán bộ đã và đang được
triển khai theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, cần tiếp tục hoàn
thiện hành lang pháp lý bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung với
các nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, bảo vệ cán
bộ thông qua việc xây dựng quy định cụ thể
khuyến khích cán bộ
năng động, sáng tạo, tạo điều kiện cho cán bộ phát triển, đảm bảo
cán bộ có “đủ quyền, đúng quyền, rõ quyền, thực quyền”mạnh dạn tháo
gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách, mang lại
giá trị, hiệu quả thiết thực.
Hoàn thiện cơ chế khuyến
khích cán bộ
cũng có nghĩa là bảo vệ cán
bộ[9].
Thứ hai, bảo vệ cán bộ
bằng việc thiết lập hành lang pháp lý giúp cán bộ tránh khỏi những rủi ro khi
hành động vì lợi ích chung, bao gồm việc xây dựng các quy định pháp luật nhằm
thể chế hóa quan điểm miễn trừ một số hình thức trách nhiệm đối với cán bộ năng
động sáng tạo vì lợi ích chung.
Thứ ba, bảo vệ cán bộ cần tuân thủ các nguyên tắc của nhà
nước pháp quyền XHCN, theo đó giới hạn của phạm vi bảo vệ cán bộ chính là sự
tuân thủ các quy định của Đảng, pháp luật cúa nhà nước khi lựa chọn các biện
pháp bảo vệ. Trong đó, cần đặc biệt chú ý đến sự đồng bộ, thống nhất của cả hệ
thống pháp luật. Không vì một chế định cụ thể hay yêu cầu thực tiễn mà phá vỡ
tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
3. Sự cần thiết đối với yêu cầu hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ cán bộ năng động sáng tạo
3.1. Cơ sở chính trị,
pháp lý
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng và Nhà nước luôn nhất quán về đường lối, quan điểm từng bước hoàn thiện cơ
chế, chính sách pháp luật nhằm khơi dậy mạnh mẽ ý thức, trách nhiệm, khát vọng
cống hiến, tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
vì nhân dân phục vụ của đội ngũ cán bộ.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của
Đảng nêu rõ cần loại bỏ tư tưởng “trông chờ, ỷ lại vào tập thể, sợ trách nhiệm,
không dám quyết đoán”. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V xác định
cần đặc biệt coi trọng việc phát hiện và đưa vào đội ngũ cán bộ những người
“trung thực đã dám vì sự nghiệp chung mà vạch trần khuyết điểm, bảo vệ chân
lý”, cần phải tập hợp được những cán bộ có tinh thần dám quyết định và dám chịu
trách nhiệm để hoàn thành nhiệm vụ”. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XIII xác định một trong những nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa là “có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến
khích bảo vệ cascn bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệ, dám đổi
mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động
vì lợi ích chung”. Quy định số 214-Qđ/TW và Quy định số 89-QĐ/TW yêu cầu về
năng lực và uy tín cán bộ lãnh đạo, quản lý phải năng động, sáng tạo, cần cù,
chịu khó, dám nghĩ, dám làm và vì dân phục vụ.
Nghị quyết số 26-NQ/TW đã đặt ra
nhiệm vụ phải bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm
vì lợi ích chung, đồng thời, coi việc xây dựng cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ,
dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung là một nhiệm vụ trọng
tâm trong xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Kết luận số 14-KL/TW đã thể hiện
quan điểm, chủ trương của Đảng về cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động
sáng tạo vì lợi ích chung trong giai đoạn hiện nay. Kết luận số 21-KL/TW ngày
25/10/2021 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy
mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy
lùi xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” xác định: “Thực hiện tốt chủ trương
khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, luôn nỗ lực
hành động vì lợi ích chung”.
Thể chế hóa chủ trương của Đảng,
Nhà nước ta đã xác định thúc đẩy thể chế đổi mới, sáng tạo là một trong những nội
dung cốt lõi trong đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế để phát triển, đồng
thời thể chế hóa, cụ thể hóa một số cơ chế, chính sách khuyến khích đổi mới,
sáng tạo như: Chính sách đối với người có tài năng trong hoạt động công vụ;
chính sách thu hút, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học công nghệ; các quy định
khuyến khích về thi đua, khen thưởng, về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, về khuyến
khích phong trào thi đua sáng tạo trong quần chúng…Bên cạnh đó, Quốc hội yêu cầu
Chính phủ “khẩn trương tham mưu thể chế hóa, thực hiện Kết luận số 14-KL/TW
ngày 22/9/2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ
năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”.
Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
yêu cầu thể chế chủ trương của Đảng về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động,
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Tại Nghị quyết số 85/NQ-CP ngày 09/7/2022 của Chính phủ, Nghị quyết Hội nghị
trực tuyến Chính phủ với địa phương và phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng
6/2022, Chính phủ giao Bộ Nội Vụ “nghiên cứu việc xây dựng văn bản để thể chế
hóa chủ trương của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo,
dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung.” Theo Chương trình công tác
năm 2023 của Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định số 48/Qđ-TTg ngày
03/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nội vụ được giao chủ trì xây dựng Nghị định
về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột
phá vì lợi ích chung.
Trên cơ sở đó, ngày 29/09/2023 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
73/2023/NĐ-CP nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng, tạo hành lang pháp lý để khuyến khích và bảo vệ cán bộ đổi mới,
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sẵn sàng đương đầu với khó
khăn. Nội dung Nghị định tập trung vào các nguyên tắc khuyến khích, bảo vệ cán bộ; điều kiện áp dụng
chính sách khuyến khích, biện pháp bảo vệ cán bộ; trình tự, thủ tục đề xuất và phê duyệt đổi mới sáng tạo; chính
sách khuyến khích và biện pháp bảo vệ cán bộ năng động sáng tạo. Tuy nhiên, quá
trình soạn thảo và ban hành nghị định, thiếu sự đánh giá tác động
tiêu cực của việc thực hiện chính sách khuyến khích, bảo vệ cán bộ; chưa làm rõ giới hạn phạm vi và đối tượng điều chỉnh nhằm
bảo đảm nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo đảm thượng tôn pháp luật. Những vấn đề nghẽn về pháp luật phải được
giải quyết, tháo gỡ bằng công tác xây
dựng pháp luật. Cán bộ trong thi hành công vụ phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật
và Điều lệ Đảng, đặc biệt là việc đổi mới, sáng tạo trong lĩnh vực an ninh quốc
phòng[10].
3.2. Cơ sở thực tiễn
Yêu cầu đổi mới sâu rộng để phát triển nhanh, bền
vững đất nước theo mục tiêu, phương hướng mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng đề ra, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và đặc biệt là lãnh đạo, người
đứng đầu các cơ quan, tổ chức cần hội tụ và phát huy đầy đủ phẩm chất “6 dám” ở
các vị trí công việc, trên mọi cương vị mà Đảng, Nhà nước phân công. Tuy nhiên, trên thực tế, tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm, nể nang,
né tránh vẫn đang tồn tại trong một bộ phận cán bộ, công chức, nhất là người đứng
đầu. Sợ trách nhiệm là một
trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị mà Nghị quyết Trung ương
4, khóa XII đã nhận diện và chỉ rõ. Đánh giá
về đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay, có
quan điểm cho rằng, có thể nhóm lại ở 3 thành phần: một là, những người có suy
nghĩ tích cực, dám làm, dám chịu trách nhiệm; hai là, những người “cứ bình
bình, chưa đến mức tiêu cực nhưng chỉ quy định gì thì làm nấy”; ba là, những
người chỉ nghĩ đến lợi ích cho bản thân, không nghĩ đến lợi ích quốc gia, dân tộc[11]. Để khắc phục tình
trạng này, cần phải có quy định cụ thể để giải tỏa, khắc phục cho được tâm lý sợ
làm sai, sợ bị xử lý trách nhiệm, đặc biệt trong bối cảnh công cuộc phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực được đẩy mạnh.
Thực
tiễn lãnh đạo, quản lý, điều hành công việc của không ít cán bộ còn nhiều khó
khăn, trở ngại, vướng mắc do một số quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước còn chưa hoàn thiện, thậm chí nhiều quy định pháp luật còn chồng chéo,
mâu thuẫn, thiếu tính thống nhất, đồng bộ hoặc liên thông, không còn phù hợp với
thực tiễn. Nhiều vấn đề mới nảy sinh, chưa có tiền lệ, chưa được quy định, chưa
có kinh nghiệm, dễ gây rủi ro, sai sót, thiệt hại hoặc dễ bị lợi dụng để làm
trái, trục lợi trong quá trình triển khai thực hiện. Điều này khiến cho cán bộ
nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng còn chưa phát huy được hết năng lực,
tinh thần đổi mới, sáng tạo, thậm chí còn e ngại bị xem xét trách nhiệm hình sự
hoặc xử lý kỷ luật khi có khuyết điểm, vi phạm, hạn chế, thiếu sót. Trong khi
đó, chưa có cơ chế, chính sách đủ mạnh để khuyến khích đối với cán bộ và đặc biệt
là thiếu các cơ chế để bảo vệ cán bộ trong những trường hợp quyết định sáng tạo,
đột phá có sai sót.
Với yêu cầu cấp bách từ thực tiễn, Kết luận số 14-KL/TW của Bộ Chính trị tiếp tục đặt ra những vấn đề mà pháp luật còn bỏ ngõ đối với cơ chế bảo
vệ cán bộ năng động, sáng tạo trong
tình hình mới.
Cụ thể đó là:
- Tạo
cơ sở pháp lý vững chắc để khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động,
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử
thách, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung.
- Động
viên cán bộ tích cực phát huy trí tuệ sáng tạo, mạnh dạn đề xuất ý tưởng, cách
làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính
sách, những vấn đề chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với
thực tiễn, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ,
đóng góp tích cực vào sự phát triển chung.
-
Ngăn ngừa, xử lý nghiêm những cán bộ lợi dụng chủ trương khuyến khích, bảo vệ
cán bộ để thực hiện hoặc bao che hành vi vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm
kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Từ những lý do nêu trên, việc hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm bảo vệ cán bộ năng động
sáng tạo là cần thiết nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng, tạo
hành lang pháp lý để khuyến khích và bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm, sẵn sàng đương đầu với khó khăn. Đây là vấn đề xuất phát
từ đòi hỏi của thực tiễn, yêu cầu phải có sự điều chỉnh bằng pháp luật. Tuy nhiên, việc
điều chỉnh bằng pháp luật cần phải có sự đồng bộ và thống nhất. Đây là
nội dung mới, khó, do đó cần có sự rà
soát các quy định pháp luật có liên quan; báo
cáo kinh nghiệm nước ngoài về vấn đề này... bởi vì điều
này sẽ tác động đến tính khả thi của Nghị định sau khi ban hành.
4. Một số kiến nghị hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo
4.1. Xác định rõ giới
hạn phạm vi bảo vệ cán bộ
Kết luận số 14 – KL/TW nêu rõ “Khi
cán bộ thực hiện thí điểm mà kết quả không đạt hoặc chỉ đạt được một phần mục
tiêu đề ra hoặc gặp rủi ro, xảy ra thiệt hại thì cấp có thẩm quyền phải kịp thời
xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, đánh giá công tâm để xem xét, xử
lý phù hợp, nếu thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích
chung thì được xem xét miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm”.
Điểm xuất
phát của đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá phải từ yêu cầu thực tiễn và tất
yếu kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia dân tộc với lợi ích địa phương, cơ
quan, đơn vị và lợi ích cá nhân; trong đó, lợi ích chung được đặt lên trên hết,
trước hết. Như vậy, để xác định phạm vi bảo vệ cán bộ “6 dám”, Nghị định 73/2023/NĐ-CP cần nhận diện được thế nào là
“vì lợi ích chung”, nội dung và căn cứ của việc “xem xét miễn hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm” là gì và bản chất của hành động “bảo vệ cán bộ” trong
trường hợp này được thể hiện thông qua các hình thức cụ thể nào. Trong khoa học pháp lý, xây dựng khái niệm là yếu
tố tiên quyết để tạo lập cơ sở lý luận. Trong quá trình ban hành và thực thi
pháp luật, xác định khái niệm và nội hàm khái niệm là những yếu tố gốc rễ, nền
tảng bảo đảm pháp luật được hiểu và vận dụng thống nhất. Tuy nhiên, nội dung này chưa được
xử lý tốt trong nghị định. Cụ thể có những vấn đề sau đây cần tiếp tục được xem
xét hoàn thiện:
Thứ nhất, về nội hàm pháp lý của khái niệm “vì lợi ích chung” theo Điều 3 Nghị định 73/2023/NĐ-CP “Vì lợi ích
chung là vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, cộng đồng, của ngành, lĩnh vực, địa
phương, cơ quan, đơn vị mà không vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, không có động
cơ vụ lợi.”
Tác giả bài viết cho rằng, quy định này chưa nhận diện
được nội hàm pháp lý thế nào là “vì lợi ích chung” bởi vì khái niệm được Nghị định
đưa ra quá rộng bao gồm cả lợi ích của ngành/lĩnh vực, địa phương, cơ quan, đơn
vị. Với cách định nghĩa như vậy chưa tạo thành rào cản
pháp lý hữu hiệu nhằm kiểm soát các hành vi lợi dụng vì "lợi ích
chung" nhưng lại gài những lợi ích cục bộ ngành/lĩnh vực/địa phương, lợi ích nhóm, lợi ích nhiệm
kỳ khi tham mưu thực hiện cơ chế, chính sách, đặc biệt trong trường
hợp xung đột với lợi ích của các ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan, đơn vị
khác...
Trong khi đây chính là yếu tố quyết định trong việc
xem xét động cơ, trách nhiệm của cán bộ nhằm đưa ra các biện pháp bảo vệ hoặc xử
lý phù hợp.
Theo tác giả
bài viết, để nhận diện được thế nào là “vì lợi ích chung”, các nhà làm luật cần
thiết kế
lại
các điều khoản của Nghị định này dựa trên lý luận về lợi ích quốc gia, lợi
ích dân tộc, lợi ích của nhân dân trong chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; đồng thời, tham khảo thêm các khái niệm về lợi ích công, lợi ích công cộng
từ các khuyến nghị lập pháp của Uncitral và kinh nghiệm lập pháp nhằm bảo vệ lợi
ích công trên thế giới[12].
Trên cơ sở đó, các nhà làm luật Việt Nam khi thể chế hóa quy định này cần xác định
được giới hạn phạm vi của lợi ích chung, hơn là thiết kế theo hình thức liệt kê
mang tính cảm tính như đã nêu.
Thứ hai, chế định
“trách nhiệm” được đề cập trong Nghị định với vai trò vừa là cơ sở vừa là mục
đích của các biện pháp bảo vệ cán bộ, tuy nhiên, khi thể chế
hóa nội dung “xem xét miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệmkhi
cán bộ thực hiện thí điểm mà kết quả không đạt hoặc chỉ đạt được một phần mục
tiêu đề ra hoặc gặp rủi ro, xảy ra thiệt hại nếu thực hiện đúng chủ trương, có
động cơ trong sáng, vì lợi ích chung..” thành quy định
pháp luật, các nhà làm luật chưa
xác định rõ tiêu chí, đối tượng áp dụng tương ứng với các hình thức trách nhiệm
được miễn, giảm nhẹ là các loại trách nhiệm nào. Điều 11
Nghị định 73/2023/NĐ-CP quy định các biện pháp bảo vệ cán
bộ
bao gồm:
-
Không bị xử lý trách nhiệm theo quy định
của pháp luật có liên quan trong trường hợp cán bộ thực hiện đề xuất
đổi mới, sáng tạo được cơ quan sử dụng cán bộ đánh giá là hoàn thành theo quy định
tại Điều 18 Nghị định này;
-
Được loại trừ trách nhiệm theo quy định
của pháp luật có liên quan trong trường hợp cán bộ thực hiện đề xuất
đổi mới, sáng tạo mà không hoàn thành hoặc chỉ hoàn thành một phần mục tiêu
đề ra nhưng được cơ quan sử dụng cán bộ xem xét, đánh giá đã thực hiện đúng
chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung quy định tại điểm b khoản 2 Điều 5 Nghị định này;
-
Được xem xét loại trừ, miễn hoặc giảm
nhẹ trách nhiệm theo quy định của pháp luật có liên quan trong trường hợp
cán bộ thực hiện đề xuất
đổi mới, sáng tạo mà không hoàn thành hoặc chỉ hoàn thành một phần mục tiêu
đề ra và gây ra thiệt hại nhưng được cơ quan sử dụng cán bộ xem xét, đánh
giá đã thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung quy định
tại điểm b khoản 2 Điều 5 Nghị định này.
Với quy định này, Nghị định chưa xác định rõ “trách nhiệm” đang được đề cập
đến là hình thức trách nhiệm nào. Bảo vệ cán bộ năng động sáng tạo vì lợi ích
chung chính là bảo vệ cán bộ tránh khỏi những rủi ro khi hành động vì lợi ích
chung, mà trước hết là các rủi ro liên quan đến trách nhiệm hoạt động công vụ
mà một cán bộ công chức cần tuân thủ khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ được
giao. Trách
nhiệm công vụ thể hiện phạm vi các yêu cầu cụ thể của Nhà nước thông qua các
quy định của pháp luật về nội dung nhiệm vụ và phẩm chất của cán bộ, công chức
khi thực thi công vụ; đồng thời cũng là sự gánh chịu hậu quả pháp lý do không thực hiện
hay thực hiện không đúng nghĩa vụ. Nội hàm khái niệm trách nhiệm công vụ còn thể
hiện yêu cầu của pháp luật và đạo đức nghề nghiệp đối với cán bộ, công chức về
tính chủ động sáng tạo trong hoạt động thực thi công vụ. Đó là nghĩa vụ phải lựa
chọn phương án hành động tối ưu và hợp lý nhất”[13]. Trách
nhiệm công vụ chính là tổng thể các hình thức trách nhiệm của cán bộ công chức
trong thực thi chức trách, nhiệm vụ, bao gồm trách
nhiệm
pháp lý, trách nhiệm chính trị và trách nhiệm đạo
đức. Xuất phát từ đặc
thù của hệ thống chính trị ở Việt Nam, các dạng trách
nhiệm của cán bộ, công chức có mối quan hệ và tác động qua
lại, chặt chẽ với nhau. Cơ sở của mối quan hệ này được khẳng định
thông qua các quy định của pháp luật và điều lệ của các
tổ chức chính trị, chính trị - xã hội[14].
Các hình thức trách nhiệm của cán bộ công chức chính là cơ sở để hoàn thiện
hành lang pháp lý bảo vệ cán bộ “năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột
phá vì lợi chung”. Bởi vì, rào cản lớn nhất hiện nay chính là các rủi ro về mặt
trách nhiệm khi thực hiện đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, yếu tố trách nhiệm
cũng chính là căn cứ để xác định giới hạn bảo vệ cán bộ theo quy định của pháp
luật.
Mặt khác, quy định này đã vô tình trao quyền vượt quá giới hạn quy định
pháp luật có liên quan khi căn cứ để xem xét yếu tố “trách nhiệm” của cán bộ lại
dựa trên kết quả đánh giá của cơ quan sử dụng cán bộ, trong khi với một số quy
định pháp luật chuyên ngành như Luật Hình sự, Luật trách nhiệm bồi thường nhà
nước đều đã có những quy định chặt chẽ về căn cứ pháp lý nhằm đánh giá, xem xét
và xác định trách nhiệm có liên quan mà không phụ thuộc vào kết quả đánh giá của
cơ quan sử dụng cán bộ như quy định của Nghị định 73/2023/NĐ-CP. Điều này ảnh
hưởng đến tính khả thi của nghị định khi tổ chức triển khai thực hiện.
Do vậy, mục tiêu thể chế hóa các biện
pháp bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, trong phạm vi của Nghị
định 73/2023/NĐ-CP hiện hành vẫn chưa giải quyết được một cách đầy đủ, mà cần
tiếp tục có sự rà soát, đối chiếu với các quy định pháp luật có liên quan. Đặc biệt là đối với yếu tố “trách nhiệm hình sự”,
cần có sự thận trọng và chặt chẽ bởi vì liên quan đến các quy định của Bộ Luật
Hình sự, Bộ Luật Tố tụng hình sự về quy định miễn
truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như trách nhiệm của một số
cơ quan như cơ
quan điều tra, tòa án, viện kiểm
sát... vượt quá thẩm quyền của Chính phủ. Việc thiết kế các quy định này ở cấp
Nghị định sẽ dẫn đến sự không đồng bộ với các quy định pháp luật khác và thiếu
tính khả thi trong thực tiễn.
Thứ ba, điều kiện bảo
vệ cán bộ được nêu tại Điều 5 Nghị định 73/2023/NĐ-CP là “khi nội
dung đề xuất đáp ứng các điều kiện sau: 1. Có khả năng tháo gỡ, giải quyết điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính
sách chưa được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương và giải quyết hiệu quả vấn đề
được đề xuất; 2. Vì lợi ích chung, đem lại giá trị, hiệu quả
thiết thực, tạo chuyển biến, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của đất
nước, địa phương, cơ quan, đơn vị;3.Xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của thực
tiễn; không ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; không
làm ảnh hưởng đến sự phát triển của địa phương, cơ quan, đơn vị khác…”. Tuy nhiên,
không có quy định cấp cơ quan, tổ chức, cá nhân nào có thẩm quyền xác định việc
đáp ứng được các điều kiện trên. Tiêu chí nào để đánh giá việc đem lại lợi ích,
hiệu quả thiết thực…cũng chưa được làm rõ. Như vậy, rất dễ dẫn đến tình trạng
đánh giá một cách cảm tính, thiếu các tiêu chí định lượng. Đồng thời có thể dẫn
đến tình trạng ý kiến khác nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp
cần đánh giá để xem xét trách nhiệm. Ví dụ như giữa cơ quan điều tra và cơ quan
quản lý nhà nước ở các góc độ chức năng, nhiệm vụ khác nhau sẽ có cách nhìn nhận,
đánh giá về tính hiệu quả khác nhau. Trong trường hợp có nhận định, ý kiến khác
nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền, thì cơ quan nào là cơ quan có thẩm quyền kết
luận cuối cùng cũng chưa được dự liệu trong quy định pháp luật.
Thứ tư, về thời gian
thí điểm/tổ chức thực hiện đề xuất và thời hiệu đánh giá hiệu quả của nội dung
đề xuất cũng chưa được đề cập đến trong dự thảo. Điều 18 Nghị định
73/2023/NĐ-CP chỉ quy định về trách nhiệm và thời hạn báo cáo cấp có thẩm quyền
khi hoàn
thành thực hiện đề xuất đổi mới, sáng tạo và thầm quyền,
trình tự thẩm định, dánh giá kết quả thực hiện là cơ quan, người có
thẩm quyền quyết định cho phép thực hiện đề xuất. Tuy
nhiên,
trong thực tiễn, có rất nội dung đề xuất cần thực hiện trong một thời gian dài
mới chứng minh được tính hiệu quả trong việc tháo gỡ các điểm nghẽn về cơ chế,
chính sách. Với thời gian kéo dài thì quy định pháp luật thay đổi, cá nhân, tổ
chức có thẩm quyền phê duyệt nội dung đề xuất thay đổi vị trí công tác, nhận thức
của cán bộ thay đổi.. những vấn đề này chưa pháp luật dự liệu. Do vậy, cần bổ
sung thêm quy định cụ thể về thời gian tối đa để hoàn thành một nội dung đổi mới,
sáng tạo, quy định về thời hiệu làm căn cứ pháp lý để xem xét đánh giá kết quả
thực hiện và quy định về thẩm quyền chuyển tiếp trong trường hợp cá nhân có thẩm
quyền/thành viên hội đồng phê duyệt đề xuất chuyển công tác.
4.2. Hoàn thiện quy định về “đổi mới sáng tạo”
Một là, về khái niệm “đối mới sáng tạo”: thuật ngữ này được đề cấp đến trong Kết luận
14 và Nghị định 73/2023/NĐ-CP về bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo. Tuy nhiên,
nội hàm của thuật ngữ này được hiểu như thế nào thì chưa được đề cập đến. Đối
chiếu với các quy định pháp luật có liên quan thì Luật khoa học và công nghệ
2013 có đề cập “đổi mới sáng tạo là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu,
giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm,
hàng hóa”[15]. Tuy nhiên, phạm
vi và đối tượng điều chỉnh của Luật này các hoạt động trong lĩnh vực khoa học
và công nghệ. Do đó, nội hàm “đổi mới sáng tạo” theo Luật Khoa học và Công nghệ
không phản ánh hết được phạm vi, đối tượng điều chỉnh và tinh thần của Kết luận
14. Mặt khác, đối với cán bộ, công chức, việc công nhận các giải pháp sáng kiến
trong hoạt động công vụ được thực hiện theo quy định tại Nghị định số
13/2012/NĐ-CP của Chính phủ ban hành Điều lệ sáng kiến. Như vậy, với phạm vi điều
chỉnh[16] của Nghị định bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo
thì việc tồn tại 3 văn bản quy phạm pháp luật cùng điều
chỉnh nội dung về “đổi mới sáng tạo”, nhưng văn bản sau không có sự liên kết với
văn bản trước hoặc điều khoản loại trừ sẽ gây lúng túng trong quá trình áp dụng
pháp luật đối với những nội dung chưa được dự liệu trong quy định bảo vệ cán bộ năng động sáng tạo[17].
Hai là, cần có quy định ban hành bộ tiêu
chí cụ thể về đổi mới, năng động, sáng tạo đối với từng chức vụ lãnh đạo, chức
danh nghề nghiệp, từng vị trí cán bộ, công tác. Trong thực tiễn, sự năng động,
đổi mới, sáng tạo và sự lạm quyền, lộng quyền của cán bộ là ranh giới rất mong
manh, nhất là đối với những trường hợp có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá,
tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách và những
vấn đề chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn. Khi
có tiêu chí cụ thể, tổ chức đảng, cán bộ sẽ giải phóng tư tưởng, mạnh dạn đổi mới,
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung, dám chịu trách nhiệm cả
khi chứa đựng những yếu tố rủi ro khách quan và chủ quan mà không sợ
bị quy trách nhiệm một cách phiến diện. Nếu
không quy định tiêu chí cụ thể thì không giải quyết được thực trạng cán bộ có năng lực đổi mới, năng động,
sáng tạo nhưng để “yên thân”, họ chỉ làm theo các quy định, quy chế đã có mà
không dám “xé rào, đột phá” vì sợ lại bị quy vào vi phạm những điều đảng viên
không được làm theo quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XIII)[18].
4.3. Bổ sung quy định
về công tác cán bộ
Một trong những chính sách khuyến khích bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo
được nêu tại Điều 10 Chương 3 của Nghị định 73/2023/NĐ-CP là “Được lấy làm căn cứ để đánh giá trước khi xếp loại,
bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, quy hoạch, điều động, luân chuyển theo hướng ưu tiên bố
trí, sử dụng cán bộ có tư duy đổi mới, cách làm sáng tạo, hiệu quả cao”. Quy định này thể hiện sự quyết tâm mạnh mẽ trong việc xây
dựng hành lang pháp lý khuyến khích bảo vệ cán bộ nhằm thể chế hóa quan điểm
“ưu tiên bố trí, sử dụng cán bộ có tư duy đổi mới, cách làm đột phá, sáng tạo,
hiệu quả cao” theo Kết luận số 14-KL/TW. Tuy nhiên, liên quan đến công tác cán
bộ, bên cạnh việc thực hiện theo quy định của Luật cán bộ, công chức và các văn
bản hướng dẫn thi hành, thì việc quy hoạch, bổ nhiệm cần tuân thủ các quy định
của Đảng về các điều kiện, tiêu chuẩn đối với từng chức danh cán bộ theo phân cấp
quản lý. Như vậy, đối với quy định này cần được điều chỉnh thành “Được lấy làm căn cứ để đánh giá trước khi xếp loại,
bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, quy hoạch, điều động, luân chuyển theo hướng ưu tiên bố
trí, sử dụng cán bộ có tư duy đổi mới, cách làm sáng tạo, hiệu quả cao theo quy định về công tác cán bộ”, hoặc bổ sung quy định cụ thể thế nào là “ưu tiên bố trí, sử dụng cán bộ”
cho phù hợp với quy định của Đảng và quy định của Luật Cán bộ, công chức, tránh
quy định mang tính hình thức do không triển khai được trên thực tế.
4.4. Xác định trách
nhiệm người đứng đầu và tổ chức có liên quan
Pháp luật cần quy định cụ thể, rõ nội dung đổi mới, sáng tạo nào
phải báo cáo cấp trên trước khi triển khai thực hiện và nội dung không phải báo
cáo cấp trên. Mỗi tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức nhất là người đứng đầu
được đổi mới, năng động, sáng tạo trong trách nhiệm, thẩm quyền, vị trí của
mình. Do đó, việc trao quyền lực cho tổ chức, cán bộ phải bảo đảm “đủ quyền,
đúng quyền, rõ quyền, thực quyền” để cán bộ chủ động năng động, đổi mới, sáng tạo
trong thực hiện thẩm quyền được giao, tổ chức
thực hiện và chịu trách nhiệm. Những sáng kiến đổi mới, sáng tạo vượt thẩm quyền
“phải báo cáo với người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị nơi công
tác; được cơ quan, cá nhân hoặc cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định cho thực
hiện hoặc thực hiện thí điểm”[19].
Khi đã báo cáo cấp trên, nếu sự “đổi mới, sáng tạo” vẫn có những sai
sót, nhất là việc lồng chủ nghĩa cá nhân để trục lợi, tham nhũng, tiêu cực thì
cấp trên phải chịu trách nhiệm liên đới. Trong trường
hợp này pháp luật cần có quy định cụ thể về tính chất, mức độ, hình thức trách
nhiệm liên đới, đặc biệt là trách nhiệm chính trị của người đứng đầu. Như vậy,
vừa
hạn chế và khắc phục tình trạng cấp dưới bị kỷ luật, cấp trên không chịu trách nhiệm; vừa là cơ sở pháp lý để bảo vệ tổ chức, cá nhân có
liên quan trong trường hợp rủi ro xảy ra hậu quả đối với các đề xuất đổi mới,
sáng tạo[20].
Ở
nước ta, hiện nay có Quy định số 41-QĐ/TW, ngày 03/11/2021 của Bộ Chính trị
(khóa XIII) về miễm nhiệm, từ chức đối với cán bộ nhưng thực tế việc tự giác
xin từ chức còn rất ít, tư tưởng còn lấn cấn nên rất cần thực hiện “văn hóa từ
chức” để thể hiện trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo
các cấp.
5. Kết luận
Kết luận của Bộ Chính trị
về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung là chủ
trương "có ý nghĩa mở đường". Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị ban
hành một văn bản riêng về chủ đề trên. Trong đó, tư tưởng nổi bật là khuyến
khích cán bộ có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm
nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách. Cách làm đột phá đó phải tập trung
vào những vấn đề chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với
thực tiễn; mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ,
đóng góp tích cực vào sự phát triển chung. Với yêu cầu cấp bách từ thực tiễn, Kết luận số 14-KL/TW của Bộ Chính trị tiếp tục đặt ra những vấn đề mà pháp luật còn bỏ ngõ đối với cơ chế bảo
vệ cán bộ năng động, sáng tạo trong tình hình mới. Vấn đề này đòi hỏi phải được
giải quyết thấu đáo từ góc độ pháp lý cả về lý luận và thực tiễn, từ đó bổ sung
quy định nhằm hoàn thiện những khoảng trống pháp lý trong quá trình thực thi chủ
trương khuyến khích, bảo vệ cán bộ “6 dám”. Nội dung cần làm
ngay là cần nghiên cứu, rà soát sửa đổi, bổ sung các quy định của hệ thống pháp
luật hiện hành theo hướng đồng bộ, thống nhất theo tinh thần Kết luận số
14-KL/TW. Việc luật hóa chủ trương của Đảng về khuyến
khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung được kỳ vọng tạo cơ
sở chính trị và pháp lý vững chắc để khuyến khích, động viên đội ngũ cán bộ tâm
huyết, trách nhiệm với công việc, bảo vệ người có quyết tâm đổi mới, sáng tạo,
dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách,
luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung./.
Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. 2. Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. 3. Nghị quyết số 05-NQ/HNTW khóa VI, ngày 20/6/1988 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng bảo đảm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng”. 4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016.
(PLPT) - Bài viết đề xuất các giải pháp để hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền con người trong bối cảnh kỷ nguyên công nghệ 4.0.
(PLPT) - Bài viết tập trung phân tích khung pháp luật về chào bán trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản; từ đó, nhận diện những hạn chế trong quy định của pháp luật thực định và thực tiễn thi hành để đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về chào bán trái phiếu riêng lẻ của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong thời gian tới.
(PLPT) - Bài viết tập trung phân tích, đánh giá, làm rõ ý nghĩa của việc phát triển thị trường tín chỉ các-bon trong nước cũng như thực trạng pháp luật Việt Nam về vấn đề này và từ đó đưa ra một số định hướng về phát triển nền tảng pháp lý cho thị trường tín chỉ các-bon ở Việt Nam.
(PLPT) - Bài viết phân tích các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng dễ bị tổn thương, cùng với đó là trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh khi giao dịch với người tiêu dùng dễ bị tổn thương, đặc biệt là trách nhiệm áp dụng cơ chế giải quyết khiếu nại, tranh chấp của đối tượng này.
(PLPT) - Thu hồi Giấy đăng ký hoạt động là một trong các chế tài đối với doanh nghiệp đấu giá tài sản. Chế tài này cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải chấm dứt hoạt động và rút lui khỏi thị trường.