Quy định pháp luật về nhãn hàng hoá đối với sản phẩm nước ép trái cây: Kinh nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam
Phạm Minh Thy Vân *
Thứ năm, 30/10/2025 - 10:28
Nghe audio
0:00
(PLPT) - Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật về nhãn hàng hoá cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này đối với sản phẩm nước ép trái cây trên thị trường, nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về ghi nhãn hàng hóa, hướng đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về thực phẩm.
Tóm tắt: Nhãn hàng hoá là công cụ quan trọng nhằm quảng bá cho nhà sản xuất, là chỉ
dẫn giúp người tiêu dùng lựa chọn được sản phẩm phù hợp với nhu cầu của họ,
đồng thời đảm bảo hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.
Đặc biệt với mặt hàng được tiêu dùng phổ biến như nước ép trái cây, việc ghi
nhãn hàng hoá chính xác, trung thực không chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng
của người tiêu dùng mà còn góp phần phòng ngừa, giảm thiểu nguy cơ đối với sức
khỏe cộng đồng (như bệnh đái tháo đường, sâu răng, bệnh tim mạch…) và gia tăng
chi phí y tế xã hội. Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật về nhãn
hàng hoá cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này đối với sản phẩm nước ép
trái cây trên thị trường, nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy
định về ghi nhãn hàng hóa, hướng đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và tăng
cường hiệu quả quản lý nhà nước về thực phẩm. Từ khoá: nhãn hàng hoá, tên hàng hoá,
hình minh hoạ, bao bì sản phẩm Abstract: Goods labels
serve as an important tool for manufacturers to promote their products, as well
as a means to help consumers choose products that meet their needs while
ensuring the effectiveness of state management over food safety. Particularly for widely consumed products such as fruit juice, accurate and truthful
labeling not only protects the legitimate rights of interests of consumers but
also contributes to preventing and reducing public health risks (such as
diabetes, tooth decay, and cardiovascular diseases, etc.) and increasing social
healthcare costs. Based on an analysis of legal provisions on goods labeling
and the practical application of these regulations to fruit juice products on
the market, this study proposes solutions to improve labeling regulations, with
a view to protecting consumer rights and enhancing the effectiveness of state
management over food products. Keywords: goods labels, product name, illustrative image,
product packaging
1. Giới thiệu về nhãn hàng hoá
1.1. Khái niệm nhãn hàng hoá và
ghi nhãn hàng hoá
Xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng năm 5000 trước Công
nguyên[1] khi người Sumeria – chủ nhân của nền
văn minh Lưỡng Hà – bắt đầu khắc tên lên các dụng cụ bằng đất sét với mục đích
đánh dấu nguồn gốc của chúng, nhãn hàng hoá được xem là kênh truyền thông quan
trọng cho sản phẩm, qua đó tăng khả năng cạnh tranh của nhà sản xuất (NSX) trên
thị trường. Về phía người tiêu dùng (NTD), quyền được thông tin kịp thời, chính
xác, đầy đủ về sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ[2] của NTD còn được công nhận và bảo hộ
bởi pháp luật[3]. Dựa vào các thông tin được cung cấp
này, NTD có thể biết đây là sản phẩm gì, được làm từ nguyên liệu nào, nguồn gốc
từ đâu, có phù hợp với nhu cầu và tình trạng sức khoẻ của mình hay không, từ đó
đưa ra quyết định mua sắm. Đối với cơ quan nhà nước, nhãn hàng hóa là một căn
cứ để thực hiện việc quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh
hàng hóa của doanh nghiệp. Cụ thể, thông tin trên nhãn hàng hoá là căn cứ để
kiểm tra, đối chiếu, nhằm xác định chất lượng, tình trạng của hàng hóa; hay hàng
hóa quá hạn sử dụng không được phép lưu thông trên thị trường[4]...
Trong thương mại quốc tế thời hiện đại, các quy định về
nhãn hàng hoá được ghi nhận cụ thể trong các hiệp định về xuất xứ hàng hoá,
tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp kiểm dịch động thực vật …trong khuôn khổ Tổ
chức thương mại thế giới (WTO), cũng như các hiệp định thương mại tự do song
phương, đa phương giữa các quốc gia. Đặc biệt trong bối cảnh hàng hoá Việt Nam
có cơ hội thâm nhập vào các thị trường "khó tính", tiêu chuẩn cao
(đặc biệt với ngành hàng thực phẩm) như Cộng đồng Châu Âu, Hoa Kỳ, Úc, Nhật Bản,
Hàn Quốc…việc ghi nhận chi tiết và thực thi một cách nghiêm túc các quy định về
nhãn hàng hoá sẽ tạo thuận lợi lớn cho doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng
hoá ra nước ngoài.
Điều 32 Luật Thương mại 2005 quy định: “1. Nhãn hàng hoá là bản viết, bản in, bản vẽ,
bản chụp của chữ, hình vẽ, hình ảnh được dán, in, đính, đúc, chạm, khắc trực
tiếp trên hàng hoá, bao bì thương phẩm của hàng hoá hoặc trên các chất liệu
khác được gắn lên hàng hoá, bao bì thương phẩm của hàng hoá…”. Tên hàng
hoá, thông tin về thành phần và hình ảnh minh hoạ trên bao bì của sản phẩm đều
là bộ phận của nhãn hàng hoá. Việc ghi nhãn hàng hoá là bắt buộc và áp dụng đối
với các hàng hoá lưu thông tại Việt Nam, hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam (khoản
1 Điều 1 Nghị định 43/2017/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định
111/2021/NĐ-CP, sau đây gọi là Nghị định 43/2017 sửa đổi, bổ sung).
Khoản 2 Điều 3 của Nghị định này cũng giải thích:
"Ghi nhãn hàng hoá là thể hiện nội dung cơ bản, cần thiết về hàng hoá lên
nhãn hàng hoá để người tiêu dùng nhận
biết, làm căn cứ lựa chọn, tiêu thụ và sử dụng; để nhà sản xuất, kinh doanh,
thông tin, quảng bá cho hàng hoá của mình và để các cơ quan chức năng thực hiện
việc kiểm tra, kiểm soát." Định nghĩa này nhấn mạnh thông tin cần ghi
trên nhãn phải là thông tin cơ bản, cần thiết và việc ghi nhãn phục vụ cho lợi
ích của NTD, NSX lẫn cơ quan chức năng.
Ngoài ra, việc ghi nhãn hàng hoá còn tuân thủ các quy định trong các bộ
Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN)[5] về nhãn hàng hoá. Theo quy định tại
Phần 2 của TCVN 7078:2013, thì ghi nhãn hàng hoá là "việc sử dụng các hình thức thể hiện như in, viết, vẽ hoặc kỹ thuật đồ
họa để trình bày trên nhãn đi kèm hoặc đính gần thực phẩm để cung cấp thông tin
về thực phẩm đó, kể cả với mục đích tăng cường tiêu thụ hoặc bán hàng".
Ghi nhãn áp dụng cho cả hàng hoá được sản xuất trong nước lẫn hàng hóa được
nhập khẩu từ nước ngoài vào Việt Nam.
1.2. Phân loại nhãn hàng hoá
Theo quy
định tại Điều 3 Nghị định 43/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung thì nhãn hàng hoá được
chia làm hai loại là nhãn gốc và nhãn phụ. Nhãn gốc là nhãn được thể hiện lần
đầu cho NSX gắn trên hàng hoá, bao bì thương phẩm của hàng hoá (khoản 1). Trong
khi đó nhãn phụ là nhãn thể hiện những nội dung được dịch từ ngôn ngữ gốc của
nhãn sang tiếng Việt (khoản 2), hoặc chứa thông tin bắt buộc phải bổ sung bằng
tiếng Việt nếu nhãn gốc còn thiếu. Sự xuất hiện của nhãn phụ bên cạnh nhãn gốc
của hàng hoá đảm xóa bỏ rào cản về ngôn ngữ, bảo quyền của NTD được cung cấp
thông tin minh bạch về sản phẩm, sử dụng sản phẩm đúng cách và phục vụ cho công
tác quản lý thị trường của các cơ quan chức năng.
2. Quy định pháp luật Việt Nam
về nhãn hàng hoá đối với nước ép trái cây
Nghĩa vụ ghi
nhãn hàng hoá trung thực, chính xác đối với các loại thực phẩm của NSX được quy
định tại nhiều văn bản pháp luật. Theo Điều 7 của Luật An toàn thực phẩm 2010,
nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức sản xuất thực phẩm bao gồm: "c) Thông tin đầy đủ, chính xác về sản phẩm
trên nhãn, bao bì, trong tài liệu kèm theo thực phẩm theo quy định của pháp
luật về nhãn hàng hóa." Đối với cá nhân, tổ chức kinh doanh thực phẩm
thì nghĩa vụ này bao gồm "kiểm tra
nguồn gốc, xuất xứ, nhãn thực phẩm" và "thông tin trung thực về an toàn thực phẩm" (điểm b và điểm c
khoản 2 Điều 8).
Bên cạnh đó,
khoản 1 Điều 9 Nghị định số 43/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung cũng nhấn mạnh nghĩa
vụ của các tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm ghi nhãn hàng hoá (kể cả nhãn phụ
đối với trường hợp hàng hoá nhập khẩu)
"…phải bảo đảm ghi nhãn trung thực, rõ ràng, chính xác, phản ánh đúng bản
chất của hàng hóa." Như vậy việc ghi nhãn một cách trung thực, chính
xác là nghĩa vụ của nhà sản xuất, kinh doanh hàng hóa kể cả tổ chức, cá nhân
nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam,
Các nội dung
bắt buộc phải thể hiện trên nhãn hàng hoá được quy định tại khoản 1 Điều 10 của
Nghị định 43/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung bao gồm: Tên hàng hoá, thông tin về tổ
chức, cá nhân chịu trách nhiệm về hàng hoá, xuất xứ hàng hoá, các nội dung bắt
buộc khác phải thể hiện trên nhãn được quy định riêng theo tính chất của mỗi
loại hàng hoá. Riêng đối với hàng hoá là đồ uống (trừ rượu) như nước ép trái
cây[6], tại
Phụ lục 1, các thông tin trên nhãn hàng hoá sẽ bao gồm:
"a) Định lượng;
b) Ngày sản xuất;
c) Hạn sử dụng.
d) Thành phần hoặc thành phần định lượng.
đ) Thông tin cảnh báo.
e) Hướng dẫn sử dụng, hướng dẫn bảo quản."
Đối với hàng
nhập khẩu, công ty nhập khẩu phải thực hiện việc dán nhãn tiếng Việt với đầy đủ
các thông tin như đối với hàng hoá được sản xuất tại Việt Nam.[7] Có
thể thấy quy định ghi tên hàng hoá và thành phần chứa trong sản phẩm là yếu tố
bắt buộc phải xuất hiện trên nhãn hàng hoá, trong khi hình ảnh minh hoạ lại
không phải là yếu tố bắt buộc. Sự khác biệt này phần lớn đến từ loại thông tin
mà chúng phản ánh.
2.1. Tên hàng hoá
Tên hàng hoá
được xem là yếu tố nhận diện chính, phản ánh bản chất của hàng hoá, giúp người
tiêu dùng có thể nhận biết và phân biệt các loại hàng hoá khác nhau. Đồng thời
tên hàng hoá cũng là cơ sở để cơ quan chức năng thực hiện việc quản lý hành
chính, thủ tục xuất nhập khẩu và xử phạt vi phạm hành chính nếu có[8].
Điều 11 Nghị
định 43/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung quy định: Tên hàng hóa phải được đặt ở vị
trí dễ thấy và dễ đọc. Tên hàng hóa ghi trên nhãn do tổ chức, cá nhân sản xuất
hàng hóa tự đặt nhưng không được khiến NTD hiểu sai lệch về bản chất, công dụng
và thành phần của hàng hóa. Ngoài ra, theo quy định tại Mục 4 của TCVN
7087:2013 về Ghi nhãn thực phẩm bao gói sẵn, tên thực phẩm còn phải thoả mãn
điều kiện là:"thể hiện đúng bản chất thực của nó và thường
phải cụ thể và không được trừu tượng".
Cần lưu là
thuật ngữ "nước quả (fruit juice)" được sử dụng tại TCVN 7946:2008 về
nước quả và nectar có nội hàm khác với sản phẩm "nước ép trái cây"
vẫn được sử dụng trên thị trường. Theo Mục 2.1, nhóm nước quả và nectar được
phân thành 6 loại: (i) nước quả (fruit juice), (ii) nước quả cô đặc, (iii) nước
quả trích ly, (iv) puree quả sử dụng trong sản xuất nước quả và nectar, (v)
puree quả cô đặc sử dụng trong sản xuất nước quả và nectar, và (vi) nectar quả.
Theo đó "nước quả (fruit juice)" dùng để chỉ sản phẩm thu được từ
phần ăn được của quả, không lên men, giữ đặc tính mùi vị của loại quả đó. Trong
khi nước ép trái cây ngoài phần dịch quả thì có thể chứa hoặc không chứa nước
và các thành phần khác.
Ngoài ra,
mục 3.8 của TCVN 12828: 2019 về Nước giải khát (fruit beverages) sử dụng tên
gọi "nước giải khát có chứa nước trái cây" cho các sản phẩm "nước giải khát có chứa nước trái cây hoặc
nước trái cây cô đặc với hàm lượng nước trái cây hoặc nước trái cây cô đặc hoàn
nguyên tối thiểu 5,0 % (thể tích)". Thuật ngữ này có bản chất giống
với sản phẩm "nước ép trái cây" trên thị trường hơn vì bao gồm hai
thành phần cơ bản là nước và nước được ép ra từ quả"[9].
Có thể nhận
thấy quy định của Việt Nam về tên nước ép trái cây hiện nay còn chồng chéo và
chưa rõ ràng. Trong khi nước ép trái cây có nhiều loại: nước ép trái cây nguyên
chất (hàm lượng dịch quả là 99-100%), nước trái cây pha loãng (bao gồm dịch quả
và các thành phần khác như nước, đường hoặc siro đường, chất tạo ngọt, hương
liệu, acid…), nước uống có vị hoa quả (hàm lượng dịch quả cực kỳ thấp, chủ yếu
sử dụng hương liệu và chất tạo ngọt để tạo vị hoa quả cho nước uống), nước giải
khát có ga hoặc không ga vị hoa hoa quả (không có chứa dịch quả mà sử dụng
hương liệu)…NSX gặp khó khăn trong lựa chọn tên hàng hoá phù hợp với bản chất
thực của sản phẩm.
Trên thực
tế, có tình trạng các NSX sử dụng tên hàng hoá chưa chính xác, gây hiểu lầm cho
NTD. Trên tổng số 35 nhãn hàng hoá được nghiên cứu[10], tên hàng hoá được ghi trên
nhãn hàng hoá lần lượt như sau: 9 tên hàng hoá có cụm từ "nước ép
100%", 3 sản phẩm ghi rõ tên "nectar", 9 sản phẩm trong tên có
chữ "nước ép…", 1 sản phẩm là "nước uống cô đặc", 7 sản phẩm
có chữ "nước uống vị…" trong tên hàng hoá, 4 sản phẩm chỉ ghi
"nước + tên hoa quả" trên nhãn (Ví dụ: nước đào, nước chanh), 1 sản
phẩm ghi rõ "nước lợi khuẩn" và 1 nhãn ghi "nước uống hoa quả
(juice drink)". Thứ nhất, việc sử dụng tên gọi không thống nhất gây khó
hiểu, nhầm lẫn cho NTD. Thứ hai, một số tên được sử dụng không được quy định
tại luật và các TCVN (nước ép, nước uống). Ngoài ra, tên hàng hoá được sử dụng
không phản ánh đúng bản chất và tình trạng vật lý, phương thức chế biến của
hàng hoá đó. Đặc biệt là NSX sử dụng từ "nước ép" cho tất cả các loại
nước uống giải khát có vị trái cây, dù hàm lượng dịch quả là cực kì ít hoặc
hoàn toàn không có. Có 10 sản phẩm tuy có chữ "nước ép…" trên nhãn
nhưng tỷ lệ dịch quả chỉ từ 5%-40%.
2.2. Thành phần hoặc thành phần định lượng
Thành phần
hoặc thành phần định lượng là "các
nguyên liệu và lượng của mỗi loại nguyên liệu này (kể cả chất phụ gia) dùng để
sản xuất hàng hoá và tồn tại trong sản phẩm khi nó đến tay NTD"[11].
Điều 16 quy định danh sách thành phần được ghi trên nhãn hàng hoá bao gồm tên
của tất cả các nguyên liệu, kể cả chất phụ gia, dùng để sản xuất ra hàng hóa và
tồn tại trong thành phẩm. Trường hợp tên của thành phần được ghi trên nhãn hàng
hóa để gây sự chú ý đối với hàng hóa thì thành phần đó bắt buộc phải ghi định
lượng. Ví dụ "nước giải khát vị cam" thì phải ghi rõ định lượng của
hương cam tổng hợp/tự nhiên hoặc nước ép cam có trong sản phẩm. Còn đối với
trường hợp ghi thành phần định lượng, thì NSX phải ghi thành phần kèm định
lượng của từng thành phần lên nhãn hàng hoá.
Ngoài ra, Bộ
Y tế đã ban hành Thông tư 29/2023/TT-BYT hướng dẫn nội dung, cách ghi thành
phần dinh dưỡng, giá trị dinh dưỡng trên nhãn thực phẩm.[12] Theo đó, thực phẩm được sản
xuất, kinh doanh, nhập khẩu, lưu thông tại Việt Nam phải ghi đầy đủ hàm lượng
kèm với giá trị năng lượng[13] của
các thành phần là năng lượng, chất đạm, carbonhydrat, chất béo, natri (Khoản 1
Điều 5). Đặc biệt đối với nước giải khát như nước ép trái cây, ngoài 5 thành
phần bắt buộc như trên NSX còn phải bổ sung thông tin về đường tổng số (khoản 2
Điều 5). Ngoài ra, Bộ tiêu chuẩn TCVN 7946: 2008 yêu cầu khi sử dụng chất tạo
ngọt thay thế cho đường trong nectar quả và nectar quả hỗn hợp, thì phải công
bố “có chất tạo ngọt”, được gắn liền với tên sản phẩm, hoặc đứng gần với tên
sản phẩm; hàm lượng nước quả trong nectar; bổ sung cacbon dioxit; bổ sung gia
vị; hoặc thành phần "axit ascorbic" và "có bổ sung vitamin
C" tùy theo mục đích sử dụng. Riêng đối với các chất phụ gia phải đáp ứng
theo tiêu chuẩn và được ghi công khai trên nhãn bao bì của hàng hoá (Mục
8.1.2).
Thông tin về
thành phần các chất có trong thực phẩm cực kỳ quan trọng vì NTD có thể biết
được các thành phần này có phù hợp với chế độ ăn uống của họ hay không. Đặc
biệt đối với NTD có nhu cầu dinh dưỡng đặc biệt như dị ứng, tiểu đường, tim
mạch…cần chế độ ăn nghiêm ngặt. Việc ghi chính xác thành phần của sản phẩm nước
ép trái cây nói riêng giúp NTD lựa chọn sản phẩm tốt cho sức khỏe của họ, hạn
chế các bệnh lý liên quan đến đường huyết, thận, xương và thần kinh[14].
Nước ép trái cây là sản phẩm được tiêu thụ liên tục, cho mọi lứa tuổi, nên việc
sử dụng nước quả có hàm lượng đường nhân tạo không được sản xuất từ đường mía
(như đường lỏng si -rô ngô HFCS – một chất tạo ngọt phổ biến trong đồ uống có
đường) cao có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ.
Theo dữ liệu thu được từ
nghiên cứu, 100% các sản phẩm đều có bảng thành phần dinh dưỡng (giá trị dinh
dưỡng trên 01 khẩu phần 100ml hoặc 200ml) và danh sách thành phần trên bao bì,
đặc biệt là thông tin về đường tổng, đường bổ sung, chất tạo ngọt (tự nhiên
hoặc nhân tạo). Tuy nhiên tên các thành phần còn chung chung, như: nước ép táo,
nước ép từ nước ép táo cô đặc, nước ép táo 40%, quả cam…Bên cạnh đó, một số sản
phẩm có thiết kế thông tin thành phần, thành phần định lượng kích thước quá nhỏ
trên tổng diện tích của bao bì, font chữ khó đọc, gây khó khăn cho NTD khi muốn
tìm hiểu. Trong khi tên sản phẩm dù có thể không phản ánh đúng bản chất thực
của sản phẩm nhưng lại được in với kích cỡ chữ lớn, màu sắc sặc sỡ, bắt mắt,
đặt ở vị trí dễ dàng thu hút sự chú ý của khách hàng.
2.3. Hình ảnh minh họa
Hình ảnh
minh hoạ trên bao bì, mặt khác, không phải yếu tố bắt buộc. Bởi chúng chỉ có
chức năng thẩm mỹ, hỗ trợ nhận dạng thương hiệu, kích thích sự tò mò và ý định
mua sắm của NTD. Rất nhiều thương hiệu có thiết kế bao bì tối giản, thậm chí
không sử dụng đến hình ảnh vẫn có thể marketing thành công cho sản phẩm của họ.
Ngoài ra, nếu tên hàng hoá có thể được thống nhất cho toàn bộ các NSX thì việc
yêu cầu sử dụng chung một mẫu bao bì là bất khả thi và không cần thiết. Đối với
nước quả và nectar, TCVN 7946:2008 ghi nhận: "Việc trình bày hình ảnh quả trên nhãn không được gây hiểu nhầm cho
người tiêu dùng" (tiết 8.1.2.8) NSX không sử dụng các hình ảnh trái
cây này để quảng cáo cho loại nước ép trái cây khác, hoặc cho đồ uống hoàn toàn
không có thành phần nước quả hoặc vị của quả.
Trên thực
tế, thế giới đã ghi nhận nhiều vụ việc liên quan đến hình ảnh trên bao bì gây
hiểu nhầm cho NTD về thành phần của sản phẩm. Đơn cử như nước ép cam hiệu
Tropicana tại Nhật Bản đã bị NTD phản đối khi nhãn “100% nước cam” bị xem là
không trung thực vì sử dụng nước cô đặc hoàn nguyên (có thêm nước)[15];
hay sản phẩm bánh ngọt Kellogg’s Pop-Tarts tại Hoa Kỳ bị người tiêu dùng khởi
kiện vì sử dụng bao bì có hình ảnh quả dâu tươi, nhưng "số lượng dâu quá ít ỏi so với kỳ vọng của
khách hàng". Ít đến nỗi không thể tính toán được mức độ đóng góp về
mặt dinh dưỡng, mà chỉ đơn thuần là tạo mùi cho sản phẩm.[16]
Trong 35 sản
phẩm được nghiên cứu, chỉ có 4 loại dùng hình vẽ trái cây trên bao bì, còn lại
đều lấy hình trái cây thật. Mặc dù NTD thường phân biệt các sản phẩm nước ép và
nectar qua mùi vị (nước ép táo, nước ép nho…), nhiều sản phẩm vẫn có hàm lượng
dịch quả rất thấp, thậm chí chỉ dùng hương liệu nhân tạo hoặc tự nhiên. Khi bao
bì in hình trái cây tươi, NTD có thể hiểu thành phần nguyên liệu là trái cây tự
nhiên, nguyên chất, dẫn đến kì vọng sai về chất lượng và thành phần thực sự bên
trong sản phẩm.
Bên cạnh đó,
hiện nay pháp luật Việt Nam cho phép NSX dùng bất kỳ hình vẽ hay hình ảnh nào
để “miêu tả sản phẩm”. Hiểu cách khác, luật cho phép NSX tùy chọn sử dụng hình
ảnh, hình vẽ minh hoạ, miễn là liên quan đến sản phẩm – mùi vị - chứ không bắt
buộc phải in hình nguyên liệu chính lên bao bì. Tuy nhiên, NTD có thói quen
liên tưởng những hình ảnh trên bao bì chính là nguyên liệu thật để làm ra nước
ép trái cây. Sự liên tưởng này có thể bị NSX sử dụng để quảng cáo sản phẩm theo
hướng sai lệch với thành phần thực tế.
Cuối cùng,
việc sử dụng bao bì với hình vẽ minh hoạ ngộ nghĩnh, sặc sỡ có thể được xem là
một yếu tố thu hút trẻ em[17].
Tuy nhiên đây lại là những đối tượng ít trải nghiệm mua sắm và gần như không
quan tâm đến quy trình sản xuất cũng như yếu tố dinh dưỡng của hàng hoá[18]. Sự
yêu thích của trẻ em đối với hình ảnh, màu sắc của hàng hoá đương nhiên sẽ tạo
động lực cho trẻ hỏi và trong nhiều trường hợp, đòi hỏi bố mẹ phải mua cho. Trẻ
càng tỏ ra yêu thích một sản phẩm, thì cha mẹ trẻ càng có khả năng lựa chọn.
Tuy nhiên, cha mẹ là người cuối cùng quyết định mua sắm, nên bên cạnh yếu tố
thiết kế bao bì thì các thông tin trên nhãn hàng hoá cũng đóng vai trò vô cùng
quan trọng.[19]
3. Kinh nghiệm quốc tế về nhãn hàng hoá đối với nước ép trái cây và đề xuất cho Việt Nam
3.1. Pháp luật một số quốc gia về nhãn hàng hoá đối với nước ép trái cây
3.1.1. Hoa Kỳ
Tính đến tháng 04/2025, Hoa Kỳ là quốc gia có lượng tiêu thụ
nước ép trái cây cao nhất thế giới (năm 2023, tổng tiêu thụ nước ép trái cây
của nước này trị giá 26.8 tỷ đô la), sau đó là Hà Lan, Pháp và Đức[20].
Các quy định về ghi nhãn hàng hoá thực phẩm được đưa ra bởi Cục quản lý Thực
phẩm và Dược phẩm hay Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Thuốc Hoa Kỳ (Food and Drug
Administration – FDA hoặc USFDA). Luật Liên bang về thực phẩm, dược phẩm và mỹ
phẩm (Federal food, drug and cosmetic Act – FDCA), Luật về Bao bì và nhãn hàng
(Fair packaging and Labeling Act – FPLA) và một phần của Luật Y tế cung cấp các
cơ sở pháp lý quan trọng, cốt yếu cho ghi nhãn thực phẩm được sản xuất nội địa
cũng như các sản phẩm được nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. FDA quy định các
thông tin về tên hàng hoá, cơ sở sản xuất, nơi xuất xứ, hàm lượng dinh dưỡng,
thành phần có thể gây dị ứng, các chất hoá học hoặc điều vị được sử dụng…phải
được ghi tại mặt trước của bao bì sản phẩm. Đối với sản phẩm nhập khẩu bao bì
dùng tiếng nước ngoài, đơn vị nhập khẩu bắt buộc phải dán nhãn tiếng Anh cho
các thông tin trên.
Riêng đối với nước ép trái cây, tất cả các bao bì đều phải
ghi rõ phần trăm hàm lượng của dịch quả chứa trong sản phẩm đó. Quy định này
bao gồm cả các từ ngữ sử dụng trên bao bì (label statements), hình ảnh của trái
cây hay rau củ, hoặc bất cứ một yếu tố nào tạo kỳ vọng cho NTD về hàm lượng
nước trái cây trong đồ uống đó. Nước ép trái cây được phân loại thành:
- Nước ép 100%, nước ép cô đặc: được phép sử dụng từ
"juice" trong tên hàng hoá.
- Đồ uống có chứa hàm lượng dịch quả ít hơn 100%: phải sử
dụng các từ như "nước uống hoa quả", "nước hoa quả" trong
tên sản phẩm để phân biệt.
- Nước trái cây hoàn nguyên từ nước ép cô đặc: phải ghi rõ
cụm từ "từ nước cô đặc" hoặc "pha loãng với nước" trên tên
hàng hoá.
- Đồ uống có hương vị hoa quả nhưng không chứa dịch quả,
hoặc hàm lượng dịch quả quá ít: Trong tên của hàng hoá không được phép sử dụng
từ "nước ép" mà phải ghi rõ cụm từ "nước uống vị…". Nước ép
chỉ được phép ghi trong bảng thành phần, ví dụ 1% nước ép táo.
Tuy nhiên, về hình ảnh minh hoạ trên bao bì, FDA lại không
có quy định cụ thể ngoài quy định chung là thông tin trên bao bì không được
phép gây hiểu lầm (misbranded) cho NTD về chất lượng, thành phần của hàng hoá.
Và nếu vi phạm, cá nhân hoặc doanh nghiệp phải đối mặt với mức phạt 100.000 đô
la Mỹ hoặc 01 năm tù (đối với cá nhân), 200.000 đô la Mỹ (đối với tổ
chức).
3.1.2. Nhật Bản
Theo một thống kê từ năm 2022, số lượng tiêu thụ nước ép
nguyên chất luôn chiếm tỷ lệ cao tại Nhật Bản so với các loại nước uống giải
khát khác (soft drink)[21]. Lý
do được cho là dân số Nhật Bản đa số là người trung niên và họ có ý thức chăm
sóc sức khỏe cao, thích vận động và chế độ ăn uống lành mạnh.
Nhật Bản là một trong những quốc gia có quy định cực kỳ chặt
chẽ về thông tin trên bao bì sản phẩm như là một phần trong chính sách bảo đảm
chế độ ăn uống lành mạnh và hạn chế tình trạng dị ứng thực phẩm.[22] Đạo
luật về Vệ sinh thực phẩm (Food Sanitation Act) yêu cầu các sản phẩm thực phẩm
đóng gói khi nhập khẩu vào Nhật Bản phải đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn như đối
với sản phẩm nội địa, bao gồm việc ghi nhãn hàng hoá bằng tiếng Nhật. Quy định
này đảm bảo sự thuận tiện cho NTD trong việc lựa chọn hàng hoá phù hợp, đồng
thời đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh và tính bền vững của thị trường nội địa.
Ghi nhãn hàng hoá được ghi nhận tại Luật Ghi
nhãn thực phẩm số 77/2013[23],
cụ thể Điều 4 yêu cầu các NSX phải dán nhãn thực phẩm có chứa các thông tin cần
thiết để NTD có thể tiêu thụ một cách an toàn và đưa ra những lựa chọn hợp lý
liên quan đến loại thực phẩm đó. Những thông tin phải được ghi bao gồm: Tên
hàng hoá, các chất có khả năng gây dị ứng, phương pháp bảo quản, ngày hết hạn,
thành phần (bao gồm chất phụ gia nếu có), thành phần dinh dưỡng và calo, nơi
xuất xứ,
Về tên hàng hoá, hầu như các loại nước ép trái
cây ở Nhật Bản đều được gọi là "ジュース" (nước ép trái cây). Tuy nhiên theo hướng
dẫn tại Quy định cạnh tranh công bằng và Quy định thực thi về nhãn đồ uống trái
cây (果実飲料等の表示に関する公正競争規約及び施行規則) do Hội đồng Cạnh tranh công
bằng nhãn hiệu và Hiệp hội Đồ uống Nhật Bản ban hành, việc đặt tên đối với nước
ép trái cây vô cùng cụ thể, bao gồm:
- Nước ép hoa quả (ジュース) chỉ được sử dụng cho nước ép trái cây nguyên
chất 100%, hoặc gần 100% với một lượng cực nhỏ (dưới 5%) đường, mật ong…
-
Nước uống trái cây (果汁入り飲料) được sử dụng cho
loại đồ uống chứa hơn 10% nhưng ít hơn 100% nước dịch quả. Đồ uống loại này
không được dán nhãn là Nước ép trái cây, mà phải ghi là Nước trái cây.
-
Các loại đồ uống khác (その他の飲料) có hàm lượng dịch
quả dưới 10% được phân loại là đồ uống khác, không được phép sử dụng cụm từ
Nước ép trong tên hàng hoá. Đặc biệt, hàm lượng nước ép dưới 5% phải ghi là
Nước giải khát (清涼飲料) và không được phép
để tên loại trái cây trong tên gọi của hàng hoá.
Về
thành phần nước ép, Nhật Bản cũng yêu cầu dán nhãn bằng kí hiệu hình ảnh đối
với 08 loại thành phần có khả năng gây dị ứng cao là tôm, cua, lúa mạch, kiều
mạch, trứng, sữa, hạt óc chó và đậu phộng. Ngoài ra còn 20 loại thành phần có
khả năng gây dị ứng (đậu nành, gà, vừng…) được khuyến khích ghi rõ trên bao bì.
Quy định dùng hình ảnh minh hoạ cho dị nguyên gây dị ứng góp phần tạo điều kiện
cho NTD dễ dàng nhận ra thực phẩm nào có khả năng gây nguy hiểm cho sức khỏe
của họ, dù họ có thể không đọc được chữ trên bao bì.
Bên cạnh đó, quy định về hình ảnh trên bao bì
cũng được quy định rất chặt chẽ. Điều 1(i) của Đạo luật Chống lại các khoản phí
không chính đáng và tuyên bố gây hiểu lầm[24] nghiêm
cấm các doanh nhân đưa ra các tuyên bố về chất lượng của sản phẩm tốt hơn nhiều
so với hàng hoá thực tế nhằm lôi kéo khách hàng. Điều 4 của Quy định cạnh tranh công bằng và Quy định thực thi
về nhãn đồ uống trái cây hướng dẫn thi hành Điều 6 của Đạo luật Chống lại các
khoản phí không chính đáng và các khoản phí gây hiểu lầm như sau: (i)
Nếu sản phẩm có chứa dịch quả ít hơn 5%, NSX không được phép sử dụng hình ảnh
hoa quả thật trên bao bì của sản phẩm. Với nước ép trái cây có hàm lượng dịch
quả từ 5% đến dưới 100%, NSX có thể sử dụng hình ảnh thật của hoa quả nhưng
không được phép sử dụng mặt cắt bên trong của trái cây. Chỉ có nước ép nguyên
chất 100% mới được phép sử dụng hình ảnh mặt cắt bên trong của trái cây thật.
Từ đó, NTD có thể biết chắc chắn hàm lượng dịch quả trong sản phẩm và lựa chọn
hàng hoá phù hợp với nhu cầu của họ. Dưới đây là hình ảnh minh hoạ cho quy định
về hình ảnh minh hoạ trên bao bì của 2 sản phẩm: nước ép cam Tropicana (của
hãng Coca-Cola) và nước uống vị cam Natchan (của Suntory) [25]:
Như vậy, Nhật Bản có quy
định rất chặt chẽ và thống nhất giữa tên gọi của hàng hoá và hình ảnh minh hoạ
của hàng hoá. Khác với Việt Nam, hình ảnh minh hoạ của hàng hoá cực kỳ quan
trọng trong sản xuất của người Nhật và được điều chỉnh chặt chẽ bởi văn bản
pháp luật cụ thể. Hình ảnh minh hoạ giúp NTD có thể dễ dàng nhận ra loại sản
phẩm họ mong muốn mà không cần phải đọc tên hàng hoá. Điều này rất thuận tiện
cho NTD là người lớn tuổi, người gặp vấn đề về thị giác (cận thị, hội chứng khó
đọc dyslexia) hoặc người không biết chữ.
3.1.3. Đức
Đức
cũng là một quốc gia có quy định rất cụ thể về ghi nhãn hàng hoá đối với nước
ép trái cây. Các quy định này được ghi nhận tại "Quy định về nước ép trái
cây, mật hoa trái cây và đồ uống có ga chứa caffein"[28] (FrSaftErfrischGetrV). Văn
bản này được xây dựng trên cơ sở nội luật hoá các quy định của Liên minh Châu
Âu về ghi nhãn hàng hoá, trong đó có Chỉ thị số 2001/112/EC của Cộng đồng Châu
Âu về nước ép trái cây và các sản phẩm tương tự cho con người[29] và
Quy định số 1169/2011 của Quốc hội và Hội đồng châu Âu về các điều khoản về
thông tin hàng hóa cung cấp cho người tiêu dùng (chính thức có hiệu lực vào
ngày 13/12/2014).
Về
tên gọi, Điều 3 của FrSaftErfrischGetrV – dựa trên Điều 1 Phụ trương 1 của Chỉ
thị 2001/112/EC - quy định: Tên hàng hoá phải phản ánh chính xác hàm lượng của
nước ép. Nước ép (Saft) chỉ được dùng cho nước ép nguyên chất. Ví dụ nước ép
táo (Apfelsaft) sẽ chỉ được sử dụng cho nước ép 100% từ táo. Nectar
("Nektar") sẽ được dùng để đặt tên cho nectar tuy nhiên phải đáp ứng
hàm lượng tối thiểu cho từng loại quả (nectar đào, mơ là trên 25%, nectar táo,
lê là trên 50%)[30].
Nếu sản phẩm được hoàn nguyên từ nước ép cô đặc thì phải thêm cụm từ "aus
Fruchtsaftkonzentrat" (từ nước ép cô đặc). Đối với nước uống có hàm lượng
trái cây ép thấp, thì chỉ được dùng cụm từ "Fruchtsaftgetränk"(fruit
juice drink), tức là "nước uống hoa quả".
Về
hình ảnh trên bao bì, Quy định số 1169/2011 của Liên minh châu Âu cho phép sử
dụng hình ảnh của trái cây trên bao bì nước uống nếu có chứa trên 50% khối
lượng tạo hương vị từ trái cây được minh hoạ. Tuy nhiên, khác với Nhật Bản, 50%
này sẽ bao gồm cả hàm lượng nước ép nguyên chất lẫn chất tạo mùi vị (food
flavourings), miễn là không gây nhầm lẫn cho NTD về hương vị của sản phẩm. Nói
cách khác, hình ảnh trái cây minh hoạ trên sản phẩm chỉ cần phản ánh đúng hương
vị của sản phẩm đó.
3.1.4. Singapore
Quy định về nhãn hàng
hoá dành cho nước ép trái cây được chính phủ Singapore quy định tại Đạo luật
mua bán thực phẩm (Sale of Food Act, SFA) và Quy định về thực phẩm (Food
Regulations – Cap.283) do Cơ quan quản lý thực phẩm Singapore (Singapore Food
Agency) ban hành. Nhãn hàng hoá được SFA giải thích bao gồm các tem, nhãn hiệu,
từ ngữ, hình ảnh, sơ đồ, được đính kèm, in lên, trình bày dưới bất cứ hình thức
nào khác trên bao bì thương phẩm của hàng hoá. Nội dung bắt buộc phải ghi trên
nhãn chứa đựng các thông tin cơ bản về hàng hoá như xuất xứ hàng hoá, bản chất
hàng hoá, thành phần và
nguyên liệu, số lượng cũng như chất lượng của hàng hoá. Các thông tin này bắt
buộc phải phản ánh chính xác bản chất của hàng hoá, không được sử dụng với mục
đích gây hiểu lầm, gây nhầm lẫn về hàng hoá.
Về tên của hàng hoá, Mục
56(1) của Chương 283 Đạo luật mua bán thực phẩm quy định tên của hàng hoá đối
với các loại nước ép trái cây và nước uống trái cây khác như sau:
- Điều 171: Nước trái
cây (Fruit juices): là nước chiết xuất không lên men từ
trái cây chín mọng và tươi, không bổ sung đường, chất bảo quản, chất tạo ngọt, màu thực phẩm, chất bảo quản và acid. Nước trái cây hoàn
nguyên từ nước ép cô đặc cũng được xem là nước ép.
- Điều 173: Nước nectar
(Nectar) là nước ép không lên men, hàm lượng dịch quả có trong nectar nằm trong
khoảng 25%,50% - dưới 100% tuỳ theo loại trái cây. Ví dụ, nectar chanh phải
chứa 50% dịch quả, nectar đào và lê có 40% dịch quả, mơ là 35% và các loại quả
khác là 25%.
- Điều 174: Nước uống vị hoa quả không cồn, si-rô hoa quả
đặc không cồn (Fruit cordials, squashes, or syrups): được sử dụng cho các nước
ép trái cây có chứa dịch quả, đường và nước, có thể thêm các loại acid, chất ổn
định, chất điều vị, màu thực phẩm và các chất bảo quản. Đây là loại nước uống
có chứa dưới 15% dịch quả nguyên chất và dưới 25% đường.
- Điều 175: Fruit drinks
or fruit crushes sử dụng cho các loại nước uống có chứa hàm lượng nhỏ dịch quả
và có thể tiêu thụ trực tiếp mà không cần hòa thêm nước.
Như vậy quy định về tên
gọi các loại nước ép trái cây của Singapore rất chặt chẽ, được phân chia dựa
trên hàm lượng dịch quả và các chất bổ sung chứa trong thành phẩm. Số lượng sản
phẩm cũng nhiều hơn so với các quốc gia trên. Tuy nhiên vì Singapore không có
quy định riêng về hình ảnh minh hoạ trên bao bì sản phẩm, thay vào đó là cấm
các hành vi không tuân thủ việc dán nhãn hàng hoá, hoặc ghi thông tin sai lệch,
tuyên bố sai lệch về chất lượng sản phẩm ("misleading claims for food
products") và hình phạt có thể lên tới 5.000 đô-la Singapore và 3 tháng tù
giam. Do đó chưa có cơ sở để xác định việc sử dụng hình ảnh minh hoạ với mục
đích gây nhầm lẫn cho NTD về hàm lượng nước ép có được xem là vi phạm các quy
định của SFA hay không.
3.2. Đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nhãn
hàng hoá đối với nước ép trái cây
Việt Nam có
thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc nhiều kinh nghiệm quan trọng từ Hoa Kỳ,
Nhật Bản, Đức và Singapore trong việc xây dựng các quy định về ghi nhãn hàng
hoá đối với nước ép trái cây. Các quy định này bao gồm thống nhất cách đặt tên
hàng hoá dựa trên tiêu chí về hàm lượng dịch quả chứa trong sản phẩm, đến hình
ảnh minh hoạ được sử dụng trên bao bì. Một số đề xuất dành cho Việt Nam bao
gồm:
Một là,
cần xây dựng mục lục hoàn chỉnh cho tên hàng hoá và hình minh hoạ trên bao bì
của hàng hoá. Hiện nay các quy định này của Việt Nam còn tương đối chung chung,
được xây dựng chủ yếu dựa trên CODEX. Trong khi đó, hàm lượng của dịch quả
trong các loại nước uống có vai trò quyết định đến chất lượng và công dụng của
từng loại. Do đó, các quy chuẩn CODEX cần được cụ thể hoá bằng việc ban hành
các văn bản hướng dẫn chi tiết thống nhất cho riêng sản phẩm nước ép trái cây
với bảng phân loại cụ thể hơn.
Dưới đây là
một số đề xuất phân loại mang tính tham khảo từ Hoa Kỳ và Đức:
- Nước ép
100%: được sử dụng cụm từ "nước ép" (juice) trong tên gọi hàng hoá.
- Nectar có
hàm lượng dịch quả từ 25-dưới 100% tuỳ theo loại trái cây.
- Nước uống
hoa quả: có hàm lượng dịch quả từ 5%- 25%, bắt buộc phải đi kèm với từ
"nước uống", "drink") trong tên của hàng hoá để phân biệt
với nước ép nguyên chất 100%. Ví dụ: nước đào, nước cam.
- Tên
"đồ uống vị trái cây" dành cho các sản phẩm có hàm lượng dịch quả
dưới 5% hoặc hoàn toàn không chứa dịch quả tự nhiên.
Bên cạnh đó,
các đồ uống có chứa đường phải thêm dòng chữ "Có đường" (added sugar)
để tăng cường khả năng nhận diện của nước ép 100% so với các loại nước uống hoa
quả khác. Cũng dễ dàng cho NTD có vấn đề về sức khỏe (tiểu đường, béo phì, rối
loạn chuyển hoá…) lựa chọn sản phẩm phù hợp. Các thông tin về thành phần nguyên
liệu – đặc biệt là hàm lượng dịch quả chứa trong nước uống – phải được in với
font và cỡ chữ dễ đọc, đặt ở vị trí dễ nhận diện trong bao bì, và quan trọng
nhất là có định lượng cụ thể. Ví dụ, hàm lượng táo ép: 50%).
Hai là,
bắt buộc về hình ảnh minh hoạ sử dụng trên bao bì thương phẩm phải phản ánh
đúng bản chất của sản phẩm. Thứ nhất, các quy định hiện hành về hình ảnh minh
hoạ trên bao bì còn mang tính chung chung, được điều chỉnh với tư cách là một
bộ phận của nhãn hàng hoá. Thứ hai, yêu cầu về thông tin không được gây hiểu
nhầm về bản chất của hàng hoá chưa được quy định một cách minh thị. Đối với sản
phẩm nước ép trái cây, bản chất của hàng hoá phải gắn liền với thành phần, công
năng và giá trị dinh dưỡng của sản phẩm đó: là
nước chứa dịch quả, được tiêu thụ bởi con người. Chứ không chỉ đơn thuần là
nước uống đó có mùi vị của trái cây như cách hiểu phổ biến hiện nay. Nói cách
khác, hành vi "thông tin không chính xác, gây nhầm lẫn" chỉ tập trung
vào sự nhất quán giữa tên loại trái cây có trong tên hàng hoá và hình ảnh minh
hoạ là chưa phản ánh toàn diện mối quan hệ giữa nhãn hàng hoá và bản chất thực
của hàng hoá.
Do đó, cần
bổ sung quy định về hình ảnh minh hoạ trên bao bì thương phẩm của hàng hoá theo
hướng: Hình ảnh minh hoạ phải phản ánh chính xác bản chất của hàng hoá (là nước
ép, nectar, nước uống hoa quả hay đồ uống vị hoa quả). Đi kèm là quy định về
mức độ chân thực của dịch quả được sử dụng thông qua quy ước về hình ảnh thật
của trái cây trên bao bì. Việc học hỏi quy định của Nhật Bản về khi nào NSX
được sử dụng hình ảnh trái cây thật, hoặc trái cây minh hoạ, hoặc hoàn toàn
không được sử dụng hình ảnh trái cây là một hướng tham khảo hợp lý cho Việt
Nam.
Ba
là, đảm bảo sự minh bạch và trung thực
trong cung cấp thông tin sản phẩm trên nhãn hàng hoá. Có thể thấy đối với các
sản phẩm nhập khẩu, NSX thông thường tuân thủ nghiêm túc hai hệ thống quy định
về ghi nhãn hàng hoá: quy định tại nước của NSX và quy định của Việt Nam – thị
trường xuất khẩu. Quá trình thông quan hàng hoá cũng góp phần kiểm soát tốt hơn
đối với việc tuân thủ này. Tuy nhiên, sản xuất trong nước – đặc biệt với các cơ
sở sản xuất nhỏ lẻ, các đơn vị gia công hàng hoá theo thiết kế sẵn (Original
Equipment Manufacturer, OEM)– thì hiểu biết về các quy định của pháp luật cũng
như khả năng tuân thủ còn bỏ ngỏ. Đơn cử như trong sản xuất OEM, các phôi hàng
hóa được các xưởng, nhà máy nhỏ sản xuất sẵn theo nhiều cấp độ chất lượng với
các mức giá thành khác nhau, đa phần là thấp do không có bộ phận quản lý chất
lượng hay nghiên cứu thị trường, sản xuất theo xu hướng (trend). Bên mua đặt
thương hiệu gì, yêu cầu in ấn như thế nào thì NSX chỉ cần dập nhãn mác thông số
lên. Tính chính xác trong thông tin về hàng hoá không được quan tâm và tuân thủ
bởi NSX không có vai trò quyết định cũng như kiểm soát về nhãn mác. Để ngăn
chặn hiện tượng này, cần tăng cường giáo dục ý thức pháp luật trong cộng đồng
NSX. Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện nghiêm túc công
tác thanh tra, kiểm tra ở các cơ sở sản xuất nước uống, nước giải khát cũng như
các cơ sở phân phối hàng hoá (chợ, siêu thị, cửa hàng tiện lợi…) nhằm đảm bảo
thông tin trên bao bì là chính xác, kịp thời xử lý các hành vi vi phạm.
Bốn là,
bắt buộc các NSX phải công bố bản công bố sản phẩm (bao gồm Tên sản phẩm, thành
phần, chỉ tiêu chất lượng chủ yếu, quy cách đóng gói và bao bì…) trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Căn cứ khoản 2 và khoản 4 Điều 5 Nghị định
15/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực
phẩm, khoản 2 Điều 1 và khoản 1 Điều 3 Nghị định 155/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số quy định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của Bộ Y tế thì việc tự công bố sản phẩm được thực hiện theo
trình tự như sau:
"Tổ chức, cá nhân tự công bố sản phẩm trên phương tiện
thông tin đại chúng hoặc trang thông tin điện tử của mình hoặc niêm yết công
khai tại trụ sở của tổ chức, cá nhân và công bố trên Hệ thống thông tin dữ liệu
cập nhật về an toàn thực phẩm…"
Tuy nhiên
không phải tất cả NTD đều có điều kiện đến trực tiếp trụ sở của NSX để đối
chiếu tính xác thực của nhãn hàng hoá so với thông tin NSX tự công bố và được
chứng nhận bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cũng như diện tích in ấn trên
bao bì thương phẩm tương đối hạn chế, không thể thể hiện hết tất cả các thông
tin về sản phẩm. Bên cạnh đó, hiện tượng NSX quảng cáo sản phẩm sai thông tin
công bố ngày càng trở nên phổ biến, gây hoang mang trong dư luận và ảnh hưởng
nghiêm trọng đến quyền lợi của NTD. Để tạo điều kiện cho người NTD truy cập các
thông tin tự công bố sản phẩm, nhà nước cần ban hành quy định về nghĩa vụ cung
cấp thông tin bắt buộc của NSX thông qua chuyển đổi số, bao gồm: (i) thực hiện
gắn mã QR truy xuất nguồn gốc (nơi sản xuất, thông tin về nguyên liệu, thành
phần, giá trị dinh dưỡng…), và (ii) Cập nhật thông tin qua nền tảng số (website
của NSX, trên các sàn thương mại điện tử) để NTD dễ dàng tiếp cận thông tin,
vừa tăng sự minh bạch hóa thông tin vừa tạo niềm tin giữa NSX và NTD.
Năm là,
xây dựng văn hoá tiêu dùng thông minh. Một nhân tố vô cùng quan trọng trong
việc bảo vệ quyền lợi NTD và cạnh tranh lành mạnh chính là bản thân NTD. Trong
nhiều trường hợp, NTD tin vào quảng cáo, không tìm hiểu kỹ về thành phần sản
phẩm, phó mặc sự may rủi vào các giao dịch qua sàn thương mại điện tử…Khi bị
"nhầm lẫn", mua sai sản phẩm, NTD cũng dễ dàng bỏ qua, thậm chí chấp
nhận mua lại sản phẩm vì giá thành quá rẻ. Do đó, cơ quan nhà nước cần phát
động các chiến dịch về văn hoá tiêu dùng thông minh, hình thành thói quen cho
NTD trong chủ động tìm hiểu thông tin, đọc và hiểu nhãn mác, đánh giá và ra
quyết định mua sắm dựa trên thông tin đầy đủ, khách quan, nhằm tối ưu lợi ích
kinh tế, sức khỏe và tính bền vững.
4. Kết luận:
Kinh nghiệm từ các quốc gia tiên tiến như Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản và Singapore cho thấy khi thông tin về tên hàng hoá, thành phần được công khai trung thực, rõ ràng, NTD có cơ sở để lựa chọn sản phẩm phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng và tình trạng sức khỏe của mình. Từ thực tiễn của các quốc gia này, Việt Nam có thể tham khảo một số giải pháp quan trọng như: xây dựng danh mục cụ thể cho tên các loại nước ép trái cây trên cơ sở hàm lượng nước ép trái cây và tỷ lệ nước, đường, các chất bổ sung; đặt tên hàng hoá và sử dụng hình ảnh minh hoạ được quy định phù hợp với bản chất của hàng hoá. Đồng thời, cần xây dựng quy định bắt buộc các NSX sử dụng công nghệ số để công khai thông tin hàng hoá đến với NTD, tạo điều kiện thuận lợi cho NTD tự kiểm tra về tính chính xác của nhãn hàng hoá. Cuối cùng, về lâu dài cần xây dựng văn hoá tiêu dùng thông minh, trong đó nhấn mạnh thói quen chủ động tìm hiểu, kiểm chứng thông tin về hàng hoá của NTD, góp phần xây dựng thị trường cạnh tranh công bằng và sức khoẻ của thế hệ người Việt trong tương lai.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Adler JH, ‘Compelled Commercial Speech and the Consumer Right to
Know’ (2016) 58 Arizona Law Review. 2. Akiyama H, Imai T and Ebisawa M, ‘Chapter 4 - Japan Food Allergen
Labeling Regulation—History and Evaluation’ in Steve L Taylor (ed), Advances in Food and Nutrition Research,
vol 62 (Academic Press 2011). 3. Azad N, Rafiee M and Hamdavipour L, ‘The Role of Children’s Food
Packaging Characteristics on Parent’s Purchasing Decision’ (2012) 2 Management
Science Letters. 4. Chang S and Naeim F, ‘Visual Design and Consumer Psychology of
Children’s Food Packaging in China’ (2023) 13 International Journal of Academic
Research in Business and Social Sciences. 5. Degnan FH, ‘The Food Label and the Right-to-Know’ (1997) 52 Food
and Drug Law Journal. 6. Letona P and others, ‘A Qualitative Study of Children’s Snack Food
Packaging Perceptions and Preferences’ (2014) 14 BMC Public Health. 7. Lyons J and Rumore M, ‘Food Labeling--Then and Now’ (1993) 2
Journal of Pharmacy & Law. 8. Nauheim D, ‘Food Labeling and the Consumer’s Right to Know: Give
the People What They Want’ (2015) 4 Liberty University Law Review. 9. Petty RD, ‘From Label to Trademark’ (2012) 4 Journal of Historical
Research in Marketing. 10. Vallance K and others, ‘“We Have a Right to Know”: Exploring Consumer Opinions on Content, Design and Acceptability of Enhanced Alcohol Labels’ (2018) 53 Alcohol and Alcoholism (Oxford, Oxfordshire)
* Tiến sĩ,
Email: vanpmt@due.edu.vn, ngày duyệt
bài 28/10/2025
[1] Jean Lyons & Martha Rumore, Food Labeling--Then and Now, 2 J. Pharm. Law 171 (1993); Ross D. Petty,
From Label to Trademark, 4 J. Hist. Res. Mark. 129 (2012); Legislation, 21 Vanderbilt Law Rev. 761 (1967).
[2] Jonathan H. Adler, Compelled Commercial Speech and the Consumer Right to Know, 58
ARIZ. L. REV. 421 (2016); Steve Keane, Can a Consumer's Right to Know Survive the
WTO: The Case of Food Labeling, 16 TRANSNAT'L L. & CONTEMP. PROBS. 291
(2006-2007); Nguyễn Thị Thu Thảo, Thực
hiện quyền được thông tin của người tiêu dùng trong lĩnh vực thực phẩm thông
qua quy định về dán nhãn thực phẩm biến đổi gen – Kinh nghiệm của Liên minh
Châu Âu và bài học cho Việt Nam, TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ, 10 (182) (2024).
[3] Khoản 2 Điều 4 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng 2023.
[4] Phạm Kim Hoàn, Xử lý gian lận xuất xứ hàng hóa theo quy định của pháp luật hành chính
Việt Nam, TẠP CHÍ KHOA HỌC KIỂM SÁT, 4 (76) (2024).
[5] Các TCVN do Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam
(thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng) và các bộ, ngành tổ chức xây
dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố. TCVN không phải là văn bản pháp luật,
mà là tổng hợp tiêu chuẩn có tính tham khảo nhằm phân loại, đánh giá sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ…cũng như các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của chúng.
[6] Trong bài báo này, cụm từ "nước ép trái
cây" được sử dụng để chỉ nước uống có chứa nước quả thu được từ phần ăn
được của quả, hoà loãng với nước, đường và các phụ gia khác (nếu có). Cụm từ
"dịch quả" là phần chất lỏng thu được từ quả sau các quá trình như
ép, nghiền, chà, lọc. Dịch quả có thể đục hoặc trong khi lọc bỏ cặn, là nguyên
liệu bán thành phẩm, có thể hoặc chưa thể sử dụng trực tiếp.
[7] Khoản 4 Điều 9 Nghị định 43/2017/NĐ-CP sửa đổi,
bổ sung.
[8] Ví dụ Thông tư số 33/2023/TT-BTC ngày 31 tháng
5 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định Đơn đề nghị xác định trước xuất
xứ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, tại mục D "Hàng hoá đề nghị xác định
trước xuất xứ", tổ chức, cá nhân đề nghị phải liệt kê 1. Mô tả hàng hoá và
2. Mã số HS được quy định cho từng mặt hàng cụ thể (Mã 2009: Các loại nước ép
trái cây và nước rau ép, chưa lên men và chưa pha thêm rượu, đã hoặc chưa pha
thêm đường hoặc chất tạo ngọt).
[9] Nước giải khát được định nghĩa tại Khoản 3.1.
TCVN 12828:2019 là "Sản phẩm pha sẵn để uống với mục đích giải khát, được
chế biến từ nước, có thể chứa đường, phụ gia thực phẩm, hương liệu, có thể bổ sung các thành phần nguyên liệu
có nguồn gốc tự nhiên, vitamin và khoáng chất, có ga hoặc không có ga."
[10] Đối với các loại nước ép trái cây không được
phân phối tại các hệ thống siêu thị, tác giả dựa vào các thông tin được công bố
trên website của nhà sản xuất/nhà phân phối và hình ảnh về sản phẩm trên các
sản thương mại điện tử (Shopee, Lazada, Tiki, Tiktokshop). Dữ liệu được thu
thập bao gồm: hãng sản xuất (brand), tên hàng hoá, thành phần định lượng (tập
trung vào hàm lượng dịch quả trong sản phẩm) và hình ảnh, hình vẽ minh họa trên bao bì. Tên các sản phẩm
và NSX được mã hoá nhằm đảm bảo tính bảo mật.
[11] Khoản 12, 13 Điều 3 Nghị định 43/2017/NĐ-CP sửa
đổi, bổ sung.
[12] Chậm nhất đến 31/12/2025, tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh, nhập khẩu thực phẩm để lưu thông tại Việt Nam phải thực hiện
ghi thành phần dinh dưỡng trên nhãn thực phẩm theo quy định tại Thông tư này.
[13] Giá trị năng lượng được tính bằng kcal, g, hoặc
mg tùy theo
từng loại thực phẩm. Theo Điều 6 Thông tư
29/2023/TT-BYT.
[14] Theo thuyết minh của Bộ Tài chính tại Hồ sơ dự
thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (tháng 06/2025) tại địa chỉ:
https://duthaoonline.quochoi.vn/dt/luat-thue-tieu-thu-dac-biet-sua-doi/E3829D1F936D.
[15] Tropicana’s
Japanese Licensee in Hot Juice for Cartons That Boast “100% Melon Taste” -
Japan Today,
https://japantoday.com/category/business/tropicana%E2%80%99s-japanese-licensee-in-hot-juice-for-cartons-that-boast-'100-melon-taste'-2
(cập nhật 03/2025).
[16] A. B. C. News, New York Woman Sues Kellogg’s for $5 Million over Frosted Strawberry
Pop-Tarts, ABC News,
https://abcnews.go.com/Business/york-woman-sues-kelloggs-million-frosted-strawberry-pop/story?id=80812161
(cập nhật 05/2025).
[17] Paola Letona et al., A Qualitative Study of Children’s Snack Food Packaging Perceptions and
Preferences, 14 BMC Public Health
1274 (2014).
[18] Su Chang & Fauzi Naeim, Visual Design and Consumer Psychology of
Children’s Food Packaging in China, 13 Int.
J. Acad. Res. Bus. Soc. Sci. trang 145 (2023).
[19] Naser Azad, Mojtaba Rafiee & Leila
Hamdavipour, The Role of Children’s Food
Packaging Characteristics on Parent’s Purchasing Decision, 2 Manag. Sci. Lett. 827, trang 831 (2012).
[20] Global:
Juices Market Revenue by Country 2024, Statista,
https://www.statista.com/forecasts/758678/revenue-of-the-juices-market-worldwide-by-country
(cập nhật 05/2025).
[21] Japan:
Fruit Juice Consumption Index, Statista,
https://www.statista.com/statistics/654176/japan-consumption-index-fruit-juice/
(cập nhật 05/2025).
[22] Hiroshi Akiyama, Takanori Imai & Motohiro
Ebisawa, Chapter 4 - Japan Food Allergen
Labeling Regulation—History and Evaluation, 62 in Advances in Food and
Nutrition Research 139 (Steve L. Taylor ed., 2011).
[23] Luật Ghi nhãn Thực phẩm (食品表示法,
Shokuhin Hyōji Hō) – Luật số 77/2013, ban hành ngày 13/6/2013 và có hiệu lực từ
1/4/2015. Luật này quy định bắt buộc về nội dung nhãn thực phẩm, bao gồm tên
sản phẩm, danh sách thành phần, khối lượng tịnh, hướng dẫn bảo quản, hạn sử
dụng, …
[24] Đạo luật Chống các khoản phí không chính đáng
và các tuyên bố gây hiểu lầm (Act against Unjustifiable Premiums and Misleading
Representations). Đạo luật này được chính thức ban hành vào năm 2009, sau đó
sửa đổi bổ sung hai lần vào năm 2014. Lần sửa đổi năm 2016, Cơ quan bảo vệ
người tiêu dùng Nhật Bản đã đưa vào các biện pháp phạt tiền đối với các cá
nhân, tổ chức có hành vi vi phạm Đạo luật này.
[28] Verordnung über Fruchtsaft, Fruchtnektar und
koffeinhaltige Erfrischungsgetränke (Fruchtsaft- und
Erfrischungsgetränkeverordnung - FrSaftErfrischGetrV)
[29] Council Directive 2001/112/EC relating to fruit
juices and certain similar products intended for human consumption, sửa đổi bổ
sung bởi Chỉ thị số 2012/12/EU (Directive 2012/12/EU) của Quốc hội Châu Âu vào
ngày 19/04/2012.
(PLPT) - Đại lý hải quan tại Việt Nam hiện mới dừng ở dịch vụ khai thuê, chưa phát huy vai trò “cánh tay nối dài” của cơ quan Hải quan trong bối cảnh chuyển đổi số. Nhiều vướng mắc pháp lý đang cản trở sự phát triển chuyên nghiệp của mô hình này, đòi hỏi hoàn thiện khung pháp luật để phù hợp với xu thế tự động hóa và hội nhập.
(PLPT) - Bài viết so sánh quy định của Italia và Trung Quốc về bảo vệ quyền cổ đông thiểu số trong đề cử, bầu thành viên độc lập HĐQT tại công ty đại chúng niêm yết, đồng thời chỉ ra các khó khăn trong thực thi. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra khuyến nghị cho Việt Nam nhằm hoàn thiện pháp lý, nâng cao hiệu quả quản trị và củng cố niềm tin nhà đầu tư.
(PLPT) - Bài viết cho rằng việc tiếp thu thuyết “pháp nhân hư cấu” trong lý luận về tư cách pháp nhân của công ty cổ phần ở Việt Nam không phù hợp với nền tảng triết học Marx – Engels. Tác giả chỉ ra đây là quan điểm mang tính duy tâm, xa rời thực tiễn doanh nghiệp, và đề xuất hướng khắc phục để phù hợp với bối cảnh pháp lý Việt Nam.
(PLPT) - Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài sản đóng vai trò quan trọng trong việc xác định chủ thể có quyền tham gia giao kết hợp đồng bảo hiểm cũng như quyền lợi của họ khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Việc tuân thủ nguyên tắc này là điều kiện tiên quyết để đảm bảo tính hợp pháp và hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản theo quy định pháp luật Việt Nam.
(PLPT) - Bài viết trình bày về tầm quan trọng của việc phát triển không gian ngầm và công trình ngầm để giải quyết vấn đề thiếu đất ở các đô thị lớn, đặc biệt trong bối cảnh tốc độ đô thị hóa nhanh chóng được xem là xu thế tất yếu để sử dụng tài nguyên đất một cách tối ưu.
(PLPT) - Bài viết nghiên cứu những tác động của trí tuệ nhân tạo (AI) đến luật bản quyền và sự cần thiết phải điều chỉnh khung pháp lý để cân bằng lợi ích giữa các bên
(PLPT) - Bài viết nghiên cứu và so sánh cơ chế miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường giữa Chỉ thị 2004/35/EC (ELD) của EU và Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam năm 2020 nhằm chỉ ra những hạn chế trong luật pháp Việt Nam và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường.