Nghiên cứu lý luận

Thuế đối với chứng khoán - Thực trạng và khả năng áp dụng đối với chứng khoán phái sinh

Nguyễn Văn Phụng Thứ năm, 01/08/2024 - 15:18
Nghe audio
0:00

(PLPT) - Bài viết đề cập đến các quy định pháp luật thuế hiện hành áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh trên TTCK và thu nhập có được từ hoạt động kinh doanh này. Không chỉ dừng lại ở các quy định pháp luật đơn thuần, bài viết có đề cập bối cảnh kinh tế, xã hội, các quan điểm chính sách được cân nhắc, thảo luận trong quá trình xây dựng pháp luật thuế đối với chứng khoán, trong đó có chứng khoán phái sinh.

Tóm tắt: Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam được ra đời trong quá trình đổi mới nền kinh tế, khi Nhà nước tập trung xây dựng hệ thống luật pháp, thể chế, hình thành các loại thị trường. Hệ thống thuế sớm được xây dựng, áp dụng thống nhất đối với các thành phần kinh tế và trải qua nhiều giai đoạn cải cách. Đến nay, chúng ta đã có 9 sắc thuế cùng với các loại phí, lệ phí, bao quát các hoạt động kinh tế phát sinh, góp phần tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, có tính cạnh tranh so với các nước trong thu hút đầu tư và mở rộng thương mại quốc tế.

Tham gia hoạt động tại TTCK có các tổ chức, cá nhân gồm: tổ chức phát hành, nhà đầu tư chứng khoán và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan. Cùng với việc tuân thủ Luật Chứng khoán, các tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật.

Bài viết đề cập đến các quy định pháp luật thuế hiện hành áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh trên TTCK và thu nhập có được từ hoạt động kinh doanh này. Không chỉ dừng lại ở các quy định pháp luật đơn thuần, bài viết có đề cập bối cảnh kinh tế, xã hội, các quan điểm chính sách được cân nhắc, thảo luận trong quá trình xây dựng pháp luật thuế đối với chứng khoán, trong đó có chứng khoán phái sinh.

Từ khóa: Chứng khoán phái sinh; Thuế; Thị trường chứng khoán phái sinh

1. Mở đầu

Việt Nam xây dựng hệ thống thuế thống nhất áp dụng đối với các thành phần kinh tế từ thập kỷ 90 của thế kỷ trước, theo đường lối Đổi mới được đề ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau hơn 30 năm kiên trì đổi mới và tích cực học hỏi, vận dụng các kinh nghiệm tốt của thế giới vào điều kiện cụ thể của mình, đến nay hệ thống thuế của Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng, được cộng đồng quốc tế thừa nhận là một trong những hệ thống hiện đại, đạt chuẩn của nền kinh tế thị trường.

Trải qua bốn giai đoạn cải cách thuế quan trọng, đến nay hệ thống thuế của Việt Nam đã có 9 sắc thuế chính, cùng các loại phí, lệ phí và các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước (NSNN). Đây là một hệ thống thuế khá hiện đại, bao quát được các hoạt động kinh tế phát sinh của nền kinh tế thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, có tính cạnh tranh so với các nước trong thu hút đầu tư và mở rộng giao lưu thương mại quốc tế.

Thị trường chứng khoán Việt Nam được ra đời trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tập trung xây dựng hệ thống luật pháp, thể chế, hình thành các loại thị trường. Các chính sách lớn đã triển khai, gồm: khuyến khích thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); khuyến khích phát triển khu vực kinh tế ngoài nhà nước với các mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần (CTCP); đồng thời, thực hiện chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN), chuyển các DNNN sang hoạt động theo mô hình CTCP.

Ảnh minh hoạ

Khi các điều kiện chuẩn bị cho thị trường chứng khoán đã sẵn sàng, phiên giao dịch đầu tiên của thị trường được thực hiện vào ngày 28/07/2000. Hai mã cổ phiếu được giao dịch là REE (thuộc Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh) và SAM (thuộc Công ty Cổ phần SAM Holdings). Ở thời điểm đó, mỗi tuần chỉ diễn ra 2 phiên giao dịch. Trung tâm Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh – tiền thân của Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) – là thị trường giao dịch chứng khoán tập trung đầu tiên của Việt Nam.

Tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán (TTCK) có các chủ thể và đối tác khác nhau tùy thuộc vào vị trí của họ cũng như theo hành động của họ đối với thị trường. Nếu phân loại theo vị trí, tầm quan trọng, và quyền lực xã hội, chúng ta có thể nhận ra các chủ thể là: (i) Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thực hiện vai trò quản lý nhà nước với nhiều quyền năng; (ii) Sở giao dịch/Trung tâm giao dịch chứng khoán với vai trò người tổ chức các “phiên chợ”; (iii) Các công ty chứng khoán – là những doanh nghiệp với nhiều tư cách (nhà đầu tư, nhà môi giới, nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ với mục đích “kiếm tiền” của nhiều đối tác); (iv) Các tổ chức phát hành chứng khoán, với tư cách nhà cung cấp “hàng hóa” cho thị trường; (v) Nhà đầu tư chứng khoán với tư cách người mua/bán; và (vi) Các tổ chức phụ trợ khác như tổ chức lưu ký, thanh toán bù trừ, các tổ chức làm dịch vụ kiểm toán…

Tuy nhiên, nếu phân loại các chủ thể theo hoạt động của thị trường, chúng ta sẽ có các chủ thể/đối tác tham gia thị trường gồm 3 nhóm chính, đó là: (a) Tổ chức phát hành chứng khoán - với tư cách là nhà cung cấp hàng hóa cho thị trường; (b) Nhà đầu tư chứng khoán - với tư cách là người mua/bán chứng khoán (là pháp nhân hoặc thể nhân); và (c) Các tổ chức, cá nhân khác có liên quan - với tư cách là nhà cung cấp dịch vụ nhằm tổ chức và phục vụ hoạt động của TTCK. Đối với chủ thể/đối tác thuộc nhóm (c) sẽ bao gồm: Cơ quan quản lý và giám sát TTCK; Sở/Trung tâm giao dịch chứng khoán; Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán; Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán; Các tổ chức hỗ trợ; Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.

Pháp luật thuế quy định và áp dụng thế nào đối với các giao dịch và chủ thể/đối tác tại TTCK ? Suy đến cùng, chúng ta cũng cần cách tiếp cận đơn giản tại Hội thảo, bám sát vào hai vấn đề. Một là, hàng hóa được mua/bán, dịch vụ được cung cấp tại TTCK sẽ chịu sự điều chỉnh của các loại thuế/sắc thế nào; Hai là, người nộp thuế sẽ bao gồm pháp nhân và thể nhân. Họ sẽ được áp dụng thuế thu nhập theo thân phận/địa vị pháp lý của họ. Đồng thời, họ cũng sẽ là người trả thuế/nộp thuế đối với hàng hóa, dịch vụ mà thực tế họ có kinh doanh.

2. Thuế gián thu đối với hàng hóa, dịch vụ chứng khoán

Theo thông lệ, thuế gián thu bao gồm các sắc thuế đánh vào giao dịch hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, đây là loại thuế mà người nhập khẩu, người bán trực tiếp nộp thuế và bằng mọi cách tính đủ và cộng vào giá bán để đẩy cho người tiêu dùng phải gánh chịu. Điển hình là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (XNK), Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), Thuế doanh thu, Thuế giá trị gia tăng (GTGT)…

Hiện nay, tại Việt Nam, thuế GTGT có phạm vi điều chỉnh rộng, áp dụng đối với hầu hết các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được nhập khẩu, sản xuất, cung ứng và tiêu thụ. Trong khi đó, thuế TTĐB thường áp dụng đối với số ít hàng hóa, dịch vụ có lựa chọn nhằm thực hiện đồng thời 2 mục tiêu là tăng thu ngân sách và thực hiện công cụ điều tiết, định hướng tiêu dùng.

Quan điểm của chúng ta trong thiết kế chính sách thuế GTGT là không đưa vào diện chịu thuế (ngôn ngữ luật ghi là đối tượng không chịu thuế GTGT) đối với 26 nhóm hàng hóa, dịch vụ. Lưu ý rằng, đối tượng thuộc diện không chịu thuế GTGT khác biệt hoàn toàn với trường hợp thuế suất 0%, đó là sẽ không được hoàn thuế, không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đã trả, đã nộp để sản xuất, cung ứng ra hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT đầu ra.

Trong số 26 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT, chúng ta dễ dàng nhận thấy phần lớn các sản phẩm, dịch vụ thuộc lĩnh vực tài chính, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán… Lý giải về quy định này dựa trên luận điểm cho rằng: (i) Các hoạt động thuộc lĩnh vực này mang bản chất của phân phối lại, chúng không tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế nên không áp thuế GTGT; (ii) Cần ưu tiên không áp thuế bởi đây là các kênh dẫn vốn cho nền kinh tế, và chúng ta đang phải tìm nhiều biện pháp để huy động vốn cho sản xuất kinh doanh. Việc không áp thuế GTGT sẽ tạo cơ hội cho việc giảm chi phí vốn cho nền kinh tế.

Quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 3 Nghị định số 209/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/12/2013 về đối tượng không chịu thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán bao gồm:

“c) Kinh doanh chứng khoán bao gồm: Môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý công ty đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, dịch vụ tổ chức thị trường của sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán, dịch vụ liên quan đến chứng khoán đăng ký, lưu ký tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam, cho khách hàng vay tiền để thực hiện giao dịch ký quỹ, ứng trước tiền bán chứng khoán và hoạt động kinh doanh chứng khoán khác theo quy định của pháp luật về chứng khoán.”

Trong triển khai thực hiện, Thông tư số 219/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 31/12/2013 hướng dẫn thực hiện Luật thuế GTGT và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP của Chính phủ, ngoài việc nhắc lại các quy định của Nghị định còn có hướng dẫn cụ thể hơn về đối tượng không chịu thuế GTGT đối với: “Hoạt động cung cấp thông tin, tổ chức bán đấu giá cổ phần của các tổ chức phát hành, hỗ trợ kỹ thuật phục vụ giao dịch chứng khoán trực tuyến của Sở Giao dịch Chứng khoán.”

Hàng hóa được giao dịch hợp pháp trên thị trường chứng khoán có tổ chức, được mua bán giữa các tổ chức, cá nhân thực hiện theo khung khổ quy định của pháp luật về chứng khoán, cụ thể bao gồm:

a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;

b) Chứng quyền, chứng quyền có bảo đảm, quyền mua cổ phần, chứng chỉ lưu ký;

c) Chứng khoán phái sinh;

d) Các loại chứng khoán khác do Chính phủ quy định.

Với các quy định nêu trên, có thể thấy bất kể tổ chức, cá nhân nào tham gia hoạt động trên TTCK. Thực tế nếu có tiến hành các hoạt động nào theo danh mục nêu phía trên đều thuộc diện không chịu thuế GTGT.

3. Thuế trực thu và phí, lệ phí đối với tổ chức, cá nhân

Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thuế hiện hành thì tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội đều phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với thu nhập của mình. Theo đó, các tổ chức thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, cá nhân sẽ thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân. Về các thủ tục đăng ký, khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế thu nhập, thực hiện theo quy định của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thực hiện.

3.1. Thuế thu nhập doanh nghiệp

Các tổ chức (pháp nhân) có thu nhập từ hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ thực hiện tổng hợp, kê khai các nguồn thu nhập của đơn vị có được trong kỳ tính thuế (thường là năm dương lịch, trừ trường hợp áp dụng năm tài chính).

Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp được xác định dựa trên căn cứ là thu nhập tính thuế và thuế suất. Thu nhập tính thuế trong một kỳ tính thuế là thu nhập chịu thuế TNDN trong kỳ tính thuế đó, sau khi đã trừ đi khoản lỗ của các năm trước được chuyển sang năm nay (nếu có), trừ đi khoản trích lập Quỹ khoa học và công nghệ của doanh nghiệp theo quy định.

Thuế suất thuế TNDN áp dụng đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán hiện hành là 20% (thuế suất phổ thông). Trường hợp doanh nghiệp tiến hành nhiều hoạt động kinh doanh, trong đó nếu có hoạt động kinh doanh thuộc trường hợp ưu đãi thuế (thuế suất ưu đãi thấp hơn 20% trong thời hạn quy định, miễn thuế, giảm 50% thuế trong một số năm) thì phải hạch toán riêng hoạt động được ưu đãi thuế.

Thuế TNDN đối với các tổ chức đóng trụ sở tại Việt Nam thực hiện tạm nộp hàng quý và thực hiện khai quyết toán hàng năm vào thời gian không chậm hơn 90 ngày, kể từ khi kết thúc năm tính thuế.

Đối với các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài không có trụ sở tại Việt Nam nhưng nếu có tiến hành hoạt động kinh doanh chứng khoán, thu nhập từ việc cung cấp dịch vụ cho các công ty chứng khoán, cung cấp dịch vụ kỹ thuật cho các tổ chức khác trên thị trường chứng khoán, hoặc có thu nhập từ mua bán chứng khoán thông qua các tổ chức tại Việt Nam thì thực hiện nghĩa vụ thuế TNDN trong khung khổ pháp luật về thuế nhà thầu nước ngoài.

Có 2 vấn đề hết sức lưu ý về thuế TNDN đối với các tổ chức phát hành chứng khoán, có chứng khoán của mình được giao dịch trên TTCK:

Một là, tổ chức đó sẽ nộp thuế TNDN theo thân phận của bản thân tổ chức mình, không phụ thuộc vào giá giao dịch, kể cả chứng khoán phát hành được giao dịch lần đầu. Ví dụ: một công ty công nghệ có niêm yết trên TTCK thuộc diện được ưu đãi thuế TNDN ở mức cao nhất (thuế suất TNDN ưu đãi 10% trong 15 năm, miễn thuế TNDN tối đa 04 năm, giảm 50% thuế TNDN tối đa 09 năm tiếp theo). Công ty này sẽ nộp thuế theo thực tế ưu đãi, quy định tại Luật thuế TNDN.

Hai là, thặng dư cổ phần của chứng khoán phát hành lần đầu sẽ không phải nộp thuế TNDN. Ví dụ, công ty công nghệ nêu trên có mệnh giá cổ phiếu đăng ký niêm yết phát hành lần đầu là 10.000 VND/cổ phiếu; thực tế giá thị trường chấp nhận giao dịch là 50.000 VND/cổ phiếu, số tiền thực tế thu về cao hơn mệnh giá, quen gọi là thặng dư cổ phần sẽ là 40.000 VND/cổ phiếu, số tiền này sẽ được hòa chung vào vốn chủ sở hữu của công ty phát hành, nó không phải là thu nhập của doanh nghiệp, vì thế mà không phải nộp thuế TNDN.

3.2. Thuế thu nhập cá nhân

Các cá nhân có thu nhập từ hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ thực hiện nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân theo Luật Thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007 và các văn bản hướng dẫn. Trong quá trình thực hiện, Luật thuế TNCN đã được sửa đổi vào các năm 2012 và 2014, trong đó thuế TNCN đối với chứng khoán có sự thay đổi lớn từ năm 2015 với những điểm đáng chú ý là:

Luật thuế TNCN số 04/2007/QH12 quy định 02 phương pháp tính thuế và 02 mức thuế suất với căn cứ tính khác nhau: (i) Thuế suất 20% đối với thu nhập ròng, xác định theo nguyên tắc Thu nhập = Doanh thu – Chi phí; (ii) Thuế suất 0,1% x trị giá bán chứng khoán.

Trong thời gian đầu (2009 đến 2014), các văn bản như Nghị định của Chính phủ, Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính quy định: Các công ty chứng khoán, nơi nhà đầu tư cá nhân mở tài khoản giao dịch chứng khoán sẽ thực hiện tạm thu, tạm khấu trừ thuế TNCN theo mức thuế 0,1% trên trị giá bán. Kết thúc năm, cá nhân thực hiện khai quyết toán, xác định số thuế theo 20% trên thực lãi, nếu số tạm nộp 0,1% mà cao hơn số quyết toán thì được hoàn thuế. Ngược lại, nếu tạm nộp 0,1% mà thấp hơn số quyết toán thì phải nộp thêm. Các công ty chứng khoán có nghĩa vụ tổng hợp số liệu giao dịch cả năm để chuyển thông tin cho cá nhân khai quyết toán thuế. Trường hợp cá nhân tự tính thấy mức thuế số thuế tạm nộp 0,1% cao hơn số phải nộp và không có nhu cầu quyết toán, không yêu cầu hoàn lại thuế, thì không cần phải khai quyết toán (tuy nhiên văn bản không hướng dẫn chiều ngược lại).

Từ kỳ tính thuế năm 2015, theo quy định tại Điều 2 Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014, Quốc hội cho sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế, (có hiệu lực kể từ 01/01/2015): Thuế TNCN đối với chứng khoán áp dụng thống nhất thuế suất 0,1% tính trên trị giá bán chứng khoán. Cá nhân không phải kê khai quyết toán đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán.

Vấn đề phát sinh sau khi nội dung về thuế TNCN đối với chứng khoán sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế năm 2014 có hiệu lực pháp luật

Có thể thấy, quy định mới có tác động giảm bớt các thủ tục cho các nhà đầu tư cá nhân trong việc kê khai quyết toán thuế TNCN. Không phải kê khai doanh thu các lần giao dịch chuyển nhượng chứng khoán, chi phí giá vốn (giá mua) từng loại chứng khoán và các chi phí có liên quan (thực tế không thể nào nhớ hết, không tính được để kê khai. Đối với cơ quan quản lý thuế cũng không phải mất chi phí quản lý đối với các cá nhân, bởi tiền thuế đã được các công ty chứng khoán khấu trừ theo thực tế giao dịch.

Tuy nhiên, nếu xét về bản chất của thuế đánh trên thu nhập, việc áp mức thuế 0,1% trị giá giao dịch cũng phát sinh vấn đề công bằng và yêu cầu thu đúng, thu đủ. Trong trường hợp thị trường tốt và luôn tăng điểm thì mức thuế 0,1% mang lại nhiều lợi ích cho nhà đầu tư. Ngược lại, số thuế thu vào NSNN sẽ là chưa đủ, chưa sát với số phát sinh thực tế. Trong trường hợp thị trường trầm lắng hoặc ở giai đoạn suy thoái thì mức thuế TNCN 0,1% sẽ trở thành một gánh nặng không nhỏ đối với nhà đầu tư cá nhân, và làm cho thuế này xa dần bản chất của thuế TNCN (là loại thuế đánh trên thu nhập hiện thực).

Trước đây, theo quy định của Luật thuế TNCN năm 2007, các công ty chứng khoán đã đầu tư hạ tầng, phần mềm quản lý đến mức đã cung cấp cho cơ quan quản lý thuế và các nhà đầu tư cá nhân toàn bộ chi tiết giao dịch chứng khoán để thực hiện việc kê khai quyết toán thuế. Thực tế, đã có nhiều nhà đầu tư chứng khoán thực hiện được công tác quyết toán thuế, cũng có người được hoàn lại thuế và số đông có số thuế nộp thừa được chuyển sang ký tính thuế tiếp theo. Hiện nay, các công ty chứng khoán, cơ quan quản lý thuế đã có những bước tiến dài về công nghệ thông tin phục vụ quản lý và đang triển khai chương trình chuyển đổi số. Do vậy, việc có nên quay trở lại cách tính thuế TNCN theo thu nhập, hoặc cho phép cá nhân lựa chọn 1 trong 2 cách (miễn là số thuế nộp NSNN phải đủ theo luật hoặc nhiều hơn thực tế theo kê khai) như Luật thuế TNCN năm 2007 là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư.

3.3. Phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán

Xét về bản chất, phí và lệ phí không phải thuế. Chúng là khoản phí dịch vụ mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được thụ hưởng một dịch vụ công, một công việc quản lý hành chính nhà nước do các tổ chức được Nhà nước ủy quyền hoặc giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công hoặc công việc hành chính.

Pháp luật hiện hành quy định nghĩa vụ nộp/trả phí và lệ phí tại Luật Phí và lệ phí, số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015. Theo đó, danh mục phí, lệ phí được quy định tại Luật này, quy định cụ thể về mức thu phí, lệ phí, chế độ thu, nộp và quản lý số tiền thu được về phí, lệ phí sẽ do Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định tại Thông tư, trên cơ sở đề nghị của Bộ/ngành có chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực có hoạt động được pháp luật cho phép thu phí, lệ phí.

Khác với thuế, phí và lệ phí có phân cấp cho chính quyền địa phương cấp tỉnh quy định cụ thể theo quy định của Luật Phí và lệ phí, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Đối với lĩnh vực chứng khoán, các loại phí, lệ phí phải nộp do Bộ Tài chính quy định (xin không được đề cập sâu tại bài viết này).

Các công ty chứng khoán, tùy thuộc vào chiến lược kinh doanh, mô hình tổ chức, quản trị, mức độ đầu tư cơ sở hạ tầng cũng như các phương thức cung cấp dịch vụ phục vụ khách hàng được quyền tự quyết định mức thu phí dịch vụ. Đây là khoản thu hình thành nên doanh thu và thu nhập của các doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán. Các doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện việc kê khai, nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế.

Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán do Nhà nước thành lập hoặc thuộc sở hữu nhà nước (như Sở giao dịch chứng khoán, Tổng công ty lưu ký chứng khoán), cũng thực hiện nghĩa vụ thuế, phí và lệ phí theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, sau khi nộp đủ thuế TNDN theo luật định, các đơn vị này còn phải thực hiện nghĩa vụ nộp vào NSNN khoản lợi nhuận sau thuế TNDN theo quy định.

4. Thuế đối với chứng khoán phái sinh

Theo quy định của Luật Chứng khoán hiện hành, thì hàng hóa được giao dịch trên TTCK là chứng khoán, bao gồm cả chứng khoán phái sinh. Luật cũng định nghĩa rằng: Chứng khoán phái sinh là công cụ tài chính dưới dạng hợp đồng, bao gồm hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, trong đó xác nhận quyền, nghĩa vụ của các bên đối với việc thanh toán tiền, chuyển giao số lượng tài sản cơ sở nhất định theo mức giá đã được xác định trong khoảng thời gian hoặc vào ngày đã xác định trong tương lai. (khoản 9, Điều 4).

Với khung khổ pháp luật như hiện hành, Bộ Tài chính đã tổ chức công tác nghiên cứu thực tiễn, tham vấn ý kiến các tổ chức, cá nhân, cơ quan có liên quan. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã có văn bản hướng dẫn về thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng hợp đồng tương lai trên thị trường chứng khoán phái sinh (Công văn số 11133/BTC-CST ngày 21/08/2017, thể hiện tại bản Phụ lục kèm theo bài viết này).

Nội dung của văn bản này ngoài việc viện dẫn các quy định hiện hành của pháp luật về thuế GTGT, thuế TNDN đối với chứng khoán, còn có nội dung hướng dẫn sâu hơn về thuế TNCN. Theo đó, với quan niệm phái sinh cũng là chứng khoán nên thuế suất thuế TNCN sẽ là 0,1% theo như Luật đã quy định. Vấn đề là xác định thu nhập thế nào, bao nhiêu tiền... sẽ theo thời điểm khớp lệnh mua/bán Hợp đồng tương lai.

Xin được trích dẫn tại đây:

“3. Về thuế TNCN

Theo quy định tại khoản 2 Điều 11 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Luật thuế TNCN đã được sửa đổi bổ sung tại Điều 16 Thông tư số 92/2015/TT-BTC ngày 15/6/2015 của Bộ Tài chính thì cá nhân (không phân biệt cá nhân cư trú hay không cư trú) có thu nhập từ chuyển nhượng HĐTL trên thị trường chứng khoán phái sinh áp dụng tỷ lệ thuế 0,1% trên giá chuyển nhượng chứng khoán từng lần. Trong đó, giá chuyển nhượng chứng khoán từng lần được xác định bằng giá thanh toán của HĐTL tại thời điểm xác định thu nhập tính thuế x Hệ số nhân hợp đồng x Số lượng hợp đồng x Tỷ lệ ký quỹ ban đầu chia (:) 2.

(Tỷ lệ ký quỹ ban đầu do Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam công bố theo quy định tại quy chế của Trung tâm Tưu ký chứng khoán).

Thời điểm xác định thu nhập tính thực là thời điểm khớp lệnh mua/bán HĐTL của nhà đầu tư trên hệ thống giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán hoặc thời điểm HĐTL đáo hạn.

Ví dụ: Hợp đồng lương lai (HĐTL) chỉ số cổ phiếu VN30F1708 được xây dựng có hệ số nhân là 100.000 đồng. Tỷ lệ ký quỹ ban đầu của HĐTL này do Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam công bố là 10%.

- Lúc 9 giờ ngày 16/8/2017, nhà đầu tư A khớp lệnh mua 10 HĐTL VN30F1708 với giá là 750 điểm chỉ số.

Nhà đầu tư cá nhân A phải nộp số thuế TNCN trong giao dịch mua là:

750 x 100.000 x 10 x 10%/2 x 0,1% = 37.500 (đồng).

- Lúc 10h ngày 16/8/2017, nhà đầu tư A khớp lệnh bán 10 HĐTL VN30F1708, giá khớp lệnh của HĐTL nói trên lúc này giảm xuống còn 720 điểm.

Nhà đầu tư cá nhân A phải nộp số thuế TNCN trong giao dịch bán này là:

720 x 100.000 x 10 x 10%/2 x 0.1% = 36.000 (đồng).”

5. Một số trao đổi về thuế đối với “chứng khoán phái sinh”

Như đã trích dẫn nội dung điều luật quy định tại mục 4 của bài viết:

Chứng khoán phái sinh là công cụ tài chính dưới dạng hợp đồng, bao gồm hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, trong đó xác nhận quyền, nghĩa vụ của các bên đối với việc thanh toán tiền, chuyển giao số lượng tài sản cơ sở nhất định theo mức giá đã được xác định trong khoảng thời gian hoặc vào ngày đã xác định trong tương lai. (khoản 9, Điều 4) .

Vấn đề cần trao đổi xin được đề cập tại đây là:

Khi nào chúng ta có thể hướng dẫn được nghĩa vụ thuế, cách tính thuế, cách xác định thu nhập đối với các loại Hợp đồng phái sinh mà pháp luật đang quy định đó là “Chứng khoán phái sinh”?

Chúng ta có thể có được cách tiếp cận khác để báo cáo với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các loại phái sinh đã và đang có trên thị trường trong và ngoài nước, trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng và nền kinh tế thế giới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014 về Sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế.

2. Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015.

3. Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14 ngày 26/11/2019.

4. Nghị định số 65/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân.

5. Văn bản hợp nhất số 68/VBHN-BTC ngày 19/12/2019 của Bộ Tài chính: Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và Nghị định số 65/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân.

6. Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật thuế GTGT.

7. Nghị định số 91/2014/NĐ-CP ngày 01/10/2014 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Nghị định quy định về thuế.

8. Nghị định số 100/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế.

9. Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 06/8/2014 hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam.

10. Công văn số 11133/BTC-CST ngày 21/08/2017 về việc chính sách thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng hợp đồng tương lai trên thị trường chứng khoán phái sinh.

Cùng chuyên mục

Thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin tiền hợp đồng theo mẫu của bên đề nghị giao kết đối với người tiêu dùng

Thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin tiền hợp đồng theo mẫu của bên đề nghị giao kết đối với người tiêu dùng

Nghiên cứu lý luận -  2 tuần trước

Bàn về hiệu lực của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất khi người tặng cho chết nhưng chưa đăng ký biến động tài sản

Bàn về hiệu lực của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất khi người tặng cho chết nhưng chưa đăng ký biến động tài sản

Nghiên cứu lý luận -  3 tuần trước

Cần đưa sàng lọc ung thư cổ tử cung vào danh mục được Bảo hiểm y tế chi trả

Cần đưa sàng lọc ung thư cổ tử cung vào danh mục được Bảo hiểm y tế chi trả

Nghiên cứu lý luận -  4 tuần trước

Công bằng và bảo đảm công bằng trong thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng

Công bằng và bảo đảm công bằng trong thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng

Nghiên cứu lý luận -  1 tháng trước

Cấu thành tội trốn thuế - Nhìn từ góc độ Luật học so sánh và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

Cấu thành tội trốn thuế - Nhìn từ góc độ Luật học so sánh và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

Nghiên cứu lý luận -  2 tháng trước

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với khát vọng xây dựng một xã hội thực sự vì con người ở Việt Nam trong bối cảnh mới

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với khát vọng xây dựng một xã hội thực sự vì con người ở Việt Nam trong bối cảnh mới

Nghiên cứu lý luận -  2 tháng trước

Bảo vệ quyền con người trong tình trạng khẩn cấp theo Luật nhân quyền quốc tế và pháp luật Việt Nam

Bảo vệ quyền con người trong tình trạng khẩn cấp theo Luật nhân quyền quốc tế và pháp luật Việt Nam

Nghiên cứu lý luận -  2 tháng trước

Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở và tội xâm phạm chỗ ở của người khác theo Điều 158 Bộ Luật Hình sự năm 2015

Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở và tội xâm phạm chỗ ở của người khác theo Điều 158 Bộ Luật Hình sự năm 2015

Nghiên cứu lý luận -  3 tháng trước

Đọc nhiều