Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định về tội mua bán người trong Bộ luật Hình sự năm 2015
Bùi Lê Hiếu, Dương Lan Phương
Thứ hai, 29/07/2024 - 16:21
(PLPT) - Bằng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, nhóm tác giả đã chỉ ra những điểm bất cập trong pháp luật hình sự Việt Nam và nêu ra kinh nghiệm một số quốc gia về việc quy định tội mua bán người trong pháp luật hình sự.
Tóm tắt: Đối với công tác phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, các cơ quan nhà nước tại Việt Nam đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh. Trong đó, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 2015) đã tạo dựng một khung pháp lý vững chắc, trở thành một công cụ hữu hiệu trong đấu tranh với tội phạm mua bán người. Sau nhiều năm áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015, tội phạm buôn bán người đã có sự biến đổi trong tình hình mới khiến các quy định pháp luật bộc lộ những bất cập, gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật. Nhằm góp sức vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm buôn bán người tại Việt Nam, nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự về loại tội phạm này. Bằng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, nhóm tác giả đã chỉ ra những điểm bất cập trong pháp luật hình sự Việt Nam và nêu ra kinh nghiệm một số quốc gia về việc quy định tội mua bán người trong pháp luật hình sự. Từ đó, nhóm tác giả đề xuất các nhóm giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những bất cập trong quy định của Bộ luật hình sự về loại tội phạm này.
Từ khóa: Tội mua bán người, tội mua bán trẻ em, Bộ luật hình sự, quy định.
Abstract: For the prevention of human trafficking and child trafficking, state agencies in Vietnam have issued legal documents to adjust. In particular, the 2015 Penal Code, amended and supplemented in 2017 (referred to as the 2015 Penal Code) has created a solid legal framework, becoming an effective tool in fighting crime human trafficking. After many years of applying the Penal Code in 2015, the crime of human trafficking has changed in a new situation, causing legal provisions to reveal shortcomings, making it difficult to apply the law. In order to contribute to the fight against human trafficking crimes in Vietnam, the authors researched the provisions of the Penal Code on this type of crime. By the method of synthesis, analysis and comparison, the authors have pointed out the inadequacies in the criminal law of Vietnam and pointed out the experience of some countries on the regulation of the crime of human trafficking in the criminal law. From there, the authors propose specific groups of solutions to overcome the shortcomings in the provisions of the Penal Code on this type of crime.
Keywords: Crime of human trafficking, crime of trafficking in children, Criminal Code, regulations.
Đặt vấn đề
Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là bảo
vệ và thúc đẩy quyền con người, con người luôn được đặt vào vị trí trung tâm,
nhờ vậy, vấn đề phòng, chống mua bán người luôn dành được sự quan tâm đặc biệt
của cả hệ thống chính trị. Dù được triển khai quyết liệt bằng nhiều giải pháp
nhưng tình hình tội phạm mua bán người tại nước ta vẫn còn diễn biến hết sức
phức tạp. Từ năm 2016 - 2021, kết quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về tội
mua bán người của Tòa án nhân dân các cấp là 450 vụ/506 vụ án đã thụ lý; tội
mua bán người dưới 16 tuổi đã giải quyết là 190 vụ/225 vụ án thụ lý[1].
Riêng trong năm 2022, số vụ án được Tòa án nhân dân các cấp thụ lý là 77 vụ/202
bị cáo phạm các tội về mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi và các tội
danh liên quan. Trong đó, tòa án đã đưa ra xét xử 58 vụ/128 bị cáo, tăng 02 vụ,
22 bị cáo so với cùng kỳ năm 2021[2].
Cơ cấu vụ án Tòa án nhân dân các cấp thụ lý theo thủ tục sơ thẩm năm 2022 về các tội Mua bán người.Bảng 1: Số vụ án mua bán người đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm năm 2022 theo Tỉnh/Thành phố.
Với tính thần kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, xử lý
tội phạm mua bán người, việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật,
chính sách về phòng, chống mua bán người mang ý nghĩa tiên quyết. Trong đó, đặc
biệt chú trọng đến việc xây dựng, hoàn thiện, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
quy định pháp luật về tội mua bán người tại Bộ luật Hình sự năm 2015.
Để thực hiện nghiên cứu, nhóm tác giả đã
sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, bao gồm:
- Phương pháp lịch sử được sử dụng để
nghiên cứu, làm rõ quá trình hình thành, phát triển của pháp luật hình sự Việt
Nam, pháp luật quốc tế về tội mua bán người, mua bán trẻ em.
- Phương pháp phân tích, so sánh được sử
dụng nhằm trình bày, làm sáng tỏ các quan điểm, quan niệm về tội mua bán người
và tội mua bán trẻ em trong pháp luật Việt Nam, pháp luật của một số quốc gia
khác và pháp luật quốc tế.
- Phương pháp tổng hợp để xác định bản chất, đặc điểm của hành vi mua bán
người, mua bán trẻ em, sự phù hợp và bất cập của các quy định của Bộ luật Hình
sự năm 2015 về tội mua bán người, tội mua bán trẻ em; từ đó rút ra những nhận
xét, đánh giá, kết luận và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện các quy định có liên
quan của Bộ luật Hình sự Việt Nam.
- Phương pháp hệ thống hóa được sử dụng
nhằm trình bày các vấn đề, các nội dung trong nghiên cứu theo một trình tự, bố
cục hợp lý, chặt chẽ, có sự gắn kết, kế thừa, phát triển các vấn đề, các nội
dung.
Bài viết hướng tới mục tiêu chỉ ra những bất cập,
hạn chế còn tồn tại trong các quy định này thông qua việc xem xét tính hiệu quả
của pháp luật trong thực tiễn và học hỏi kinh nghiệm từ một số hệ thống pháp
luật trên thế giới. Từ đó, bài viết đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện, củng
cố pháp luật, góp phần vào công cuộc đẩy lùi tội phạm mua bán người tại Việt
Nam.
1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội mua bán người
Trong
hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ, mua bán người xuất hiện và tồn tại
kéo dài cho đến ngày nay. Mua bán người đã và đang bị lên án gay gắt, trở thành
một loại tội phạm nguy hiểm trong xã hội. Trong nhưng năm đầu thế kỷ XX, các
Công ước quốc tế về phòng chống mua bán người ra đời như: Công ước bãi bỏ buôn
bán nô lệ da trắng năm 1904, Công ước ngăn chặn tệ buôn bán phụ nữ năm 1910,
Công ước về chống buôn bán nô lệ năm 1926… Sau khi Liên hợp quốc được thành lập
năm 1945, nhiều văn kiện pháp lý quốc tế ra đời nhằm thay thế, bổ sung, giải
quyết các vấn đề mới như: Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế năm 1948; Công ước quốc
tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965; Công ước về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn
hóa, xã hội năm 1966; Công ước về xóa bỏ tất cả hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ năm 1979; Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000;
Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm buôn bán người, đặc
biệt là phụ nữ, trẻ em năm 2000…
Pháp
luật quốc tế hiện nay không ghi nhận khái niệm “mua bán người” mà quy định
chung về khái niệm “buôn bán người”. Buôn bán người chính là hình thức mua bán,
chiếm hữu nô lệ, coi con người là một loại hàng hóa và tước đoạt của họ những
quyền cơ bản về tự do một cách trái pháp luật và vô đạo đức. Do có những đặc
điểm riêng về truyền thống lịch sử, văn hóa xã hội, điều kiện kinh tế mà pháp
luật mỗi quốc gia quy định về khái niệm buôn bán người khác nhau.
Tại
Việt Nam, khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội mua bán người, mua bán người
dưới 16 tuổi được ghi nhận tại Điều 150, Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 như
sau:
Thứ nhất, tội mua bán người xâm phạm đến quyền tự do thân thể, xâm
phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người được pháp luật hình sự Việt Nam bảo
vệ.
Thứ hai, mặt khách quan của tội mua bán người thể hiện ở 03 nhóm
hành vi sau: (i) Hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền,
tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; (ii) Hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận
người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân
hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; (iii) Hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa
chấp người khác để thực hiện các hành vi nêu trên.
Hậu
quả của hành vi khách quan là con người được xem như một món hàng hóa để trao
đổi, mua bán, nhân phẩm của con người bị chà đạp, sự tự do của con người bị hạn
chế.
Trường
hợp khi người phạm tội thực hiện các hành vi như tìm kiếm người, liên hệ nơi
mua bán, thỏa thuận giá cả, nơi giao nhận… nhưng vì lý do khách quan ngoài ý
muốn mà người phạm tội không thực hiện được hành vi mua bán người thì vẫn phải
chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, người từ đủ 16 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực trách
nhiệm hình sự là chủ thể của tội này. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự nếu hành vi phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại
khoản 2 và 3 Điều 150 Bộ luật Hình sự năm 2015. Chủ thể chưa thành niên thường
phạm tội này với vai trò là đồng phạm.
Thứ tư, người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Tuy người
thực hiện hành vi nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và họ
cũng thấy trước hậu quả nhưng người phạm tội vẫn mong muốn hậu quả xảy ra hoặc
dù không mong muốn nhưng vẫn ý thức để mặc hậu quả xảy ra khi thực hiện hành vi
mua bán người.
So với Bộ luật Hình sự năm 1999, các
quy định về về tội mua bán người trong Bộ luật Hình sự năm 2015 có những điểm
thay đổi. Lê Văn Thanh cho rằng:
Bộ
luật Hình sự năm 2015 đã mô tả cụ thể các hành vi khách quan của tội “Mua bán
người” còn Bộ luật Hình sự năm 1999 chỉ quy định “người nào mua bán người” là
cần thiết, đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này trong giai
đoạn hiện nay. Trong điều luật nhà làm luật quy định một số dấu hiệu còn chung
chung, cần phải giải thích như “thủ đoạn khác”, “để bóc lột tình dục”, “để
cưỡng bức lao động”, “để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân”, “vì mục đích vô nhân
đạo khác”; tuy nhiên, ngày 11/01/2019 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối
cao đã ban hành Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội
“Mua bán người” và Điều 151 về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi” của Bộ luật
Hình sự, đã giải thích rõ những thuật ngữ nêu trên tạo tiền đề, cơ sở để áp
dụng pháp luật một cách đúng đắn.[3]
Bộ
luật Hình sự năm 2015 đã có những sửa đổi về hình phạt so với Bộ luật hình sự
năm 1999. Điều 150 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định tội mua bán người được quy
định bao gồm 03 khung hình phạt. Trong đó, khung hình phạt thấp nhất là phạt tù
từ 05 năm đến 10 năm. Khung hình phạt cao nhất là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Bên
cạnh hình phạt chính, Điều 150 Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng ghi nhận hình phạt
bổ sung gồm phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế,
cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Tội
mua bán người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015
cũng bao gồm 03 khung hình phạt. Đặc biệt, tại khoản 3 Điều 151 Bộ luật Hình
sự, mức cao nhất của khung hình phạt được ghi nhận là tù chung thân. Ngoài ra,
mức phạt tiền được quy định từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cao hơn so
với Điều 150 Bộ luật Hình sự năm 2015.
2.Một số bất cập trong quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội mua bán người
Qua khảo sát 100 người thường xuyên sử dụng, nghiên cứu và tiếp
xúc với những quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán người đã cho kết
quả như sau: 96% số người được khảo sát cho rằng quy định về tội mua bán người
trong pháp luật hình sự hiện nay chưa phù hợp. Trong đó, những người được khảo
sát cho rằng quy định về tội mua bán người hiện nay có những mặt hạn chế sau:
dấu hiệu định tội (38,1%), dấu hiệu định khung hình phạt (33%), kỹ thuật
lập pháp (28,9%)[4]. Bằng phương pháp phân tích, tổng
hợp và so sánh, nhóm tác giả nhận thấy quy định về tội mua bán người trong Bộ
luật Hình sự năm 2015 xuất hiện những bất cập, vướng mắc sau:
Thứ nhất, gây nhầm lẫn với một số tội danh khác có sự tương đồng về cấu thành tội
phạm trong Bộ luật Hình sự năm 2015
Qua phân tích các dấu hiệu pháp lý tội của tội mua
bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi, nhóm tác giả nhận thấy: hành vi
khách quan của 02 tội phạm này có điểm giống nhau với một số tội phạm khác được
quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (gồm Điều 154 về Tội mua bán, chiếm đoạt
mô hoặc bộ phận cơ thể người; Điều 297 về Tội cưỡng bức lao động; Điều 327 về
Tội chứa mại dâm; Điều 328 về Tội môi giới mại dâm; Điều 348 về Tội tổ chức,
môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép;
Điều 349 về Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại
nước ngoài trái phép) gây nhầm lẫn trong quá trình áp dụng pháp luật. Các tội
danh này có sự giống nhau về hành vi khách quan nhưng khác nhau mục đích phạm
tội khi thực hiện hành vi đó và sự đồng thuận của nạn nhân.
Các tình tiết như: bóc lột tình dục, cưỡng bức lao
động, lấy bộ phận cơ thể, hành vi với mục đích vô nhân đạo khác chỉ dừng lại ở
ý định thì bị truy cứu về tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16
tuổi. Còn nếu đã thực hiện hành vi trên thực tế sẽ phải chịu trách nhiệm về các
tội như: tội cưỡng bức lao động, tội mua bán hoặc chiếm đoạt mô, bộ phận cơ thể
người, tội môi giới mại dâm, tội chứa mại dâm… được ghi nhận trong Bộ luật Hình
sự. Bên cạnh đó, việc phân biệt còn căn cứ vào sự đồng thuận của nạn nhân và bị
hại. Nếu nạn nhân đồng ý, tự nguyện về việc đưa bản thân xuất, nhập cảnh hoặc
trốn đi nước ngoài, thậm chí chi trả một khoản tiền để được xuất cảnh, nhập
cảnh trái phép, trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép thì bị truy
cứu theo tội danh tại Điều 348, Điều 349 Bộ luật Hình sự năm 2015. Nếu nạn nhân
không đồng ý về việc bị mua bán, bị cưỡng ép, lừa gạt, dụ dỗ thì bị truy cứu về
tội mua bán người.
Tuy nhiên, trên thực tế để phân định rõ ràng giữa
các tội danh này không phải là một điều dễ dàng. Điển hình như việc phân biệt
tội mua bán người, tôi mua bán người dưới 16 tuổi với tội chứa mại dâm gặp khó
khăn trong thực tiễn áp dụng. Mục đích hành vi chứa chấp người của tội chứa mại
dâm là để thực hiện hành vi mua bán dâm, trong khi đó, mục đích tội mua bán
người và tội mua bán người dưới 16 tuổi là để chuyển giao người đó cho một
người hoặc nhóm người khác và người chứa chấp biết được mục đích của người tiếp
nhận nạn nhân là để bóc lột tình dục nhưng hành vi bóc lột tình dục chưa xảy ra
trên thực tế mà mới chỉ ở mục đích, ý định của người tiếp nhận người. Do đó,
vấn đề bóc lột tình dục đều nằm trong ý định, mục đích của người phạm tội.
Nhưng điểm khác biệt giữa hai tội danh này chính là tính chất trực tiếp hay
gián tiếp của mục đích bóc lột tình dục. Ở tội chứa mại dâm, bóc lột tình dục
là mục đích trực tiếp của người thực hiện hành vi chứa chấp người. Còn với tội
mua bán người, bóc lột tình dục chỉ là mục đích gián tiếp, bởi người thực hiện
hành vi chứa chấp người là để nhằm mục đích trực tiếp là chuyển giao người và
sau đó mới là để bóc lột tình dục. Mặc dù vậy, để phân định rạch ròi giữa hai
tội danh này cũng là vấn đề khó khăn trong thực tiễn bởi sự tương đồng trong
hành vi khách quan và vấn đề bóc lột tình dục nằm trong mục đích phạm tội.
Thứ hai, chưa hoàn toàn tương thích với các chuẩn mực của pháp luật quốc tế và một
số đạo luật khác
Quy định về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ
luật Hình sự Việt Nam hiện hành đang có “khoảng cách” so với Nghị định thư TIP
(Nghị định thư về việc ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung công ước về chống tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia của Liên Hợp Quốc). Theo điểm d Điều 3 Nghị định thư TIP thì trẻ
em là bất kì người nào dưới 18 tuổi. Trong khi Luật trẻ em năm 2016 của Việt
Nam nêu rằng trẻ em là người 16 tuổi. Do đó, nếu nạn nhân dưới 16 tuổi thì tội
phạm mới bị xử lý theo Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015. Giai đoạn từ 16 -
dưới 18 tuổi là giai đoạn phát triển nhạy cảm, hậu quả của tội mua bán người có
thể để lại di chứng về sức khỏe, tâm lý cho nạn nhân nhưng chỉ phải chịu trách
nhiệm nhẹ hơn vì tội mua bán người không có hình phạt tù chung thân như tội mua
bán người dưới 16 tuổi.
Mặt
khác, Bộ luật Hình sự năm 2015 còn xem nhẹ hành vi đưa người di cư trái phép,
trong khi đây là một trong những nội dung có mối liên hệ chặt chẽ và mật thiết
với tội phạm mua bán người. Tội mua bán người theo điều 150 bao gồm trường hợp
nạn nhân bị mua bán trong phạm vi quốc gia và bị mua bán qua biên giới. Còn đưa
người di cư trái phép là việc giao dịch để đạt được trực tiếp hoặc gián tiếp
lợi ích về tài chính hoặc lợi ích vật chất khác từ việc một người nhập cảnh
trái phép vào một quốc gia thành viên, mà người này không phải là công dân của
quốc gia đó hoặc thường trú tại quốc gia đó. Hành vi này thường được tội phạm
lợi dụng nhằm thực hiện thành công hành vi mua bán người. Người di cư trái phép
chỉ nhận ra mình là nạn nhân của mua bán người khi bị bóc lột để thu lợi cho
đối tượng phạm tội, lúc này tội phạm mua bán người cũng đã hoàn thành. Tại Việt
Nam xuất hiện nhiều tuyến trọng điểm của tội phạm mua bán người qua biên giới
như tuyến đường bộ giáp biên giới Trung Quốc, Campuchia. Trong khi đó, pháp luật
hình sự Việt Nam chưa có tội danh đưa người di cư trái phép mà chỉ có tội danh
tội Tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài
trái phép (Điều 349). Điều này là chưa đúng với tinh thần của của Công ước TOC
(Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia) và
Nghị định thư TIP.
Thứ ba, chưa tương thích với thực tế và khó khăn trong quá trình áp dụng
Hiện nay xuất hiện hành vi mới là tình trạng mua bán
thai nhi trong bụng mẹ. Đây là hành vi vô nhân tính cần xử lý nghiêm. Việc mua
bán thai nhi bắt đầu diễn ra từ thời điểm đang mang thai đến khi đứa trẻ chưa
chào đời nên chưa có hậu quả xảy ra dẫn tới khó khăn trong công tác xử lý. Theo
pháp luật hình sự nước ta hiện nay thì chỉ được coi là con người và có quyền
công dân khi mà đứa trẻ được sinh ra, còn khi vẫn đang còn là bào thai trong
bụng mẹ thì chưa thể coi là con người, chưa là đối tượng của hành vi phạm tội,
cho nên cơ quan chức năng không có căn cứ pháp lý để xử lý hành vi mua bán thai
nhi. Đồng thời, Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng chưa có quy định nào về hành vi
mua bán thai nhi trong bụng mẹ để làm cơ sở, căn cứ để xử lý trách nhiệm hình
sự.
Sự phát triển của tội phạm mua bán người dẫn tới
việc hình thành các tổ chức, đường dây quy mô lớn, xuyên biên giới quốc gia,
tinh vi, nguy hiểm và số lượng nạn nhân lớn. Các tổ chức phạm tội núp bóng dưới
danh nghĩa pháp nhân đã được đăng ký kinh doanh. Hiện nay, pháp luật hình sự
Việt Nam đang thiếu quy định nhằm xử lý chủ thể này. Do đó, việc hợp tác quốc
tế trong đấu tranh phòng chống loại tội phạm này gặp khó khăn do xung đột pháp
luật.
Mức phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000
đồng là chưa tương thích. Theo tác giả hình phạt bổ sung này hiện nay đang ở
mức thấp vì “lợi nhuận” thu được từ hành vi mua bán người là rất lớn, cơ quan
tiến hành tố tụng rất khó có thể chứng minh và tịch thu được.
Thứ tư, một số vướng mắc khác
Về tình tiết định khung tăng nặng là hậu quả của
việc thực hiện hành vi mua bán người đối với nạn nhân “gây rối loạn tâm thần và
hành vi” tại điểm c khoản 2, 3 Điều 150, hiện nay việc vận dụng vào thực tế còn
nhiều cách hiểu khác nhau, chưa thống nhất. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao đã hướng dẫn áp dụng các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm
hình sự tại Điều 150 và Điều 151 của Bộ luật Hình sự năm 2015 bằng Nghị quyết
số 02/2019/NQ-HĐTP. Tuy nhiên, tình tiết “gây rối loạn tâm thần và hành vi” vẫn
chưa được Nghị quyết này giải thích một cách cụ thể.
Tại điểm b khoản 3 Điều 150 quy định tình tiết định
khung tăng nặng “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” nhưng trong điều luật lại
không thấy quy định tình tiết định khung tăng nặng “đã bóc lột tình dục” và “đã
cưỡng bức lao động”. Điều này là không thống nhất.
Về tính tiết
“thủ đoạn khác” tại điều 150 cũng dẫn nhiều cách hiểu chưa rõ ràng, đầy đủ và
thống nhất, dẫn đến việc định tội danh gặp nhiều khó khăn.
3. Kinh nghiệm pháp luật một số quốc gia quy định về tội mua bán người
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, việc đẩy mạnh
học hỏi kinh nghiệm, đa dạng hóa nguồn nghiên cứu các nước thuộc các hệ thống
pháp luật khác nhau là cần thiết. Nhóm tác giả tiến hành khảo sát kinh nghiệm
pháp luật của Hoa Kỳ, Trung Quốc, Australia, Canada và Philippines
trong việc quy định về tội mua bán người.
Thứ nhất, kinh nghiệm của Hoa Kỳ
Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ thể hiện ở
hai cấp độ liên bang và tiểu bang. Bộ Tổng luật Hoa Kỳ (Code of Laws of the
United States of America) được xem là văn bản pháp luật hình sự điều chỉnh quan
hệ pháp luật ở cấp độ rộng nhất, cấp độ liên bang. Tội mua bán người được quy
định trong Bộ Tổng luật Hoa Kỳ tại Tiêu đề 1, Chương 77, Điều 1590 và Điều
1591. Bên cạnh đó, Đạo luật bảo vệ nạn nhân buôn người được ban hành năm 2000
cũng đã góp phần hoàn thiện quy định về tội mua bán người trong Bộ Tổng luật
Hoa Kỳ.
Theo quy định tại Điều 1590, Điều 1591
thì tội buôn bán người có hành vi khách quan là tuyển mộ, chứa chấp, vận
chuyển, cung cấp hoặc tiếp nhận cho mục đích lao động cưỡng bức, và các hành vi
mà tuyển mộ, dụ dỗ, chứa chấp, vận chuyển, cung cấp, tiếp nhận, quảng cáo, giữ,
hay lui tới hoặc mua dâm hoặc thu lợi tài chính bằng những vật có giá trị, từ
việc tham gia vào nhóm/tổ chức có những hành vi nêu trên trên với mục đích bóc
lột tình dục.
Pháp luật hình sự Hoa Kỳ không quy định
mục đích “để lấy bộ phận cơ thể người” vào điều luật về tội mua bán người mà có
quy định riêng biệt tại khoản a Điều 274e Tiêu đề 42 Nghiêm cấm mua bán nội
tạng. Tuy nhiên, hướng quy định này khiến những nạn nhân của hành vi lấy bộ
phận cơ thể đồng thời là nạn nhân mua bán người không nhân được sự bảo vệ tương
thích của pháp luật như những nạn nhân của tội mua bán người khác.
Pháp luật Hoa Kỳ cho rằng tính trái ý
muốn của nạn nhân không phải là yếu tố quyết định trong việc định tội đối với
người thực hiện các hành vi trong mặt khách quan của tội mua bán người. Án lệ
giữa Tòa án tối cao bang Indiana và bị đơn là ông Stanton Cephus năm 2013 đã
chứng minh rằng trong trường hợp buôn bán người để bóc lột tình dục, việc nạn
nhân có tiền án liên quan tới mại dâm không phải là yếu tố quyết định nạn nhân
có đồng ý tham gia mại dâm hay không.
Theo pháp luật liên bang, hình phạt của
tội mua bán người bao gồm: phạt tiền, ngồi tù không quá 20 năm, tù chung thân.
Một số tiểu bang của Hoa Kỳ thiết lập hệ thống hình phạt riêng nghiêm khắc hơn
và có quy định trách nhiệm hình sự của tổ chức đối với tội danh này. Luật hình
sự bang Massachusetts quy định hình phạt lên đến 01 triệu đô la đối với doanh
nghiệp thực hiện hành vi mua bán người nhằm mục đích lao động cưỡng bức. Pháp
luật Hoa Kỳ đã ghi nhận hình phạt tù chung thân và quy định phạt pháp nhân
thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội mua bán người. Đây là kinh
nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo.
Thứ hai, kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc là quốc gia có chung đường
biên giới với Việt Nam. Chế độ chính trị, văn hóa - xã hội của hai nước có sự
tương đồng nhất định. Do đó, đây là yếu tố thuận lợi để Việt Nam có thể tham
khảo kinh nghiệm pháp luật của Trung Quốc về tội mua bán người.
Pháp luật hình sự Trung Quốc quy định nghiêm khắc
đối với tội mua bán người. Bộ luật Hình sự Trung quốc năm 2015 quy định cụ thể
tại các Điều 240, 241, 242 và Điều 416.
Bộ luật Hình sự năm 2015 của Trung Quốc
quy định mặt khách quan của tội mua bán người chỉ bao gồm hành vi bóc lột tình
dục, cưỡng bức lao động, lấy nội tạng. Hành vi giao người, nhận tiền thông qua
việc kết hôn không được Bộ luật Hình sự ghi nhận là hành vi khách quan của tội
mua bán người. Việc này gây khó khăn trong cơ chế hợp tác song phương giữa Việt
Nam và Trung Quốc trong bối cảnh vấn nạn “mua vợ” ngày càng nhiều do mất cân
bằng giới tính tại Trung Quốc. Bộ luật Hình sự cũng chỉ quy định hành vi mua bán
phụ nữ và trẻ em mà không áp dụng đối với trường hợp mua bán nam giới.
Trước khi Tu chính án thứ chín ra đời,
người mua phụ nữ hoặc trẻ em bị bắt cóc có thể được miễn hình phạt nếu người
mua không cản trở người phụ nữ trở về nhà theo ý mình hoặc ngược đãi trẻ em
hoặc cản trở đứa trẻ được giải cứu. Tu chính án thứ chín đã bãi bỏ quyền miễn
trừ này.
Mức tối thiểu của hình phạt là 05 năm tù, tối đa là
tù chung thân hoặc tử hình. Song song với việc bị áp dụng hình phạt chính,
người phạm tội còn có thể bị phạt tiền hoặc tịch thu tài sản. Mức độ nghiêm
khắc của hình phạt tại Trung Quốc cao hơn pháp luật hình sự của Việt Nam. Tương
tự như kinh nghiệm pháp luật Hoa Kỳ, Việt Nam có thể tham khảo việc quy định
mức hình phạt đối với tội mua bán người của Trung Quốc để sửa đổi Bộ luật luật
Hình sự năm 2015.
Thứ ba, kinh nghiệm của Australia
Bộ luật Hình sự Australia năm 1995 (sửa
đổi, bổ sung năm 2021) ghi nhận các tội danh liên quan về mua bán người tại 06
điều luật, bao gồm: Điều 271.2 về tội mua bán người; Điều 271.3 về tội mua bán
người có tình tiết tăng nặng; Điều 271.5 về tội buôn bán người trong nước; Điều
271.6 về tội buôn bán người trong nước
có tình tiết tăng nặng; Điều 271.4 về tội mua bán trẻ em và Điều 271.7 về tội
buôn bán trẻ em trong nước.
Bộ luật Hình sự Australia ghi nhận các
hành vi khách quan của loại tội phạm này được như sau:
(i) dùng thủ đoạn đe dọa, lừa dối, ép buộc, cưỡng
bức người khác hoặc tổ chức để người khác nhập cảnh vào Australia hoặc xuất
cảnh khỏi Australia hoặc đưa người đó từ nơi này đến nơi khác trong đất nước
Australia;
(ii) tổ chức hoặc tạo điều kiện cho người khác nhập
cảnh vào Australia hoặc xuất cảnh khỏi Australia hoặc đưa người đó từ nơi này
đến nơi khác trong đất nước Australia mà không quan tâm tới việc người đó có bị
bóc lột, lạm dụng sau khi nhập cảnh hoặc xuất cảnh hay không;
(iii) tổ chức hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho người
khác nhập cảnh vào Australia hoặc xuất cảnh khỏi Australia hoặc đưa người đó từ
nơi này đến nơi khác trong đất nước Australia và lừa dối họ để họ tham gia vào
dịch vụ tình dục hoặc bóc lột họ hoặc tịch thu giấy tờ tùy thân của họ sau khi
nhập cảnh vào hoặc xuất cảnh khỏi Australia;
(iv) tổ chức hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho người
khác nhập cảnh vào Australia hoặc xuất cảnh khỏi Australia hoặc đưa người đó từ
nơi này đến nơi khác trong đất nước Australia và sắp xếp, bố trí cho người đó
tham gia vào việc cung cấp dịch vụ tình dục với thủ đoạn lừa dối về bản chất
thật của việc cung cấp dịch vụ tình dục, về việc họ được tự do trong hoạt động
cung cấp dịch vụ tình dục hoặc họ được tự do lựa chọn không tham gia vào hoạt
động cung cấp dịch vụ tình dục. Người thực hiện hành vi phạm tội thuộc một
trong các trường hợp nêu trên thì bị phạt với mức cao nhất là 12 năm tù. Người
phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt cao nhất đến 20 năm tù giam nếu thuộc
trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết tăng nặng sau: (i) ngay từ ban
đầu đã có mục đích bóc lột nạn nhân; (ii) nạn nhân bị đối xử tàn bạo, vô nhân
đạo hoặc hạ nhục; (iii) nạn nhân bị gây tổn hại nghiêm trọng về sức khỏe hoặc
có nguy cơ tử vong.
So với pháp luật quốc tế, Pháp luật hình sự
Australia về tội buôn bán người có phần rộng hơn khi quy định tội buôn bán
người, bao gồm cả những hành vi có tính chất đưa người di cư trái phép.
Thứ tư, kinh nghiệm của Canada
BLHS Canada quy định tội danh về buôn
người trong một điều luật (Điều 279.01). Việc truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội buôn người đối với người phạm tội khi người đó thực hiện hành vi vì mục
đích bóc lột hoặc tạo thuận lợi cho việc bóc lột nạn nhân mà thực hiện một
trong hai hành vi sau: (i) tuyển mộ, vận chuyển, tiếp nhận, giam giữ, che giấu
hoặc chứa chấp một người; (ii) thực hiện việc kiểm soát, chỉ đạo hoặc tạo ảnh
hưởng đối với hành vi của một người. Người phạm tội có thể bị phạt tù tới 14
năm. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự không bị ảnh hưởng vào sự đồng thuận của
nạn nhân. Đặc biệt, Bộ luật Hình sự Canada (được sửa đổi năm 2004) nổi bật với
quy định Pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự trong đó có tội mua bán người.
Việt Nam có thể tiếp thu kinh nghiệm pháp luật của Canada trong việc ghi nhận
pháp nhân là chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội mua bán người.
Thứ năm, kinh nghiệm của Philippines
Luật phòng, chống buôn bán người của Philippines năm
2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) ghi nhận tội buôn bán người và hình phạt đối
với tội phạm này tại Điều 4. Theo đó, hành vi khách quan của tội buôn bán người
bao gồm:
(i) tuyển mộ, vận
chuyển, chuyển giao hoặc chứa chấp, cung cấp hoặc nhận người bằng bất cứ thủ
đoạn nào, kể cả với lý do tìm kiếm việc làm hoặc đào tạo nghề trong hoặc ngoài
nước nhằm mục đích mại dâm, khiêu dâm, khai thác tình dục, cưỡng bức lao động,
nô lệ, trừ nợ;
(ii) giới thiệu hoặc
tác thành để kết hôn vì tiền, lợi nhuận hoặc lợi ích vật chất, kinh tế đối với
bất kỳ một người nào cho một người nước ngoài với mục đích mua, bán hoặc buộc
người đó tham gia hoạt động mại dâm, khiêu dâm, bóc lột tình dục, cưỡng bức lao
động, nô lệ hoặc trừ nợ;
(iii) mời hoặc ký hợp
đồng kết hôn thật hoặc giả nhằm mục đích mua, bán hoặc buộc họ tham gia vào
hoạt động mại dâm, khiêu dâm, bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, nô lệ hoặc
trừ nợ;
(iv) nhận làm con nuôi hoặc tạo điều kiện cho
việc nhận làm con nuôi bằng bất cứ hình thức nào với mục đích bóc lột hoặc để
tạo điều kiện cho hoạt động mại dâm, khiêu dâm, bóc lột tình dục, cưỡng bức lao
động, nô lệ hoặc trừ nợ;
(v) đảm nhận hoặc tổ
chức các chuyến du lịch và kế hoạch du lịch nhằm các mục đích sử dụng và cung
cấp người cho hoạt động mại dâm, khiêu dâm hoặc bóc lột tình dục;
(vi) giữ hoặc thuê một
người để thực hiện mại dâm hoặc khiêu dâm;
(vii) tuyển mộ, thuê,
nhận làm con nuôi, vận chuyển hoặc bắt cóc một người, bằng cách đe doạ hoặc
dùng vũ lực, gian lận, lừa dối, bạo lực, áp bức hoặc đe dọa nhằm mục đích lấy
đi hoặc bán các bộ phận cơ thể của người đó; (viii) tuyển mộ, vận chuyển hoặc nhận
làm con nuôi một đứa trẻ để đứa trẻ đó tham gia vào các hoạt động vũ trang tại
Philippines hoặc nước ngoài;
(ix) tuyển mộ, vận
chuyển, chứa chấp, chuyển giao hoặc tiếp nhận một đứa trẻ (dưới 18 tuổi hoặc
trên 18 tuổi nhưng không có khả năng chăm sóc hoặc bảo vệ bản thân do bị khuyết
tật hoặc tâm thần) nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, nô lệ khổ
sai, sản xuất, buôn bán ma túy, thực hiện các hoạt động phạm pháp hoặc bán họ
mà không cần bất cứ thủ đoạn nào.[5]
Hình phạt của tội buôn bán người là phạt tù 20 năm
và phạt tiền từ 01 triệu Peso đến 02 triệu Peso. Trường hợp thực hiện một trong
các hành vi nêu trên đối với trẻ em (người dưới 18 tuổi hoặc người dù trên 18
tuổi nhưng không thể tự bảo vệ bản thân do bị khuyết tật hoặc tâm thần) thì bị
phạt tù chung thân và phạt tiền từ 02 triệu Peso đến 05 triệu Peso. Hình phạt
này cũng áp dụng đối với một số trường hợp phạm tội buôn bán có tình tiết tăng
nặng, như tội phạm được thực hiện bởi một tổ chức hoặc có quy mô lớn hoặc khi
người phạm tội là ông bà, cha mẹ, anh chị em ruột, người giám hộ hoặc một người
có quyền lực với người bị buôn bán, thành viên của quân đội hoặc cơ quan thi
hành pháp luật.
Cùng với trách nhiệm hình sự của cá nhân, Luật
Phòng, chống buôn bán người Philippines năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2012),
từ Điều 3 đến Điều 12 của Philippines còn quy định trách nhiệm hình sự và hình
phạt đối với pháp nhân.
Pháp luật của Philippines đã liệt kê một loạt các
hành vi được coi là phạm tội buôn bán người tại Điều 4 Luật Phòng, chống buôn
bán người Philippines năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) một cách cụ thể, rõ
ràng và bao quát, bao gồm cả các trường hợp phạm tội có tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự và quy định hình phạt áp dụng cho từng hành vi phạm tội tại
một điều luật khác. Theo quy định tại Điều 4 Luật phòng, chống buôn bán người
của Philippines thì cấu thành cơ bản của tội buôn bán người được quy định xuất
phát từ định nghĩa về buôn bán người tại Điều 3 của Luật này, gồm ba dấu hiệu
pháp lý, đó là hành vi, thủ đoạn và mục đích, riêng đối với hành vi buôn bán
trẻ em thì không cần dấu hiệu thủ đoạn. Việt Nam có thể nghiên cứu cách thức
quy định chi tiết của Philippines để chỉnh sửa các văn bản hướng dẫn thi hành
Điều 150, Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bên cạnh đó, việc ghi nhận trách
nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội buôn bán người là một điểm nổi bật để
Việt Nam có thể chỉnh sửa quy định và áp dụng.
4. Giải pháp hoàn thiện quy định Bộ luật hình sự về tội mua bán người
Theo
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam (2021):
“…hoàn
thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân
chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp,
tăng cường pháp chế, đảm bảo kỷ cương xã hội.”
Nhà
nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật và coi pháp luật là công cụ hữu
hiệu để thực hiện vai trò quyền lực của mình. Hoạt động của mọi cơ quan, tổ
chức, cá nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật. Trong hệ thống pháp luật thì
pháp luật hình sự, mà cụ thể là Bộ luật Hình sự được coi là một trong những bộ
luật “rường cột” để bảo đảm an ninh, chủ quyền quốc gia và trật tự, an toàn xã
hội. Chính vì thế, sự minh bạch, rõ ràng trong mỗi quy định của Bộ luật Hình sự
cũng như tính đồng bộ, thống nhất của Bộ luật Hình sự với các đạo luật khác
trong hệ thống pháp luật có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự, trong đó có quy
định về tội mua bán người, tội mua bán trẻ em.
Quán
triệt tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam trong
giai đoạn mới, việc hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự cần đáp ứng các yêu
cầu sau: (i) Cần đảm bảo sự rõ ràng trong các quy định của Bộ luật Hình sự và
sự thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế,
thể hiện xu hướng hội nhập quốc tế; (ii) Yêu cầu đảm bảo quyền con người, quyền
công dân được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại chương II; (iii) Đáp ứng yêu cầu
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới
theo chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam; (iv) Yêu cầu phòng, chống tội phạm
trong tình hình hiện nay và tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng chống tội
phạm tại Việt Nam.
Từ
những khó khăn, vướng mắc tại mục 2 và kinh nghiệm một số quốc gia tại mục 3,
nhóm tác giả đề xuất một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về tội mua bán
người với một số nội dung:
Một là, Bộ luật Hình sự cần bổ sung thêm chủ thể chịu trách nhiệm
hình sự là pháp nhân thương mại đối với tội “Mua bán người” nhằm đáp ứng được
thực tiễn tình hình phạm tội có tổ chức chặt chẽ, đa quốc gia hiện nay. Tham
khảo kinh nghiệm pháp luật của Hoa Kỳ, Canada…, nhóm tác giả đề xuất sửa đổi
“Điều 76. Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại” như sau: “Pháp nhân thương mại chỉ
phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm sau đây: 1. Điều 150 (tội mua bán
người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi)...”
Hai là, Bộ luật Hình sự cần bổ sung tình tiết định khung tăng
nặng “đã bóc lột tình dục” và “đã cưỡng bức lao động” để đảm bảo thống nhất
trong điều luật.
Ba là, bổ sung tình tiết định khung tăng nặng về nạn nhân của
Tội mua bán người trong độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi sao cho đúng với tinh
thần của Nghị định thư TIP
Bốn là, cần sửa khoản 4 Điều 150 Bộ luật Hình sự năm 2015 về hình
phạt bổ sung là hình phạt tiền, nâng mức xử phạt từ 20 triệu đồng đến 100 triệu
đồng thành từ 100 triệu đồng đến 300 triệu đồng để đảm bảo tính răn đe, phù hợp
với lợi ích bất chính từ hành vi mua bán người mang lại cho người phạm tội.
Nhóm
tác giả đề xuất sửa đổi Điều 150, Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:
“Điều 150. Tội mua bán người
1. (Giữ nguyên)
2. (Giữ nguyên)
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
c) Đã bóc lột tình dục;
d) Đã cưỡng bức lao động;
đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở
lên;
e) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;
g) Đối với 06 người trở lên;
h) Tái phạm nguy hiểm;
i) Phạm tội đối với
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000
đồng đến 300.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc
tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Điều 151. Tội mua bán người dưới 16 tuổi
1. (Giữ nguyên)
2. (Giữ nguyên)
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở
lên;
d) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
c) Đã bóc lột tình dục;
d) Đã cưỡng bức lao động;
đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở
lên;
e) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;
g) Đối với 06 người trở lên;
h) Tái phạm nguy hiểm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 150.000.000
đồng đến 300.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế từ 01 năm đến 05 năm hoặc
tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Năm là, Bộ luật Hình sự cần bổ sung loại tội mới về hành vi mua
bán thai nhi đang trong bụng mẹ để làm cơ sở cho việc xử lý trách nhiệm hình sự
trước tình hình mua bán diễn ra ngày càng nhiều và tinh vi hiện nay.
Thứ hai, đẩy mạnh hợp tác giữa các quốc gia và đảm bảo sự hài hòa
giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế:
Một là, cần đẩy nhanh tiến độ triển khai nghiên cứu việc gia nhập
Nghị định thư Chống đưa người di cư bất hợp pháp bằng đường bộ, đường biển và
đường hàng không, góp phần triệt phá đường dây tội phạm xuyên biên giới - “cánh
tay phải” của tội phạm mua bán người tại Việt Nam.
Hai là, đẩy mạnh các hoạt động hợp tác
quốc tế về phòng, chống tội phạm mua bán người đặc biệt tại khu vực biên giới.
Thứ ba, ban hành văn bản hướng dẫn để việc áp dụng pháp luật được
thực hiện một cách thống nhất, chính xác, tương thích trong thực tế với một số
nội dung:
Một là, đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm ban hành hướng
dẫn tình tiết “gây rối loạn tâm thần và hành vi” để các cơ quan tiến hành tố
tụng áp dụng thống nhất trong việc xử lý.
Hai là, cần sửa đổi các văn bản hướng dẫn theo xu hướng cụ thể,
phân biệt rạch ròi giữa tội mua bán người với các tội phạm khác trong Bộ luật
Hình sự năm 2015 có sự tương đồng nhất định trong cấu thành tội phạm. Đồng
thời, cần có hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 để truy
cứu trách nhiệm hình sự về một tội hay nhiều tội khi người phạm tội thực hiện
nhiều hành vi có trong cấu thành cơ bản của các tội khác nhau.
Ba là, bổ sung, thống nhất cách hiểu về các “thủ đoạn khác” được
quy định tại điều 150 nhằm định tội danh một cách chính xác và hạn chế việc bỏ
lọt tội phạm.
4. Kết luận
Việc
hoàn thiện quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam về Tội mua bán người có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác đấu tranh, xử lý tội phạm. Trong bài
viết, nhóm tác giả đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về quy định của Bộ
luật Hình sự năm 2015 về Tội mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi trong
thời gian gần đây. Qua đó, các tác giả đã chỉ ra một số bất cập trong quy định.
Trên các bất cập đã phân tích kết hợp với kinh nghiệm pháp luật hình sự của các
nước như: Hoa Kỳ, Trung Quốc, Australia, Canada và Philippines, các tác giả đã đưa ra
những kiến nghị sửa đổi, bổ sung phù hợp nhằm hoàn thiện quy định của của Bộ
luật Hình sự năm 2015 về tội mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi. Bài
viết góp phần cung cấp thêm thông tin pháp lý về tội phạm mua bán người, đóng
góp vào nguồn tư liệu để các nhà làm luật có thể tham khảo trong quá trình xây
dựng, hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự về tội danh này./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản pháp luật
[1]. Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, ngày 27 tháng 11 năm 2015, Điều 150-151.
[2]. Bộ Tổng luật Hoa Kỳ, Tiêu đề 1, Chương 77, Điều 1590 - 1591.
[3]. Bộ luật Hình sự Trung quốc năm 2015, Điều 240-242, 416.
[4]. Bộ luật Hình sự Australia năm 1995 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) Điều 271.2, 271.3, 271.5, 271.6, 271.4, 271.7.
[5] Bộ luật Hình sự Canada, Điều 279.01.
[6]. Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
[7]. Đạo luật bảo vệ nạn nhân buôn người Hoa Kỳ được ban hành năm 2000.
[8]. Luật phòng, chống buôn bán người của Philippines năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2012), Điều 3-12.
[9]. Nghị định thư về ngăn ngừa, trừng trị và trấn áp việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia ngày 15 tháng 11 năm 2000.
[10]. Nghị quyết Hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật hình sự số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11 tháng 01 năm 2019.
Các công trình nghiên cứu
[1]. Cao Văn Mạnh, Quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán người và những vướng mắc, kiến nghị, Tạp chí Tòa án, (13h30 26/4/2022), tapchitoaan.vn
[2]. Hà Minh Quang, Tội mua bán người trong Bộ luật hình sự năm 2015, (Luận văn thạc sĩ Luật học), Trường Đại học Luật Hà Nội (2021).
[3]. Lê Khánh Hòa, Tội mua bán người trong pháp luật hình sự Việt Nam, (Luận văn thạc sĩ Luật Học), trường đại học luật Hà Nội (2018).
[4]. Lê Thị Vân Anh, Tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam, (Luận án tiến sĩ Luật học), Trường Đại học Luật Hà Nội (2022).
[5]. Lê Thị Vân Anh 2021, Đánh giá tính tương thích của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi với quy định của Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, Tạp chí Nghề luật số 03/2021, 53, 53-59, 71 (2021).
[6]. Lê Văn Thanh, Một số vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện quy định về tội ‘Mua bán người’, Tạp chí Luật sư Việt Nam, (22h01 04/06/2022), lsvn.vn
[7]. Ngô Thị Bích Thu, Tăng cường thực hiện pháp luật về phòng, chống tội phạm mua bán người của lực lượng cảnh sát hình sự công an các tỉnh Tây Bắc hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (30/7/2021), www.lapphap.vn
[8]. Nguyễn Thị Hà, Đậu Đình Nam, Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người, Kỷ yếu cuộc thi Nghiên cứu khoa học Euréka năm 2020 (2020).
[9]. Nguyễn Tuấn Anh, Những khó khăn, vướng mắc, nhận thức và áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn, (10h35 27/10/2022), vienkiemsatlangson.gov.vn
[10]. Phạm Minh Tuyên, (2018) Kỹ năng xét xử các vụ án hình sự, NXB Thanh niên, Hà Nội (2018).
[11]. Phạm Minh Tuyên, Thực trạng các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em – Một số vướng mắc và kiến nghị, Tạp chí Tòa án, (09h05 26/02/2018), tapchitoaan.vn
[12]. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam phần các tội phạm Quyển 1, NXB Công an nhân dân, Hà Nội (2018).
[13]. Võ Thị Bích Hà, Một số khó khăn, vướng mắc và giải pháp trong thực tiễn áp dụng pháp luật về các tội “Mua bán người”, “Mua bán người dưới 16 tuổi” trên địa bàn TP Hà Nội, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, (15h55 19/5/2022), vkshanoi.gov.vn
Website
[1]. Bộ Công an, Kết quả công tác phòng, chống tội phạm mua bán người năm 2022, Cổng thông tin điện tử Bộ Công an, (01/02/2023), bocongan.gov.vn
[2]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo Điện tử Chính phủ, (10h03 26/02/2021), baochinhphu.vn
[3]. Đại Thắng, Những đánh giá sai lệch về công tác phòng, chống mua bán người ở Việt Nam, Công an nhân dân online, (07h12 01/8/2022), cand.com.vn
[4]. Lê Anh, Đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu gia nhập Nghị định thư về chống đưa người di cư trái phép, Cổng thông tin điện tử Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (08/7/2022), quochoi.vn
(PLPT) - Bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cạnh tranh về xác định vị trí thống lĩnh thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trên nền tảng số trung gian tại Việt Nam.
(PLPT) - Bài viết đề xuất các giải pháp để hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền con người trong bối cảnh kỷ nguyên công nghệ 4.0.
(PLPT) - Bài viết tập trung phân tích khung pháp luật về chào bán trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản; từ đó, nhận diện những hạn chế trong quy định của pháp luật thực định và thực tiễn thi hành để đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về chào bán trái phiếu riêng lẻ của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong thời gian tới.
(PLPT) - Bài viết tập trung phân tích, đánh giá, làm rõ ý nghĩa của việc phát triển thị trường tín chỉ các-bon trong nước cũng như thực trạng pháp luật Việt Nam về vấn đề này và từ đó đưa ra một số định hướng về phát triển nền tảng pháp lý cho thị trường tín chỉ các-bon ở Việt Nam.
(PLPT) - Bài viết phân tích các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng dễ bị tổn thương, cùng với đó là trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh khi giao dịch với người tiêu dùng dễ bị tổn thương, đặc biệt là trách nhiệm áp dụng cơ chế giải quyết khiếu nại, tranh chấp của đối tượng này.
(PLPT) - Thu hồi Giấy đăng ký hoạt động là một trong các chế tài đối với doanh nghiệp đấu giá tài sản. Chế tài này cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải chấm dứt hoạt động và rút lui khỏi thị trường.