Tóm tắt: Quyền tham gia chính trị và đời sống công, hay còn gọi là quyền tham chính được ghi nhận trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948), và được cụ thể hoá trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966), bao gồm quyền tham gia vào đời sống chính trị và công cộng mà không bị phân biệt đối xử, bình đẳng với những người khác. Quyền tham chính của người khuyết tật được cụ thể hoá trong các quy định tại Công ước về quyền của người khuyết tật. Bảo đảm quyền tham chính của người khuyết tật là biểu hiện của bình đẳng, không phân biệt đối xử, là tiêu chí đánh giá tính dân chủ của một quốc gia. Trên thực tế, người khuyết tật phải đối mặt với nhiều rào cản từ chính sách, pháp luật, tới những rào cản vật lý như tiếp cận địa điểm bầu cử, tiếp cận thông tin, văn hoá – định kiến. Bài viết phân tích những rào cản phổ biến như rào cản về tiếp cận thông tin, rào cản trong định kiến xã hội, sự chưa tương thích trong quy định của pháp luật trong nước với công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật; cũng như ý nghĩa cơ bản của việc đảm bảo quyền tham chính của người khuyết tật, đưa ra phương hướng, một số giải pháp để xoá bỏ rào cản với quyền tham chính của người khuyết tật, trong đó chú trọng giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật nhằm bảo đảm quyền tham chính của người khuyết tật và nâng cao nhận thức không chỉ trong bộ phận người khuyết tật mà cả cộng đồng về năng lực và quyền tham chính của người khuyết tật.
Từ khóa: Quyền tham chính, rào cản, xóa bỏ rào cản, người khuyết tật
Abstract: The 1948 Universal Declaration of Human Rights and the 1966 International Covenant on Civil and Political Rights both mention and specify the right to participate in politics and public life, also known as the right to participate in politics, on an equal basis and without discrimination. The right to participate in politics of persons with disabilities is specified in the provisions of the International Convention on the Rights of Persons with Disabilities (CRPD). Ensuring the right to participate in politics of persons with disabilities is a manifestation of equality, non-discrimination, and a criterion for evaluating a country's democracy. In reality, persons with disabilities face diverse barriers, including institutional, physical, informational, attitudinal and cultural ones, such as inaccessibility of poling stations. In this article, the author analyzes common barriers, such as barriers to access to information, in social prejudice, incompatibility between national legal regulations and CRPD; the fundamental meanings of ensuring the political participation rights of persons with disabilities, and offers some solutions to remove barriers to realize the political participation rights of persons with disabilities, focusing on solutions to improve legal regulations to ensure the right to participate in politics of people with disabiloities (PWDs) and raise awareness not only among PWDs but also in the community about the capacities and right to participate in politics of PWDs.
Keywords: Right to participate in politics, The barrier, remove barriers, Persons with disabilities
I. Khái niệm và ý nghĩa của việc xoá bỏ các rào cản đối với quyền tham chính của người khuyết tật
1.1. Khái niệm người khuyết tật và quyền tham chính của người khuyết tật
Người khuyết tật là một bộ phận dân cư, một nhóm cấu thành trong các xã hội. Ở bất cứ một xã hội nào, trong bất kỳ thời điểm lịch sử nào, cũng tồn tại những người khuyết tật. Người khuyết tật là người có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần gây ảnh hưởng xấu, đáng kể và lâu dài đến khả năng thực hiện các hoạt động của bản thân[1]. Người khuyết tật bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác[2]. Ngoài ra, Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD) không giới hạn khái niệm khuyết tật, thừa nhận rằng khuyết tật là một khái niệm không ngừng phát triển. Vì vậy, ngay cả khi một loại khuyết tật không được nêu tên cụ thể trong Công ước vẫn có thể nằm trong khái niệm khuyết tật[3]. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), người khuyết tật hiện chiếm khoảng 16% tổng số thành viên nhân loại[4].
Năm 1981, Liên hợp quốc đã phát động Năm quốc tế về Người khuyết tật thông qua Chương trình hành động vì Người khuyết tật năm 1982[5], với mục tiêu tới năm 2010 sẽ xác lập một xã hội công bằng cho tất cả mọi người. Đến nay, Liên hợp quốc cùng nhiều tổ chức quốc tế khác đã ban hành nhiều văn kiện nhằm thúc đẩy quyền của người khuyết tật, trong đó đặc biệt là CRPD (được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 13/12/2006, với mục đích nhằm bảo vệ các quyền và nhân phẩm của người khuyết tật.[6]
Quyền của người khuyết tật cũng được thể hiện trong Chương trình hành động về người khuyết tật (1982) của Liên hợp quốc và văn kiện có tên là “Tiêu chuẩn công bằng cơ hội cho người khuyết tật” (1993) của tổ chức này. Ở cấp khu vực, khu vực châu Mỹ có Công ước Liên Mỹ về việc xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với người khuyết tật (năm 1999).
Sự tham gia tích cực của người dân trong tiến trình chính trị thể hiện tính dân chủ của một quốc gia. Quyền tham gia chính trị và đời sống công, hay còn gọi là quyền tham chính được đề cập trong Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948), ai cũng có quyền tham gia chính quyền của quốc gia mình, hoặc trực tiếp, hoặc qua các đại biểu do mình lựa chọn[7], cũng như được thể hiện rõ trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, theo đó quyền tham chính của người khuyết tật bao gồm các quyền cơ bản: quyền bầu cử và quyền ứng cử và quyền tiếp cận dịch vụ công[8]. Đây cũng là những quyền cơ bản của mọi quyền con người trong việc thực hiện các quyền khác, có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới quá trình ra đời các chính sách, pháp luật từ cấp quốc gia tới địa phương[9].
Điều 29 CRPD cũng quy định chi tiết về quyền tham chính của người khuyết tật, gồm quyền tham gia vào đời sống chính trị và công cộng mà không bị phân biệt đối xử, bình đẳng với những người khác, đồng thời kêu gọi các quốc gia thành viên phải đảm bảo các quyền này, cụ thể:
“Quốc gia thành viên phải bảo đảm cho người khuyết tật có các quyền chính trị và cơ hội hưởng các quyền đó trên cơ sở bình đẳng với những người khác, và cam kết:
a. Bảo đảm rằng người khuyết tật có thể tham gia hiệu quả và trọn vẹn vào đời sống chính trị công cộng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua đại diện do họ tự do lựa chọn, theo đó người khuyết tật có quyền và cơ hội bầu cử và được bầu cử…
b. Chủ động thúc đẩy một môi trường cho phép người khuyết tật tham gia một cách hiệu quả và trọn vẹn vào các hoạt động xã hội, một cách không phân biệt đối xử và trên cơ sở bình đẳng với những người khác, và khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động xã hội”.
Những điều khoản khác của CRPD cũng ảnh hưởng tới việc thực thi Điều 29, như quy định tại Điều 6 của Công ước “thừa nhận rằng phụ nữ và các bé gái khuyết tật dễ bị phân biệt đối xử, do vậy quốc gia thành viên phải tiến hành các biện pháp bảo đảm cho họ được hưởng trọn vẹn và bình đẳng các quyền và tự do cơ bản của con người”. Các vấn đề về phụ nữ khuyết tật cũng được đề cập trong các cuộc thảo luận về các biện pháp thúc đẩy thực hiện quyền tham chính của người khuyết tật.
Ngoài ra, quyền tham chính cũng được quy định trong một số công ước về quyền con người khác như Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (Điều 5 (c)), Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (Điều 7 và Điều 8); Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của tất cả người lao động di cư và các thành viên gia đình họ (Điều 41). Quyền tham chính cũng được đưa vào Nghị định thư đầu tiên của Công ước châu Âu về bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản (Điều 3), Công ước châu Mỹ về nhân quyền (Điều 23) và công ước châu Mỹ về quyền con người.[10]
1.2. Ý nghĩa của việc xoá bỏ rào cản đối với quyền tham chính của người khuyết tật
Rào cản có thể được hiểu là tất cả những biện pháp, hành động nào có tác động gây trở ngại, khó khăn cho hoạt động của chủ thể. Xoá bỏ rào cản, chính là xoá bỏ những trở ngại, khó khăn để chủ thể có thể thực hiện hành vi như mình mong muốn. Xoá bỏ rào cản có nghĩa là không một công dân nào có thể bị cản trở hoặc hạn chế về mặt pháp lý hoặc thực tế trong việc hưởng các quyền tham chính này vì lý do chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, ngôn ngữ, quan điểm chính trị…
Xoá bỏ rào cản đối với quyền tham chính của người khuyết tật chính là khẳng định sự bình đẳng và không bị phân biệt đối xử của người khuyết tật. Người khuyết tật có quyền tiếp cận và có quyền tham gia vào đời sống chính trị như bất kỳ công dân nào. Bên cạnh đó, xoá bỏ rào cản còn khẳng định người khuyết tật được bảo đảm quyền tự chủ cá nhân, bao gồm quyền tự do đưa ra lựa chọn của mình và được bình đẳng với những người khác. Cũng theo Điều 29 CRPD, người khuyết tật không chỉ có quyền bầu cử mà còn có cơ hội ứng cử. Việc tiếp cận nơi bầu cử được thể hiện rõ hơn, ví dụ như nơi bầu cử phải tiếp cận với người sử dụng xe lăn, tạo điều kiện thuận lợi, sử dụng các thiết bị hỗ trợ để người khiếm thị có thể bỏ phiếu độc lập, hoặc cho phép người hỗ trợ của người khuyết tật bỏ phiếu.
Xoá bỏ rào cản đối với quyền tham chính của người khuyết tật còn là minh chứng khẳng định người khuyết tật được hoà nhập đầy đủ vào xã hội, không bị bỏ lại phía sau và bình đẳng với công dân khác, hướng tới mục đích thúc đẩy, bảo vệ và bảo đảm cho người khuyết tật được hưởng một cách bình đẳng và đầy đủ tất cả các quyền và tự do cơ bản của con người, và thúc đẩy sự tôn trọng phẩm giá vốn có của họ[11].
Việc xoá bỏ rào cản này không chỉ mang lại những giá trị nhất định cho người khuyết tật mà còn mang lại giá trị cho toàn xã hội[12].
Quyền bầu cử và ứng cử được coi là quyền chính trị quan trọng đối với mọi công dân, trong đó có người khuyết tật. Mọi người có quyền bầu những đại diện cho mình vào các vị trí trong cơ quan quyền lực nhà nước, hoặc có thể tự ứng cử bản thân mình vào vị trí trong cơ quan quyền lực nhà nước, thực thi quyền lập pháp và quyền hành pháp.
Điểm a Điều 25 Công ước quốc tế về quyền dân sự chính trị khẳng định mọi công dân đều tham gia điều hành các công việc xã hội một cách trực tiếp hoặc thông qua những đại diện do họ tự lựa chọn. Có thể hiểu quy định này là thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và hành chính, là các khía cạnh của hành chính công. Công dân tham gia trực tiếp vào việc điều hành các vấn đề công khi họ thực thi quyền lực với tư cách là thành viên của các cơ quan lập pháp hoặc hành pháp. Sự tham gia thông qua các đại diện được thực hiện chủ yếu thông qua việc thực hiện quyền biểu quyết[13]
Như vậy, sự tham gia của người khuyết tật vào đời sống chính trị, công cộng và xã hội là rất quan trọng, nhằm chống lại những định kiến, và sự thiếu hoà nhập. Việc phá bỏ rào cản này cũng khẳng định sự tôn trọng quyền của người khuyết tật và lồng ghép khuyết tật vào khuôn khổ pháp lý và chính sách, phản ánh nhu cầu tốt hơn của tất cả mọi người trong cộng đồng[14].
II. Các rào cản về chính sách, pháp luật đối với quyền tham chính của người khuyết tật
Quyền tham chính của người khuyết tật được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế. Có rất ít quốc gia thu thập dữ liệu về người khuyết tật nên rất khó ước tính mức độ tham gia chính trị thực tế của người khuyết tật tại các quốc gia tham gia OSCE[15]. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều nghiên cứu đã cho thấy người khuyết tật có xu hướng ít tham gia vào các hoạt động chính trị[16]. Điều này một phần là do các rào cản tới từ khía cạnh chính sách, pháp luật. Điều 12 (2) CRPD khẳng định “các quốc gia thành viên thừa nhận rằng người khuyết tật được hưởng năng lực pháp lý dựa trên cơ sở bình đẳng với những người khác trong mọi lĩnh vực của cuộc sống”. Vì vậy, các quốc gia thành viên tiến hành mọi biện pháp cần thiết để giúp người khuyết tật tiếp cận với sự trợ giúp mà họ có thể cần đến khi thực hiện năng lực pháp lý của mình[17]. Điều 29 CRPD quy định quyền bầu cử và ứng cử, theo đó, quy định này áp dụng cho mọi người khuyết tật, bất kể dạng tật nào, mức độ khuyết tật nào. Uỷ ban CRPD cũng lưu ý rằng “khả năng ra quyết định của một người không thể là lí do biện minh cho việc loại trừ người khuyết tật ra khỏi việc thực hiện các quyền chính trị của họ, bao gồm cả quyền được bầu cử, quyền ứng cử và quyền làm thành viên bồi thẩm đoàn”[18]. Việc bỏ phiếu không chỉ làm tăng sự tham gia chính trị của những người thuộc các nhóm yếu thế, mà sự thành công trong bầu cử của những người thuộc các nhóm này có thể tác động tích cực đến mức độ bỏ phiếu giữa các thành viên của họ[19].
Tuy nhiên, trên thực tế, ở một số quốc gia, pháp luật vẫn còn những khoảng trống, chưa đảm bảo quyền tham chính của người khuyết tật, bao gồm quyền bầu cử và ứng cử. Một số tiêu chuẩn của người ứng cử đại biểu Quốc hội đã vô hình chung tước bỏ quyền tự ứng cử của người khuyết tật. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân của Việt Nam, Luật Tổ chức Quốc hội có quy định: người ứng cử đại biểu Quốc hội phải đáp ứng các tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, như: Có trình độ văn hoá, chuyên môn, có đủ năng lực, sức khoẻ, kinh nghiệm công tác và uy tín để thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội[20]. Quy định về tiêu chí có đủ sức khoẻ là tiêu chí hạn chế quyền tự ứng cử của người khuyết tật, vì theo quy định về người khuyết tật, là những người bị “suy giảm khả năng lao động”, như vậy được hiểu là không đủ sức khoẻ. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu khoa học, khuyết tật và sức khoẻ là hai phạm trù hoàn toàn tách biệt nhau, không đồng nhất. Không phải cứ là người khuyết tật nghĩa là không có sức khoẻ[21] Pháp luật ở một số nước không cho phép người khuyết tật trí tuệ được bầu cử vì họ cho rằng người khuyết tật trí tuệ không hiểu bầu cử là gì[22]. Đạo luật bầu cử của Kenia quy định rằng những người có tâm trí không lành mạnh (người khuyết tật trí tuệ) không thể bỏ phiếu hoặc ứng cử vào các vị trí bầu cử, điều đó có nghĩa những người khuyết tật trí tuệ bị cấm tham gia bầu cử. Điều này cũng được thực hiện tại Ai Cập, Indonesia, pháp luật cấm người khuyết tật trí tuệ bỏ phiếu[23].
Quy định về thủ tục, tiếp cận để người khuyết tật bảo đảm thực hiện quyền tham chính được quy định cụ thể tại Điều 29 CRPD. Theo đó, Công ước bảo đảm cho người khuyết tật quyền tham gia vào đời sống chính trị và công cộng, cũng như tham gia điều hành các vấn đề công cộng. Người khuyết tật sẽ không thể thực hiện được các quyền này nếu các quốc gia thành viên không đảm bảo bằng các thủ tục, cơ sở vật chất, tài liệu bầu cử phù hợp, dễ tiếp cận, dễ hiểu và dễ sử dụng. Khả năng tiếp cận là một nghĩa vụ cụ thể, bao gồm nghĩa vụ bảo đảm rằng tất cả các đơn vị cung cấp dịch vụ công đều tính đến khả năng tiếp cận và đào tạo cho các bên liên quan về khả năng tiếp cận. Điều đó cũng có nghĩa là các nhà hoạch định chính sách phải lường trước nhu cầu của người khuyết tật, ví dụ như phải đảm bảo nơi bầu cử tiếp cận với các dạng tật, phiếu bầu cử phải có ký hiệu chữ nổi để người khiếm thị có thể sử dụng được, phương thức bầu cử phải thuận tiện, phù hợp với người khuyết tật… Thực tế vẫn còn tình trạng tài liệu hướng dẫn bầu cử chưa được thiết kế dưới dạng chữ nổi hay dưới dạng sách nói để tiếp cận với người khiếm thị, thiếu lá phiếu bằng chữ nổi và cấm đưa người hỗ trợ vào điểm bỏ phiếu[24]. Ở một số quốc gia thành viên EU, không thể tiếp cận được các thủ tục dành cho người khuyết tật để yêu cầu hỗ trợ hoặc trợ giúp bỏ phiếu. Tương tự, những người sống trong các cơ sở chăm sóc lâu dài có thể bị hạn chế quyền bầu cử do thiếu cơ chế cho phép họ bầu cử[25].
Một trong những biểu hiện của quyền tham gia vào đời sống công cộng là việc số lượng người khuyết tật được bầu vào các cơ quan quyền lực công. Tuy nhiên, trên thực tế, số lượng người khuyết tật được bầu vào các cơ quan quyền lực công còn rất hạn chế. Trong vòng 10 năm từ 2006 – 2016, kể từ khi CRPD ra đời, đã có 14 quốc gia có chính trị gia là người khuyết tật đại diện trong các cơ quan dân cử, bao gồm: Argentina, Ba Lan, Canada, Ecuado, Estonia, Fiji, Hungary, Mỹ, New Zealand, San Marino, Scottland, Sri Lanka, Thái Lan, Úc. Riêng tại Mỹ, theo thống kê do đại học Rutgers công bố, 10,3% nghị sĩ ở các cấp tại Mỹ - khoảng 3.800 người là người khuyết tật[26]. Tại Việt Nam, chưa ghi nhận báo cáo nào thể hiện số lượng đại biểu là người khuyết tật tham gia tất cả các nhiệm kỳ của Quốc hội hay Hội đồng nhân dân các cấp, do trong hồ sơ đăng ký đại biểu Quốc hội, không có đề mục thông tin nào về khuyết tật[27]
III. Các rào cản khác đối với quyền tham chính của người khuyết tật
Ngoài rào cản về chính sách, pháp luật, người khuyết tật còn đối diện với những rào cản khác để thực hiện quyền tham chính của mình, đó là rào cản vật lý (như tiếp cận địa điểm bầu cử) và tiếp cận thông tin.
3.1. Rào cản vật lý
Rào cản vật lý có thể hiểu đó là những rào cản liên quan tới tiếp cận, hạn chế sự di chuyển của người khuyết tật như tiếp cận địa điểm bỏ phiếu, tiếp cận với các tài liệu hướng dẫn bầu cử, ứng cử. Rào cản vật lý này đã được quy định tại CRPD, theo đó, đảm bảo quyền tiếp cận là quyền không bị phân biệt đối xử, và nghĩa vụ đặt ra đối với quốc gia là phải ban hành luật cấm phân biệt đối xử dựa trên tình trạng khuyết tật. Điều 2 Công ước CRPD khẳng định “cung cấp điều chỉnh hợp lý có nghĩa là sự thay đổi hoặc chỉnh sửa không gây ra gánh nặng không tương xứng hoặc quá đáng, khi điều đó là cần thiết trong một trường hợp cụ thể, đề bảo đảm cho người khuyết tật hưởng hoặc thực hiện các quyền cơ bản của con người trên cơ sở bình đẳng với những người khác”; “Thiết kế phổ dụng có nghĩa là thiết kế sản phẩm, môi trường, chương trình và dịch vụ để mọi người đều có thể sử dụng tới mức tối đa mà không cần cải tạo hoặc thiết kế chuyên biệt. Thiết kế phổ dụng không loại trừ những thiết bị hỗ trợ cho các nhóm người khuyết tật cụ thể khi cần thiết”. Như vậy, cơ quan phụ trách bầu cử phải đảm bảo tuân thủ ở mọi cấp độ, bao gồm nghĩa vụ tiếp cận theo quy định tại Điều 9 CRPD, như toà nhà - địa điểm bầu cử, cơ sở vật chất/trang thiết bị trong và ngoài địa điểm bầu cử; và nghĩa vụ bảo vệ, tôn trọng và thực hiện quyền không phân biệt đối xử trong các trường hợp cụ thể, bao gồm cả việc cung cấp điều chỉnh hợp lý được quy định tại Điều 5 của Công ước.
Sau khi CRPD ra đời, các quốc gia thành viên đã có những hành động nhằm cải thiện đáng kể hệ thống bầu cử và địa điểm bầu cử dễ tiếp cận vật lý với người khuyết tật, bao gồm nhiều dạng tật khác nhau. Hầu hết các quốc gia thành viên EU đều có tiêu chuẩn về khả năng tiếp cận đối với việc xây dựng và cải tạo các toà nhà công cộng, trong khi khoảng một nửa có tiêu chuẩn về khả năng tiếp cận đối với các điểm bỏ phiếu. Tuy nhiên rất khó để đánh giá mức độ thực hiện đúng các tiêu chuẩn này do thiếu dữ liệu, hoặc thiếu các tiêu chí nhất quán để đánh giá khả năng tiếp cận tập trung vào nhu cầu của người khuyết tật thể chất mà không quan tâm đến những người khuyết tật khác[28]. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng quốc gia chưa đảm bảo hệ thống bầu cử, cơ sở vật chất và tài liệu bầu cử tiếp cận được với người khuyết tật, đặc biệt là người khuyết tật trí tuệ, người khiếm thị… Có những công trình được xây dựng vào thời điểm chưa có quy chuẩn kiến trúc tiếp cận, hoặc thậm chí có quy chuẩn tiêu chuẩn tiếp cận nhưng trên thực tế lại không sử dụng được. Nó bao gồm việc không có đường dốc cho người sử dụng xe lăn di chuyển, không có người phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu, hoặc không có các công nghệ hỗ trợ người khuyết tật bầu cử, lá phiếu chưa có chữ nổi để tiếp cận với người khiếm thị hoặc cấm đưa người hỗ trợ vào địa điểm bầu cử[29]. Rào cản này đã khiến tỉ lệ cử tri là người khuyết tật đi bỏ phiếu thấp. Việc xếp hàng chờ đợi tới lượt bỏ phiếu cũng tạo ra sự mệt mỏi đối với mọi người, trong đó có người khuyết tật. Có những dạng khuyết tật vận động, khiến người khuyết tật không thể đứng lâu ở một vị trí, trong khi phải xếp hàng chờ đợi trong thời gian dài tới lượt như vậy sẽ ảnh hưởng tới sức khoẻ của người khuyết tật. Điều này có thể dẫn tới tình trạng người khuyết tật không tự mình tham gia bầu cử mà sẽ uỷ nhiệm cho người khác tham gia. Vì vậy cần phải có phòng chờ phù hợp với thể trạng của người khuyết tật, hoặc đối với người khuyết tật, cần có những biện pháp/phương pháp/cách thức phù hợp hơn, như không phải xếp hàng/không phải chờ đợi trong một thời gian dài để tới lượt được bỏ phiếu bầu. Đối với người khuyết tật trí tuệ, người khiếm thị , tài liệu hướng dẫn bầu cử không được cung cấp ở định dạng dễ tiếp cận, hoặc nội dung thông tin phức tạp, sẽ ảnh hưởng tới quyền quyết định của người khuyết tật. Đối với người khuyết tật, đặc biệt là khuyết tật trí tuệ sống trong các trung tâm bảo trợ, không sắp xếp để người khuyết tật được tới địa điểm bỏ phiểu[30].
Rào cản vật lý thứ hai chính là rào cản trong việc tiếp cận thông tin. Trước hết, đó là thông tin pháp luật liên quan tới bầu cử. Người khuyết tật thường là nhóm đối tượng hạn chế trong tiếp cận thông tin, hạn chế trong tiếp cận giáo dục, những thông tin pháp luật nói chung, thông tin pháp luật về bầu cử nói riêng là những thông tin không phải người khuyết tật nào cũng tiếp cận được, cũng hiểu được, thậm chí cũng không hiểu những quy định liên quan tới quyền bầu cử và ứng cử. CRPD yêu cầu thông tin, thông tin liên lạc và các tài liệu phải có thể truy cập được, bao gồm cả những thông tin liên quan đến bầu cử:
“f. Tăng cường các hình thức trợ giúp thích hợp khác cho người khuyết tật để. bảo đảm cho họ tiếp cận thông tin.
g. Khuyến khích người khuyết tật tiếp cận thông tin và công nghệ, hệ thống liên lạc mới, trong đó có Internet”.
Để đạt được mục tiêu này, các quốc gia cần có nghĩa vụ thúc đẩy sự trợ giúp và hỗ trợ người khuyết tật để đảm bảo khả năng tiếp cận thông tin của họ và thúc đẩy khả năng tiếp cận với công nghệ mới. Như vậy, trong các cuộc bầu cử, điều quan trọng là cử tri phải nhận được đầy đủ thông tin, bao gồm cả thông tin về cách thức bầu cử từ các nguồn tin đáng tin cậy, tránh tình trạng những tin giả được lan truyền trên internet.
3.2. Rào cản tiếp cận thông tin
Việc thiếu thông tin về các ứng cử viên cũng là rào cản khiến người khuyết tật không thực hiện triệt để quyền bầu cử của mình. Việc cung cấp thông tin không đầy đủ hoặc không cung cấp thông tin về ứng viên khiến cử tri không thể bỏ phiếu bầu cho ứng viên phù hợp[31]. Ở Việt Nam, Luật Tiếp cận thông tin được ra đời năm 2016, trở thành khung pháp lý cơ bản trong việc thúc đẩy thực hiện quyền tiếp cận thông tin của các nhóm yếu thế trong xã hội. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân cũng chỉ rõ, những thông tin cơ bản của các ứng viên phải được công khai tới các cử tri. Tuy nhiên, trên thực tế, những thông tin liên quan tới các ứng viên lại chỉ đơn giản là những thông tin về nhân thân, trình độ học vấn, mà những thông tin này chưa đủ để cử tri nói chung và cử tri là người khuyết tật nói riêng hiểu về những ứng cử viên này và quan điểm chính trị[32]để có thể lựa chọn là đại biểu đại diện cho quyền lợi của mình. Bên cạnh đó, đặc biệt là ở những vùng sâu vùng xa, nơi có điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế, tình hình dân trí thấp, người khuyết tật bị hạn chế rất nhiều trong việc tiếp cận thông tin[33]. Điều này cũng tương đồng tại Mexico, không có thông tin ở dạng dễ đọc và các lá phiếu không có hình ảnh nên gây bất lợi cho người khuyết tật không biết đọc[34].
Nhiều quốc gia thành viên EU đã thiết lập các yêu cầu về khả năng tiếp cận hợp pháp đối với các nhà cung cấp thông tin qua internet và các phương tiện truyền thông phát sóng. Tuy nhiên trên thực tế, dữ liệu hiện có cho thấy người khuyết tật hầu như không thể tiếp cận các phương tiện truyền thông liên quan đến bầu cử. Ở hầu hết các quốc gia thành viên , trang web chính thức cung cấp hướng dẫn bỏ phiếu và thông tin về các ứng cử viên không nêu rõ rằng nó đáp ứng tiêu chuẩn nguyên tắc truy cập nội dung Web (WCAG) của World Wide Web Consortium về khả năng truy cập internet[35].
3.3. Rào cản về thái độ
Rào cản thứ ba là rào cản về thái độ. Đoạn mở đầu của CRPD (e) đã khẳng định “thừa nhận rằng khuyết tật là một khái niệm luôn tiến triển và sự khuyết tật xuất phát từ sự tương tác giữa người có khuyết tật với những rào cản về môi trường và thái độ, những rào cản này phương hại đến sự tham gia đầy đủ và hữu hiệu của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác. Công ước khẳng định thái độ tôn trọng quyền của người khuyết tật là một trong những mục tiêu được hướng đến trong hệ thống giáo dục.
Vẫn còn tình trạng coi người khuyết tật là ngoài lề của xã hội, là những đối tượng cần sự thương hại của xã hội, hay nhận định người khuyết tật sẽ không làm được việc gì và chỉ nên ở trong nhà. Thậm chí ở châu Á còn tồn tại quan điểm “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”, khuyết tật là hậu quả của việc sống không có đạo đức ở kiếp trước nên kiếp này phải gánh chịu, hay gia đình có người khuyết tật có nghĩa là kiếp trước gia đình này đã sống không tốt… Những thái độ kỳ thị như vậy đối với người khuyết tật đã khiến bản thân người khuyết tật thêm tự ti, không dám tham gia vào xã hội, không thực hiện quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền tham chính. Phần lớn sự kỳ thị trong quá trình bầu cử xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của các quan chức bầu cử về người khuyết tật nói chung, người khuyết tật trí tuệ nói riêng. Có quan điểm cho rằng chỉ người khuyết tật vận động hoặc người khiếm thị mới là những người khuyết tập phù hợp để tham gia bầu cử, ứng cử[36]. Có quan điểm cho rằng người khuyết tật trí tuệ sẽ không thể có đủ năng lực, vì vậy việc bỏ phiếu của họ dựa trên sự hiểu biết chưa đầy đủ, dẫn tới việc làm mất tính hợp pháp của kết quả bầu cử.
IV. Một số giải pháp xoá bỏ các rào cản đối với quyền tham chính của người khuyết tật
Như tác giả đã phân tích ở trên, người khuyết tật đối diện với nhiều rào cản khác nhau để thực hiện quyền tham chính của mình, rào cản về chính sách , pháp luật, hay rào cản về mặt vật lý, tiếp cận. Bảo đảm quyền tham chính của người khuyết tật là đảm bảo thực hiện các đạo luật quốc tế về quyền của người khuyết tật mà các quốc gia thành viên đã ký kết và tham gia, và cũng là một trong những yếu tố đánh giá tính dân chủ của một quốc gia. Để xoá bỏ những rào cản nói trên đối với quyền tham chính của người khuyết tật, các quốc gia cần phải thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ của mình đối với người khuyết tật, cũng như thể chế hoá các quy định của CRPD vào các chính sách của quốc gia.
Người khuyết tật phải có quyền tiếp cận và cơ hội tham gia vào đời sống chính trị như bất kỳ công dân được trao quyền nào khác. Việc xoá bỏ các rào cản không chỉ mang lại lợi ích cho người khuyết tật mà còn cho toàn xã hội, tạo sự bình đẳng hơn đối với những cộng đồng ít có các đại diện, đảm bảo sự hoà nhập hơn[37]
Thứ nhất, cần phải nâng cao nhận thức về quyền tham gia chính của người khuyết tật tới các chủ thể quan trọng như các đại diện của cơ quan bầu cử, các cơ quan quyền lực, các đơn vị cung cấp phương tiện truyền thông về cách thực hiện quyền tham gia chính trị của người khuyết tật. Đó chính là việc cần phải thông tin đầy đủ các nội dung của CRPD tới các chủ thể có liên quan, về bình đẳng với người khuyết tật, không phân biệt đối xử vì lí do khuyết tật[38] và những nguyên tắc cốt lõi của Công ước. Các tổ chức của và vì người khuyết tật đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức cho các bên liên quan về quyền của người khuyết tật và tiếp tục làm như vậy thông qua việc phát triển hơn nữa các cơ chế tham vấn ở tất cả các cấp chính quyền[39].
Thứ hai, không chỉ nâng cao nhận thức về quyền tham chính của người khuyết tật tới những chủ thể có liên quan, mà cần nâng cao nhận thức cho bản thân người khuyết tật, đặc biệt là những người khuyết tật nặng, giúp họ nhận thức được quyền của mình, chủ động thực hiện quyền của mình.
Thứ ba, nâng cao năng lực của các bên liên quan về trách nhiệm trong việc bảo đảm tiếp cận cho người khuyết tật. Năng lực trong việc xây dựng địa điểm bầu cử tiếp cận với nhiều dạng tật; năng lực trong việc ban hành các tài liệu hướng dẫn bầu cử đơn giản, dễ sử dụng, có chữ nổi để người khiếm thị tiếp cận được.
Thứ tư, các tài liệu hướng dẫn quy trình bầu cử, tài liệu giới thiệu về các ứng cử viên cần đơn giản, đầy đủ thông tin và dễ tiếp cận. Lá phiếu bầu cần bảo đảm có chữ nổi để người khiếm thị có thể tiếp cận được.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung, thay thế văn bản pháp lý cần thiết để đảm bảo tất cả người khuyết tật đều có quyền bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử. Văn bản quy phạm pháp luật về bầu cử cần có quy định cụ thể về tỉ lệ đại biểu Quốc hội là người khuyết tật. Bên cạnh đó, Luật có thêm quy định cho phép sử dụng phiếu bầu bằng chữ nổi, và cho phép người hỗ trợ người khuyết tật đi cùng vào khu vực bỏ phiếu bầu.
Thứ sáu, đảm bảo địa điểm bầu cử tiếp cận với người khuyết tật. Điều này bao gồm việc phòng cầu cử ở tầng trệt hoặc cần có lối đi tiếp cận với người khuyết tật. Vị trí để hòm phiếu bầu cần tiếp cận với người khuyết tật, nhất là người khuyết tật đi xe lăn, người tí hon. Bên cạnh đó, cần đảm bảo quyền tiếp cận thông tin về bẩu cử cho người khuyết tật.
Thứ bảy, các tổ chức người khuyết tật cần tham gia mạnh mẽ hơn trong việc thúc đẩy cơ hội thực hiện quyền tham chính của người khuyết tật bằng cách xây dựng và triển khai kế hoạch đào tạo nâng cao năng lực cho những người khuyết tật đủ tiêu chuẩn để ứng cử trở thành đại biểu.
Thứ tám, hỗ trợ, tạo điều kiện để người khuyết tật tham gia ứng cử đại biểu. Phối hợp với các tổ chức người khuyết tật và các cơ quan liên quan khác, từng bước hỗ trợ người khuyết tật hoàn thành các thủ tục ứng cử.
V. Kết luận
Quyền tham chính được ghi nhận trong không chỉ các văn bản quốc tế mà còn quy định cụ thể trong các quy định pháp luật trong nước. Ở Việt Nam, Điều 28 Hiến pháp năm 2013 cũng chỉ ra, công dân có quyền tham gia quản lí nhà nước, nhà nước cần có trách nhiệm trong việc bảo đảm và thúc đầy quyền tham gia quản lí nhà nước của người dân. Điều này có nghĩa là người khuyết tật cũng được tạo điều kiện để thực hiện quyền tham gia quản lí nhà nước. Tuy nhiên, trên thực tế, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, người khuyết tật gặp nhiều khó khăn, rào cản trong việc thực hiện quyền tham chính của mình. Rào cản đầu tiên phải kể đến là quy định của pháp luật quốc gia, việc quy định các tiêu chuẩn về Đại biểu Quốc hội đã vô hình chung tước đi quyền được ứng cử của người khuyết tật. Bên cạnh đó, còn phải kể tới rào cản về vật lý, bao gồm tiếp cận địa điểm và tiếp cận thông tin, đặc biệt là thông tin về pháp luật liên quan tới bầu cử. Việc những rào cản về vật lý này đã khiến người khuyết tật không thể thực hiện được quyền của mình. Rào cản thứ ba, là thái độ, vẫn còn tình trạng nhận định người khuyết tật là bộ phận dư thừa của xã hội và không có năng lực, khả năng để tham gia vào đời sống xã hội. Những thái độ này là biểu hiện của sự kỳ thị, khiến người khuyết tật thêm tự ti, không dám lên tiếng.
Quốc hội là cơ quan có tính đại diện và quyền lực cao nhất để đảm bảo pháp luật công bằng, dân chủ và lành mạnh. Công tác lập pháp và chính sách có tác động mạnh mẽ tới cuộc sống người khuyết tật, thể hiện rõ các quyền mà người khuyết tật được hưởng, cũng như tạo ra lá chắn chống lại sự phân biệt đối xử trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội[40]. Việc người khuyết tật được đảm bảo quyền tham gia chính trị là một trong những tiêu chí thể hiện nền dân chủ của một quốc gia. Sau khi ICCPR và CRPD ra đời, các quốc gia thành viên đã có những chương trình, kế hoạch từng bước hiện thực quyền tham chính của người khuyết tật. Tuy nhiên, vẫn còn những rào cản nhất định ảnh hưởng tới việc thực hiện quyền tham chính của người khuyết tật. Để bảo đảm quyền bình đẳng và không bị phân biệt đối xử của người khuyết tật, cần phải xoá bỏ những rào cản này, phải có các giải pháp như nâng cao nhận thức và năng lực về quyền tham chính không chỉ cho chính người khuyết tật mà cần phải tác động tới chính các thành viên cơ quan quản lý nhà nước và các đại biểu Quốc hội, bên cạnh việc các chính sách, quy định của pháp luật cần đảm bảo sự tiếp cận về quy trình bầu cử, địa điểm tiến hành bầu cử, phương tiện giao thông đến nơi bầu cử đối với người khuyết tật…
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966
2. Công ước về quyền của người khuyết tật
3. Đạo Luật phân biệt đối xử với người khuyết tật, Vương quốc Anh
4. Disabilities, From Exclusion to Equality, chapter 2
5. Elizabeth Evans Goldsmiths, University of London & Dr Stefanie Reher, University of Strathclyde: Barries to Eleected Office for Disabled People
6. European Union Agency for fundamental rights, 2014: The right to political participation of person with disabilities
7. Fishkin, Joseph, (2011), Quyền công dân bình đẳng và quyền bầu cử của cá nhân. Tạp chí Luật Indiana, 86(4). Pp.1289-1360
8. Guidelines on Promoting the Political Participation of Persons with Disabilities, OSCE, ODHR, 2019
9. Hà Trọng Bắc, Bảo đảm hiệu quả quyền tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội, Tạp chí Toà án nhân dân (31/5/2023) https://tapchitoaan.vn/bao-dam-hieu-qua-quyen-tiep-can-thong-tin-cua-nhom-doi-tuong-yeu-the-trong-xa-hoi8649.html
10.Inaccessibility of Electoral Processes, European disability forum; https://www.edf-feph.org/political-participation-policy/
11.Luật Tổ chức Quốc hội, 2014
12.Mitzi Waltz and Alice Schippes, Politically disabled: barriers and facilitating factors affecting people with disabilities in political life within the European Union; Taylor and Francis online, Disability and Society, Volume 36,2021-Issue 4
13.OSCE- ODIHR, Person with disabilities and Ensuring their right to participate in Political and Public life, page 78
14.Rabia Belt, ‘Contemporary Voting Rights Controversies Through the Lens of Disability’, Stanford Law Review, Vol 68, (2016).
15.FRA, European union agency for fundamental rights, The right to political participation of person with disability, 2014 Sumary
16.The convention on the right of person with disabilities CRPD_Training Guide, No 19
17.Theo Hội bảo trợ Người khuyết tật và trẻ mồ côi Việt Nam (http://asvho.vn/m6O-co-so-du-lieu-ve-nguoi-khuyet-tat-nhung-van-de-con-bat-cap ), truy cập ngày 20/02/2024
18.Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền
19.UN Committee on the Rights of Persons with Disabilities, General Comment No. 1 ‘Article 12: Equal recognition before the law’ adopted 19 May 2014
20.United Nations, General Assembly 21 December 2011, Thematic study by the Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights on participation in poloitical and public life by person with disabilities
21.UNDP, Political participation of persons with intellectual or psychosocial disabilities, 2021
22.UNDP, Tháng 5 năm 2021: Báo cáo đánh giá nhanh về mức độ sẵn sàng của người khuyết tật ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
23.Wiliam P.Alford, Matthew S.Smith, and Michael AshlayStein, “The right to political Participation of person with Intellectual Disabilities”, Special Olympics, Global center for inclusion in education
* ThS. Nguyễn Ngọc Lan – NCS khoa Luật Hiến Pháp – Luật Hành Chính, trường Đại học Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội - Giảng viên trường Đại học Đại Nam
[1] Đạo luật Phân biệt đối xử với người khuyết tật của vương quốc Anh
[2] Điều 1 CRPD (2006).
[3] Guidelines on Promoting the Political Participation of Persons with Disabilities, OSCE, ODHR, 2019, p20
[4] Theo Hội bảo trợ Người khuyết tật và trẻ mồ côi Việt Nam (http://asvho.vn/m6O-co-so-du-lieu-ve-nguoi-khuyet-tat-nhung-van-de-con-bat-cap), truy cập ngày 20/02/2024
[5] Disabilities, From Exclusion to Equality, chapter 2, page 9.
[6] The convention on the right of person with disabilities CRPD_Training Guide, No 19, page 21
[7] Điều 21 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948)
[8] Điều 25 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, 1966
[9] Fishkin, Joseph, Quyền công dân bình đẳng và quyền bầu cử của cá nhân, Tạp chí Luật Indiana, 86(4). Pp.1289-1360 (2011)
[10] United Nations, General Assembly 21 December 2011, Thematic study by the Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights on participation in poloitical and public life by person with disabilities. Page 3.
[11] Điều 1 CRPD
[12] Guidelines on Promoting the Political Participation of Persons with Disabilities, OSCE, ODHR, 2019, p42
[13] United Nations, General Assembly 21 December 2011, Thematic study by the Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights on participation in poloitical and public life by person with disabilities. Page 4
[14] OSCE- ODIHR, Person with disabilities and Ensuring their right to participate in Political and Public life, page 5
[15] OSCE- ODIHR, Person with disabilities and Ensuring their right to participate in Political and Public life, page 7
[16] Dr Elizabeth Evans Goldsmiths, University of London & Dr Stefanie Reher, University of Strathclyde: Barries to Eleected Office for Disabled People, page 6
[17] Điều 12(2) CRPD
[18] UN Committee on the Rights of Persons with Disabilities, General Comment No. 1 ‘Article 12: Equal recognition before the law’ adopted 19 May 2014
[19] Mitzi Waltz and Alice Schippes, Politically disabled: barriers and facilitating factors affecting people with disabilities in political life within the European Union, Taylor and Francis online, Disability and Society, Volume 36, Issue 4 (2021)
[20] Khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức Quốc hội 2014
[21] UNDP, Tháng 5 năm 2021: Báo cáo đánh giá nhanh về mức độ sẵn sàng của người khuyết tật ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
[22] Wiliam P.Alford, Matthew S.Smith, and Michael AshlayStein, “The right to political Participation of person with Intellectual Disabilities”, Special Olympics, Global center for inclusion in education
[23] UNDP, Political participation of persons with intellectual or psychosocial disabilities, page 34 (2021)
[24] UNDP, Political participation of persons with intellectual or psychosocial disabilities, page 36 (2021)
[25] European Union Agency for fundamental rights, 2014: The right to political participation of person with disabilities
[26] UNDP, Tháng 5 năm 2021: Báo cáo đánh giá nhanh về mức độ sẵn sàng của người khuyết tật ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
[27] UNDP, Tháng 5 năm 2021: Báo cáo đánh giá nhanh về mức độ sẵn sàng của người khuyết tật ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
[28] FRA, European union agency for fundamental rights, The right to political participation of person with disability, 2014 Sumary, page 5
[29] UNDP, Political participation of persons with intellectual or psychosocial disabilities, 2021, page 36
[30] Rabia Belt, ‘Contemporary Voting Rights Controversies Through the Lens of Disability’, Stanford Law Review, Vol 68 (2016).
[31] UNDP, Political participation of persons with intellectual or psychosocial disabilities, 2021, page 39
[32] Inaccessibility of Electoral Processes, Eropean disability forum; https://www.edf-feph.org/political-participation-policy/
[33] Hà Trọng Bắc, Bảo đảm hiệu quả quyền tiếp cận thông tin của nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội, Tạp chí Toà án nhân dân (31/5/2023); https://tapchitoaan.vn/bao-dam-hieu-qua-quyen-tiep-can-thong-tin-cua-nhom-doi-tuong-yeu-the-trong-xa-hoi8649.html ; đăng nhập ngày 29/3/2024
[34] UNDP, Political participation of persons with intellectual or psychosocial disabilities, page 39 (2021)
[35] FRA, European union agency for fundamental rights, The right to political participation of person with disability, 2014 Sumary, page 5
[36] UNDP, Political participation of persons with intellectual or psychosocial disabilities, page 40. (2021)
[37] OSCE, ODHR, Guidelines on Promoting the Political Participation of Persons with Disabilities, , p42 (2019)
[38] FRA, European union agency for fundamental rights, The right to political participation of person with disability, 2014 Sumary, page 8
[39] FRA, European union agency for fundamental rights, The right to political participation of person with disability, 2014 Sumary, page 8
[40] OSCE- ODIHR, Person with disabilities and Ensuring their right to participate in Political and Public life, page 78