Thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin tiền hợp đồng theo mẫu của bên đề nghị giao kết đối với người tiêu dùng
Tóm tắt: Thị trường chứng khoán phái sinh hiện nay là một kênh đầu tư hấp dẫn, thu hút nhiều nhà đầu tư tham gia. Tại Việt Nam, giao dịch phái sinh trên hàng hóa đã manh nha xuất hiện từ những năm 2000. Tuy nhiên, đến năm 2017, thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam chính thức đi vận hành phiên giao dịch đầu tiên. Mặc dù thị trường chứng khoán phái sinh còn non trẻ nhưng quy mô và tốc độ phát triển của thị trường ngày càng lớn, tính đến cuối năm 2022 đã có hơn 1,15 triệu tài khoản giao dịch với gần 250.000 phiên giao dịch. Thị trường phát triển bùng nổ đã tạo nên cả nguy cơ và thách thức, cần nhiều nguồn lực để quản lý và vận hành thị trường. Trong đó, việc minh bạch thông tin là vấn đề then chốt để thị trường hoạt động lành mạnh, tạo niềm tin cho nhà đầu tư.
Vai trò của báo chí truyền thông trong việc minh bạch thông tin thị trường chứng khoán phái sinh là vô cùng quan trọng, là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt, kết nối nhà đầu tư với thị trường, và cũng là kênh giám sát thị trường của cơ quan quản lý. Trong các năm qua, báo chí thông tin về các hoạt động thị trường chứng khoán phái sinh đã đạt được những thành tựu rực rỡ, tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế do mối liên kết giữa các chủ thể thông tin và kênh thông tin chưa thật sự chặt chẽ
Do vậy, để vai trò của báo chí truyền thông đối với thị trường chứng khoán phái sinh hiệu quả hơn nữa cần đánh giá đúng thực trạng và tìm ra nguyên nhân của hạn chế để khắc phục kịp thời. Trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra ba điểm hạn chế về nội dung thông tin, cách thức thông tin và hình thức thông tin truyền thông về thị trường chứng khoán phái sinh. Đồng thời, tác giả cũng đề xuất sáu giải pháp để cải thiện, khắc phục các hạn chế trong việc thông tin kiểm soát rủi ro thị trường chứng khoán phái sinh. Trong đó chú trọng nhóm giải pháp tăng cường sự phối hợp giữa các chủ thể quản lý, hoàn thiện khung pháp lý để nâng cao tính minh bạch thông tin cho thị trường chứng khoán phái sinh.
Từ khóa: Chứng khoán phái sinh; kiểm soát rủi ro; báo chí truyền thông; minh bạch thông tin
Thị trường chứng khoán (TTCK) nói chung và chứng khoán phái sinh (CKPS) nói riêng là thị trường của lòng tin, được xây dựng dựa trên nền tảng minh bạch hóa thông tin kịp thời, chính xác. Điều này cần sự chung tay của tất cả chủ thể trên thị trường, trong đó, báo chí bên cạnh đồng hành trên góc độ thông tin còn có vai trò giám sát tính thực thi.
Tại Việt Nam, giao dịch phái sinh trên hàng hóa đã hình thành và phát triển từ những năm 2000. Tuy nhiên, đến ngày 10/8/2017, thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam chính thức đi vận hành phiên giao dịch đầu tiên với sản phẩm là hợp đồng tương lai chỉ số VN30. Đây là sự kiện quan trọng của thị trường chứng khoán Việt Nam góp phần hoàn thiện cấu trúc thị trường chứng khoán, đánh dấu bước tiến lớn trong quá trình phát triển thị trường khoán khoán Việt Nam sau 17 năm hình thành và phát triển, đưa Việt Nam trở thành quốc gia thứ 5 trong Asean và thứ 42 trên thế giới có thị trường CKPS.
Tính đến nay, sau hơn 5 năm chính thức đi vào hoạt động, thị trường CKPS đã thể hiện mình là một kênh đầu tư hấp dẫn, là công cụ phòng ngừa rủi ro cho chứng khoán cơ sở, được nhà đầu tư ngày càng quan tâm và tích cực tham gia.
“Theo thống kê sơ bộ, thị trường thu hút sự tham gia ngày càng tích cực của các nhà đầu tư. Tính đến hết tháng 11/2022, số lượng giao dịch phái sinh đạt hơn 1,15 triệu tài khoản. Quy mô và thanh khoản thị trường cũng tăng trưởng mạnh qua các năm. Trong đó, khối lượng giao dịch trung bình Hợp đồng tương lai VN30 tăng từ 10.954 hợp đồng/phiên năm 2017 lên gần 250.000 hợp đồng/phiên trong 11 tháng đầu năm 2022.
Khối lượng hợp đồng mở (OI) của Hợp đồng tương lai VN30 từ 8.077 hợp đồng tại thời điểm cuối năm 2017 đã tăng lên 49.170 hợp đồng vào cuối tháng 10/2022. Khối lượng giao dịch và OI liên tiếp lập các kỷ lục mới với khối lượng giao dịch cao nhất đạt 647.457 hợp đồng tại phiên giao dịch ngày 25/10/2022 và OI cao nhất đạt 65.760 hợp đồng vào ngày 17/8/2022. Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài trong 10 tháng đầu năm 2022 cũng tăng mạnh chiếm 1,9% của toàn thị trường so với con số 0,1% của năm 2017”.
Tuy nhiên, trải qua hơn 5 năm, hoạt động này cũng bộc lộ một số hạn chế. Thực tế cho thấy, khi cổ phiếu bị bán tháo ồ ạt cũng là lúc thị trường phái sinh lao dốc mạnh và ngược lại, thậm chí có phiên VN30F1M được kéo lên kịch trần chỉ trong vài phút và ở phía cở sở, cổ phiếu cũng tăng mạnh. Theo các chuyên gia, “trên lý thuyết, CKPS thể hiện tâm lý thị trường và đi theo thị trường cơ sở. Nhưng với thị trường Việt Nam, từ khi đưa vào hoạt động chứng khoán phái sinh đến nay đã xảy ra một số trường hợp tác động ngược, tiêu cực tới thị trường cơ sở. Chưa kể, thời gian gần đây, thị trường xuất hiện nhiều tin đồn tiêu cực làm cho cổ phiếu giảm sàn hàng loạt khiến nhà đầu tư lo sợ. Nhiều cổ phiếu bị dư bán sàn, nhất là cổ phiếu bất động sản, thậm chí cả những “ông lớn” tạo thành làn sóng… và từ đó, nhà đầu tư lớn kỳ vọng thị trường cơ sở giảm sâu nên họ đặt lệnh Short (bán khống) trên phái sinh để kiếm lời.
Các chuyên gia tài chính cũng cho rằng, một trong những nguyên nhân khiến TTCK phái sinh có cơ hội làm “méo mó” TTCK cơ sở là do một số công ty chứng khoán đang cấp tỷ lệ ký quỹ (margin) cho nhà đầu tư tham gia phái sinh quá thấp. Hơn nữa, giao dịch trên thị trường phái sinh là giao dịch T0 có thể mua bán ngay, thay vì thị trường cơ sở mua cổ phiếu phải chờ 2 ngày sau mới về tài khoản (T+2,5) nên nhiều rủi ro hơn” .
Sự “méo mó” của thị trường đến từ các rủi ro từ việc thiếu minh bạch thông tin. Thông tin giả được tạo dựng là lan truyền trong hội nhóm trên nhiều nền tảng mạng xã hội kèm theo động cơ, mục đích làm nhiễu loạn thị trường CKPS để thu lợi.
Vì thế, có thể nói thông tin là nguồn mạch quan trọng nhất, là yếu tố cốt lõi quyết định sự phát triển của bất kỳ TTCK nào trên thế giới là sự minh bạch làm nền tảng cho hoạt động. Do đó, vai trò của hoạt động báo chí truyền thông có tác động trực tiếp đến diễn biến giao dịch và sự thành bại của các nhà đầu tư (NĐT), đến sự phát triển hay đổ vỡ của thị trường CKPS và nhìn rộng hơn là của cả hệ thống tài chính và nền kinh tế.
Ngày nay, khi thông tin đã được toàn cầu hóa và có sức lan tỏa nhanh, rộng rãi, báo chí với sự hỗ trợ và ứng dụng của công nghệ hiện đại, nhất là các tòa soạn báo điện tử với nhiều lợi thế về cách thể hiện và tốc độ truyền tin, cũng có cơ hội tiếp cận nhanh và truyền đi những thông tin có khả năng tác động mạnh tới TTCK. Vì thế, với sức mạnh của mình, với những thông tin kịp thời, đầy đủ, rõ ràng, chính xác, báo chí có thể làm tăng tính minh bạch thông tin trên TTCK, đóng góp vai trò to lớn trong sự phát triển ổn định và bền vững của TTCK.
Nhưng đôi khi chỉ cần một dòng tin mập mờ, thiếu rõ ràng hay một bài viết, bình luận, đánh giá thiếu khách quan hoặc vô tình hay có chủ đích trên báo chí cũng có thể trở thành thử vũ khí vô cùng nguy hiểm gây nhiễu loạn thông tin trên thị trường CKPS, tạo ra sự hoảng loạn trong tâm lý NDT, khiến hàng tỷ USD bốc hơi khỏi nền kinh tế chỉ trong một phiên giao dịch.
Vì vậy, để thị trường chứng khoán (TTCK) nói chung hay chứng khoán phái sinh (CKPS) nói riêng phát triển lành mạnh luôn cần sự chung tay của tất cả chủ thể trên thị trường, trong đó, báo chí bên cạnh đồng hành trên góc độ thông tin còn có vai trò giám sát tính thực thi.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lý luận nêu trên, với những kiến thức và kinh nghiệm thu nhận được trong thời gian công tác, tác giả chọn đề tài về “Vai trò của truyền thông trong nâng cao nhận thức về rủi ro pháp lý khi tham gia thị trường chứng khoán phái sinh” nhằm góp phần làm rõ hơn vai trò của thị trường CKPS Việt Nam đối với phát triển kinh tế - xã hội, từ đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng quản lý và thông tin báo chí cho các cơ quan quản lý, các tòa soạn và đội ngũ nhà báo hoạt động trong lĩnh vực kinh tế - tài chính.
Ngay sau khi Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) được thành lập theo Nghị định 75/CP của Chính phủ, ngày 11/7/1998, Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh trực tiếp cho hoạt động của TTCK Việt Nam thời kỳ đầu. Trong đó, tại khoản 5 Điều 76 Nghị định này đưa ra quy định về “Đào tạo nghiệp vụ, tuyên truyền phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK’’. Như vậy, ngay từ khi TTCK chưa được khai mở thì hoạt động thông tin tuyên truyền phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK cho đông đảo công chúng là một trong những nội dung trọng tâm được Đảng, Nhà nước quan tâm, chú trọng nhằm chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho mở cửa TTCK Việt Nam.
Tại Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ (thay thế Nghị định số 48/1998/NĐ-CP) đã bổ sung thêm nội dung về phương tiện công bố thông tin trên TTCK, cụ thể tại khoản 4 Điều 51 Nghị định này quy định “Việc công bố thông tin (CBTT) được thực hiện qua các phương tiện thông tin đại chủng và bản tin TTCK.
Tại Luật Chứng khoán 2006, Điều 100, khoản 4 cũng đề cao vai trò của báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng đối với hoạt động CBTT trên TTCK “Việc CBTT được thực hiện qua các phương tiện thông tin đại chúng, sản phẩm của tổ chức, công ty và các phương tiện thông tin của SGDCK, TTGDCK.
Trong Chiến lược phát triển TTCK giai đoạn 2011 - 2020 theo Quyết định số 252/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã đề ra mục tiêu tổng quát là “Bảo đảm tính công khai, minh bạch, các tiêu chuẩn và thông lệ QTCT, tăng cường năng lực quản lý, giảm sát và cưỡng chế thực thi, bảo vệ lợi ích của NĐT và lòng tin thị trường” . Để đạt được mục tiêu trên, một trong những giải pháp mà Chiến lược đề ra là “Đây mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức chứng khoán cho công chủng” (điểm h khoản 3 Điều 1 Quyết định số 252/QĐ-TTg). Và báo chí, truyền thông là một công cụ hữu hiệu để cơ quan quản lý TTCK thực hiện giải pháp này.
Riêng đối với các giao dịch trên thị trường CKPS, ngày 31/12/2020 Chính phủ đã ban hành Nghị định số: 158/2020/NĐ-CP về CKPS và thị trường CKPS. Tại khoản 3 điều 37 về chế độ báo cáo quy định “Sở giao dịch chứng khoán, Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam, tổ chức kinh doanh chứng khoán phái sinh, tổ chức cung cấp dịch vụ bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán phái sinh, thành viên giao dịch, thành viên giao dịch đặc biệt, thành viên tạo lập thị trường, thành viên bù trừ có nghĩa vụ cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác các thông tin, tài liệu và giải trình theo yêu cầu của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước” . Còn tại Điều 38 về nghĩa vụ công bố thông tin quy định: “Việc công bố thông tin của các đối tượng tham gia đầu tư, hoạt động trên thị trường chứng khoán phái sinh thực hiện theo quy định của pháp luật”.
Đối với hoạt động quản lý, giám sát của UBCKNN tại điều 39 quy định tại khoản 6 của Nghị định: “Giám sát việc lưu trữ, quản lý dữ liệu giao dịch, việc tuân thủ nghĩa vụ báo cáo, công bố thông tin theo quy định”.
Như vậy, kể từ khi TTCK được thành lập và đi vào hoạt động cho đến nay, Đảng, Nhà nước và cơ quan quản lý thị trường luôn quan tâm, coi trọng và đề cao vai trò của công tác thông tin tuyên truyền cũng như vai trò của báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng đối với sự phát triển của TTCK.
Thị trường CKPS bản chất là thị trường phòng ngừa rủi ro cho hoạt động đầu tư trên các mảng thị trường khác, bao gồm cả thị trường chứng khoán cơ sở cũng như thị trường hàng hóa. Theo đó, nhà đầu tư có nhiều cơ hội và nhiều phân khúc thị trường để đa dạng hóa dòng tiền đầu tư và giảm thiểu rủi ro.
Cơ chế phòng ngừa rủi ro của thị trường phái sinh là khi lo ngại giá thị trường của tài sản cơ sở bị biến động mạnh, các nhà đầu tư sẽ mở các vị thế mua/bán sản phẩm phái sinh để phòng ngừa rủi ro.
Khi giá trên thị trường cơ sở sụt giảm, thay vì bán tài sản cơ sở để cắt lỗ, nhà đầu tư sẽ đóng các vị thế bán trên thị trường phái sinh để hiện thực hóa lợi nhuận, bù đắp cho phần giá trị thiệt hại của danh mục tài sản cơ sở với chi phí thấp, giúp bảo vệ tài sản của nhà đầu tư, giảm áp lực bán tháo trên thị trường cơ sở.
“Thị trường phái sinh cho phép nhà đầu tư có thể tìm kiếm lợi nhuận dựa vào biến động giá qua hoạt động mở, đóng vị thế liên tục ngay trong phiên, hạch toán bù trừ theo thời gian thực và bù trừ thanh toán ngay trong ngày (marking to market). Đặc biệt, thị trường phái sinh cho phép giao dịch 2 chiều giúp nhà đầu tư kiếm lợi nhuận ngay cả khi thị trường cơ sở giảm.
Ngoài ra, trong chiến lược giao dịch trên thị trường phái sinh, các công ty chứng khoán còn thực hiện nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá giữa 2 thị trường cơ sở và phái sinh (arbitrage)” . Vì vậy, đối với các NĐT ngắn hạn, khi thị trường cơ sở trong xu hướng giảm ngắn hạn hay trung hạn, thậm chí giảm dài hạn, khả năng kiếm được lợi nhuận ngắn hạn trên thị trường cơ sở là rất khó khăn. Thay vào đó, NĐT sẽ tìm kiếm lợi nhuận từ thị trường phái sinh.
Có thể nói, khi thị trường cơ sở sụt giảm, cơ hội kiếm lợi nhuận ngắn hạn là thấp, sẽ kích thích tất cả các thành phần nhà đầu tư trên thị trường phái sinh (phòng vệ rủi ro - hedging; đầu cơ rủi ro - speculating; chênh lệch giá - arbitrage) tích cực tham gia giao dịch trên thị trường này hơn, và thanh khoản tăng đột biến như một hệ quả tất yếu.
Theo quy luật thị trường, ở đâu có cơ hội sinh lời thì ở đó thu hút dòng tiền đầu tư. Điều đó giải thích tại sao thanh khoản của thị trường phái sinh thông thường sẽ tăng rất mạnh trong các giai đoạn thị trường cơ sở biến động mạnh, bất kể theo chiều tăng hay giảm. Thị trường phái sinh ngày càng phát huy vai trò là giải pháp hữu hiệu để giữ chân nhà đầu tư, tránh tình trạng nhà đầu tư tháo chạy khi thị trường cơ sở sụt giảm, mà không phải hút nguồn tiền của thị trường cơ sở.
Do vậy, báo chí truyền thông khi thực hiện chức năng thông tin với trọng tâm là nâng cao nhận thức về rủi ro pháp lý khi tham gia thị trường chứng khoán phái sinh phải lấy sự minh bạch làm yếu tố cốt lõi để thị trường này luôn ở trong trạng thái cạnh tranh lành mạnh. Để thực hiện được vai trò này, thời gian qua, các cơ quan báo chí truyền thông tập trung vào những nội dung thông tin sau đây:
Thứ nhất, báo chí thông tin tuyên truyền các đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước và cơ quan quản lý về phát triển thị trường CKPS. Báo chí đăng tải phổ biến, giải thích đường lối, chính sách, các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước; về các hoạt động chỉ đạo, điều hành, quản lý CKPS của Bộ Tài chính, UBCKNN để các tổ chức, doanh nghiệp, công chúng, nhà đầu biết, hiểu, nhận thức và hành động đúng trong thực tiễn. Từ đó góp phần giúp Chính phủ huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển, giúp doanh nghiệp huy động vốn để sản xuất kinh doanh, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Thứ hai, báo chí và truyền thông góp phần quan trọng vào việc giúp minh bạch thông tin trên TTCK nói chung và CKPS nói riêng - yếu tố cốt lõi để thị trường hoạt động công bằng, minh bạch, hiệu quả và bền vững thông qua việc thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác, đầy đủ, toàn diện về tất cả các hoạt động, sự kiện, vấn đề liên quan đến CKPS, từ chủ trương đường lối, chính sách phát triển CKPS đến tình hình phát triển chung của TTCK, những hạn chế, tồn tại và cả những vấn đề mới nảy sinh trên TTCK...
Thứ ba, báo chí góp phần định hướng dư luận và ổn định tâm lý NĐT trước các biển động của thị trường. Khi TTCK tăng trưởng nóng, báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng liên tục đăng tải các ý kiến cảnh báo của các nhà quản lý cũng như các chuyên gia phân tích nhằm giúp NĐT tỉnh táo và nhận diện rõ hơn về sự tăng trưởng của thị trường cũng như xác định được giá trị thực của cổ phiếu. Khi TTCK liên tục suy giảm, báo chí lại thể hiện rõ vai trò định hướng dư luận của mình khi cung cấp cho NĐT các bài viết với những góc độ nhìn nhận khác nhau nhằm giúp ổn định tâm lý NĐT, giúp họ có những đánh giá khách quan tiềm năng phát triển của TTCK trong trung và dài hạn. Với vai trò to lớn trong việc định hướng và hình thành dư luận nên có thể thấy báo chí là một thế lực lớn mạnh” được các nhà quản lý coi trọng và xã hội dành nhiều quan tâm.
Thứ tư, báo chí còn thể hiện rõ vai trò phản biện trước các chính sách, giải pháp của Chính phủ, cơ quan quản lý đối với các lĩnh vực có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của CKPS. Thực tế cho thấy, vai trò phản biện của báo chí rất cần để hoàn thiện các chủ trương, chính sách, giải pháp của cơ quan quản lý bởi trong một số trưởng hợp và hoàn cảnh đặc biệt, nhất là đối với thị trường CKPS vốn là thị trường mới, và là thị trường của niềm tin, rất nhạy cảm với thông tin, cơ quan quản lý phải nhanh chóng đưa ra các giải pháp kịp thời hoặc giải pháp tình thế, cho nên có những giải pháp chưa thể hoàn chỉnh ngay từ lần đầu mà cần có sự góp ý, bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện hơn.
Thứ năm, báo chí truyền thông luôn song hành hỗ trợ TTCK Việt Nam phát triển. Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển TTCK nói chung và CKPS nói riêng, báo chí như một người bạn thầm lặng luôn song hành cùng thăng trầm của thị trường. Điều này, đặc biệt thấy rõ trong những thời kỳ TTCK Việt Nam trải qua giai đoạn khó khăn, thách thức, trầm lắng, suy giảm thì vẫn báo chí truyền thông vẫn là một người bạn thầm lặng đồng hành sát cánh cùng chuyển động của TTCK, với việc vẫn thường xuyên, liên tục đăng tải các tin, bài viết về diễn biến giao dịch của TTCK, về tâm lý NĐT, về định hướng, chỉ đạo, giải pháp của cơ quan quản lý nhằm hỗ trợ và thúc đẩy TTCK sớm hồi phục và phát triển.
Thứ sáu, báo chí và truyền thông còn có vai trò như là cánh tay nối dài của cơ quan quản lý thị trường. Điều này đã được cơ quan quản lý thị trường mà trực tiếp là UBCKNN xác định ngay từ những ngày đầu thành lập với việc cho ra đời tờ báo, tạp chí chuyên ngành, Cổng thông tin điện tử nhằm giúp UBCKNN thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền, trao đổi các vấn đề về chính sách, chế độ pháp luật và nghiệp vụ trong lĩnh vực chứng khoán và CKPS cũng như thông tin các hoạt động của UBCKNN và các tổ chức, cơ quan có liên quan đến hoạt động chứng khoán và TTCK. Bên cạnh đó, UBCKNN cũng rất chú trọng thiết lập, duy trì và phát triển mối quan hệ mật thiết với các cơ quan thông tấn báo chí như Báo điện tử Chính phủ, Báo Nhân Dân, Đài Truyền hình Việt Nam, Thời báo Tài chính, Báo Pháp luật Việt Nam... trong việc hỗ trợ UBCKNN thông tin tuyên truyền về các chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật, phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK cũng như các hoạt động chuyên môn của cơ quan quản lý. Đồng thời, thông qua báo chí và truyền thông, cơ quan quản lý cũng nhận được các phản hồi về cơ chế, chính sách, các góp ý về văn bản pháp luật cũng như nguyện vọng, mong muốn của NĐT để từ đó phát huy những mặt mạnh, kịp thời khắc phục những điểm còn hạn chế, hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật, tiếp tục đổi mới phương thức quản lý, điều hành, phát triển TTCK theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.
Trong những năm đầu khi thị trường CKPS Việt Nam mới đi vào hoạt động, báo chí chủ yếu đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển CKPS, đồng thời đăng tải nhiều tin bài thông tin về diễn biến giao dịch của thị trường này. Tuy nhiên, những năm gần đây, cùng với sự phát triển nhanh chóng của thị trường CKPS, kiến thức, hiểu biết về CKPS của người dân nói chung đã từng bước được nâng lên, khung khổ pháp lý về chứng khoán và TTCK đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện đã đặt ra nhu cầu thông tin về CKPS ngày càng khắt khe và chọn lọc hơn, trong đó vấn đề giám sát, xử lý vi phạm, phòng ngừa rủi ro trong TTCK cũng như thông tin mang tính phản biện chính sách, phản hồi dư luận và trấn an tâm lý NĐT được quan tâm nhiều hơn.
Về cơ bản, báo chí truyền thông trong những năm qua đã đạt được một thành tựu trong việc nâng cao nhận thức về rủi ro pháp lý khi tham gia thị trường CKPS.
Thứ nhất, tốc độ truyền tải thông tin thời sự, nhanh chóng, kịp thời trên nhiều nền tảng. Nhiều tòa soạn báo điện tử đã cập nhật tin, bài về tình hình diễn biến giao dịch trên thị trường ngay trong và sau mỗi phiên giao dịch vừa kết thúc. Thậm chí, có báo điện tử còn kịp thời thông tin cập nhật theo từng giờ về tình hình biến động của các chỉ số chứng khoán, của giá cổ phiếu ngay trong khi phiên giao dịch đang diễn ra hoặc khi trên thị trường xuất hiện sự việc, sự kiện nóng, mới liên quan đến TTCK. Thực tế cũng cho thấy, các báo điện tử rất nhanh chóng, kịp thời thông tin về tất cả các sự kiện, hoạt động, vấn đề đã, đang hoặc mới nảy sinh trên TTCK, ví dụ như thông tin về chỉ đạo của Chính phủ, Bộ ngành, hoặc thông tin về chính sách mới ngay trước, trong và sau khi chính sách, văn bản mới đó được ban hành. Bên cạnh đó, các cơ quan báo chí truyền thông cũng khá nhanh chóng cập nhật thông tin đến cho công chúng các quyết định xử phạt, các kết quả thanh tra, giám sát của cơ quan quản lý TTCK để toàn thể người dân và doanh nghiệp biết, từ đó góp phần răn đe, ngăn ngừa, cảnh báo đối với cả nhân, tổ chức để hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK...
Thứ hai, báo chí truyền thông thông tin đầy đủ và toàn diện. Hầu hết các cơ quan báo chí đều đã quan tâm, đẩy mạnh khai thác, đăng tải tất cả các thông tin về mọi hoạt động sự kiện, sự việc, vấn đề đã, đang hoặc mới nảy sinh trên thị trường CKPS với mức độ nhiều ít đậm nhạt khác nhau tùy theo thời lượng và tôn chỉ mục đích hoạt động của từng tòa soạn báo, nhằm cung cấp nguồn thông tin đầy đủ, phong phú, đa chiều về các vấn đề liên quan đến CKPS Việt Nam đến cho đông đảo công chúng trong và ngoài nước.
Thứ ba, báo chí thông tin khách quan, trung thực. Thực tế cho thấy, tất cả các thông tin về tinh hình CKPS, biến động tăng giảm của các chỉ số chứng khoán, về sự tăng giảm của giá cổ phiếu đều được phóng viên tổng hợp lại và phản ánh một cách trung thực, khách quan trên báo chí thông qua các tin, bài viết trên nhiều nền tảng khác nhau. Việc thông tin khách quan, trung thực là một trong những yếu tố then chốt trong đấu tranh, phòng ngừa các rủi ro của thị trường nhạy cảm như CKPS.
Thứ tư, báo chí thông tin rộng rãi, dễ hiểu với đại bộ phận công chúng. Thị trường CKPS là một lĩnh vực mới mẻ ở Việt Nam nên việc sử dụng nhiều thuật ngữ chuyên biệt, chuyên ngành là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, tính đại chúng trong thông tin về CKPS đã được các báo chí truyền thông quan tâm, thể hiện ở cách báo chí thường cố gắng sử dụng từ ngữ đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, ngắn gọn để đảm bảo phản ánh chính xác, rõ ràng, trung thực sự kiện, sự việc có thật vừa mới xảy ra, từ đó giúp người đọc có thể dễ dàng tiếp cận, nắm bắt được đúng bản chất nội dung thông tin, đồng thời có thể giúp định hướng dư luận, tạo sức thuyết phục và truyền cảm mạnh mẽ, tác động đến tâm lý, hành động của công chúng, đến quyết định đầu tư của NĐT.
Thực tế, một số thông tin quan trọng về thị trường CKPS trên báo chí truyền thông “đôi khi còn chậm” hơn so với các mạng xã hội, các KOLs; Về phía những người đang công tác trong lĩnh vực báo chí, cũng cho rằng thông tin về TTCK Việt Nam trên báo điện tử “đôi khi còn thiếu rõ ràng, minh bạch” do việc tiếp cận thông tin, minh bạch thông tin của thị trường còn nhiều rào cản. Ngoài ra, “một số phóng viên, cơ quan báo chí đã lợi dụng việc thông tin để đưa thông tin một chiều, hoặc thông tin theo kiểu giật gân, gây sốc, dễ gây hiểu nhầm cho độc giả, từ hoạt động sản xuất kinh doanh, vay nợ của doanh nghiệp đến sự biến động, sụt giảm, đảo chiều của TTCK... trong khi đó có thể là hoạt động bình thường đối với bất kỳ doanh nghiệp, bất kỳ TTCK nào trên thế giới. Thậm chí có những tòa soạn báo tìm cách “đánh đấm”, moi móc doanh nghiệp không cần thiết để câu view, để lấy quảng cáo, tài trợ từ doanh nghiệp. Trên thực tế cũng đã xuất hiện việc doanh nghiệp này “mượn” báo chí để “đánh” doanh nghiệp cùng ngành; hoặc có tình trạng báo chí PR cho doanh nghiệp có cổ phiếu đang niêm yết trên sản chứng khoán một cách không chuẩn xác” .
Bên cạnh đó, cũng không ít trường hợp nguồn tin cung cấp thông tin chính xác, rõ ràng, đầy đủ, khách quan cho phóng viên, tòa soạn báo, nhưng phóng viên lại thông tin thiếu chính xác, không rõ ràng, đầy đủ do thiếu kiến thức, hiểu biết về CKPS hoặc do năng lực, trình độ của phóng viên trong việc nhìn nhận đúng bản chất của nội dung thông tin. Đôi khi, cũng không hiếm trường hợp báo chí thông tin quá đã khi thổi phồng sự việc, sự kiện hoặc giúp doanh nghiệp che đậy thông tin và trở thành công cụ của doanh nghiệp do bị chi phối bởi lợi ích vật chất hoặc lợi ích nhóm.
Mặc dù hoạt động tuyên truyền, cổ động cũng như tính định hướng, dẫn dắt dư luận trong hoạt động thông tin về CKPS là quan trọng và hết sức cần thiết, nhất là đối với một thị trường non trẻ với quy mô nhỏ và dễ bị tác động từ các yếu tố bên ngoài như Việt Nam. Nhưng đôi khi thông tin về CKPS trên báo chí mang nặng tính tuyên truyền, cổ động, hoặc định hướng một chiều, mà thiếu các bài viết mang tính phân tích, bình luận sâu, phản biện đa chiều, thiếu những bài viết có sự đầu tư công sức nghiêm túc, thu thập tư liệu, phân tích cặn kẽ từng luận điểm hoặc những luận chứng cụ thể để thuyết phục công chúng nhằm cung cấp cho công chúng có cái nhìn đa chiều về một sự việc, hiện tượng để họ nắm được, hiểu được tường tận bản chất vấn đề, sự việc mà báo chí thông tin.
Hầu hết, các tòa soạn báo chí mới chỉ dừng lại ở việc phản ánh, tường thuật, mô tả lại tình hình diễn biến giao dịch trên thị trường, trong khi thiếu các bài viết phân tích chuyên sâu, bình luận sắc sảo, lập luận, dẫn chứng thuyết phục. Đối với các tuyến tin bài mang tính phân tích, dự bảo, tư vấn, khuyến nghị, phần lớn các báo cũng mới chỉ dừng lại ở việc trích dẫn, đăng tải lại các báo cáo phân tích, báo cáo chiến lược, báo cáo tư vấn, dự báo, khuyến nghị đầu tư, mà ít bỏ công sức để biên tập kỹ cảng hoặc chọn lọc, xử lý thông tin, phát hiện vấn đề để tổ chức, triển khai lại thành bài viết chất lượng.
Mặc dù các cơ quan báo chí truyền thông có thuận lợi trong việc nhận được sự hỗ trợ về chủ trương, định hướng, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cũng như các Bộ, ban ngành trong quá trình hoạt động, nhưng các yếu tố này thường ở tầm vĩ mô, trong khi các cơ quan báo chí truyền thông chưa thực sự nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát, cụ thể của các cơ quan ban ngành trong hoạt động thông tin tuyên truyền về thị trường CKPS.
Thứ nhất, sự phối hợp giữa các cơ quan ban ngành chức năng liên quan với các cơ quan báo chí trong việc tiếp cận thông tin về CKPS trên thực tế còn mang nặng hình thức, đôi khi việc tiếp cận thông tin về CKPS của phóng viên, nhà báo đối với cơ quan chức năng hoặc những người có liên quan trong các cơ quan, tổ chức nhà nước còn gặp khó khăn, phiền hà. Ví dụ như để phỏng vấn một đại diện lãnh đạo của một đơn vị nào đó của cơ quan quản lý TTCK, đôi khi các phóng viên được yêu cầu phải có văn bản đề nghị, hoặc người quen giới thiệu và chỉ được hỏi trong phạm người phỏng vấn cho phép.
Thứ hai, việc xây dựng chiến lược phát triển, chiến lược truyền thông dài hạn, cũng như kế hoạch thông tin tuyên truyền bài bản, chuyên nghiệp về các vấn đề liên quan đến CKPS của các cơ quan báo chí truyền thông còn ít được quan tâm chú trọng đúng mức.
Thứ ba, trình độ, năng lực của không ít phóng viên, biên tập viên theo dõi lĩnh vực chứng khoán còn hạn chế. Một phần do chứng khoán là lĩnh vực chuyên ngành với nhiều thuật ngữ khó hiểu, phương thức vận hành phức tạp, trong khi để thông tin đúng, đủ, khách quan về thị trường CKPS đòi hỏi phóng viên phải am hiểu sâu sắc về lĩnh vực này thì mới có thể truyền tải thông tin một cách đơn giản, dễ hiểu đến công chúng. Vì thế, trên thực tế, có phóng viên được đào tạo chuyên ngành kinh tế, tài chính nhưng lại thiếu kỹ năng báo chí. Ngược lại, có phóng viên được đào tạo chuyên ngành báo chí nhưng lại thiếu kiến thức về kinh tế tài chính, đặc biệt là kiến thức chuyên sâu về CKPS. Đây là một trong những trở ngại lớn đối với các tòa soạn báo trong việc đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về thị trường CKPS ở Việt Nam hiện nay.
Từ những phân tích trên, tác giả đề xuất một số giải pháp khắc phục các hạn chế nhằm nâng cao nhận thức về rủi ro pháp lý khi tham gia thị trường chứng khoán phái sinh ở các cơ quan báo chí truyền thông như sau:
Thứ nhất, cần tăng cường tuyên truyền về sự cần thiết nâng cao tính minh bạch thông tin về thị trường chứng khoán nói chung và CKPS nói riêng. Để có thể nâng cao tính minh bạch thông tin về CKPS thì việc đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền về sự cần thiết và vai trò của minh bạch thông tin phải luôn đi trước một bước. Trong đó, cần phải làm tốt công tác tuyên truyền để thay đổi nhận thức về tầm quan trọng của minh bạch thông tin. Bởi muốn có một nền kinh tế minh bạch, một TTCK minh bạch, một nền báo chí hoạt động minh bạch thì cần sự nỗ lực vào cuộc của tất cả các ngành, các cấp, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp.
Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan, cơ quan quản lý TTCK (Bộ Tài chính, UBCKNN) cần nhận thức được tầm quan trọng của minh bạch thông tin nói chung và minh bạch thông tin về TTCK nói riêng, từ đỏ bản thân có sự điều chỉnh, thay đổi tư duy cũng như có những hành động thiết thực, đúng đắn trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý các mặt hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị một cách công khai, minh bạch. Chính phủ và các Bộ, ngành, cơ quan quản lý TTCK cần quan tâm, chú trọng nhiều hơn đến vấn đề này trong quá trình hoạch định, xây dựng các chính sách, văn bản pháp lý cũng như đề ra kế hoạch, giải pháp phát triển thị trường.
Các doanh nghiệp, tổ chức tài chính trung gian, NĐT cũng như đông đảo công chúng cũng cần biết, nắm được, hiểu được vai trò của sự minh bạch thông tin trong từng hoạt động và trong sự phát triển lâu dài của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân minh để từ đó góp phần vào sự minh bạch thông tin chung của toàn xã hội.
Do đó, về phía Chính phủ, các Bộ, ngành, UBCKNN, các doanh nghiệp, tổ chức tài chính trung gian... cần quan tâm phối hợp chặt chẽ với các cơ quan báo chí truyền thông trong việc đẩy mạnh các hoạt động thông tin tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho người dân, doanh nghiệp, lãnh đạo cơ quan nhà nước các cấp về vai trò, ý nghĩa và giá trị, lợi ích lâu dài và bền vững của sự minh bạch thông tin mang lại.
Về phía báo chí, bản thân báo chí cũng cần phải nhận thức được vai trò của minh bạch trong hoạt động báo chí, không để lợi ích nhóm, lợi ích kinh tế trước mắt chi phối quá nhiều mà chạy theo thương mại hóa báo chí, hoặc để báo chí bị biến tưởng trở thành công cụ của cá nhân, doanh nghiệp trong việc tiếp tay cho họ che giấu sự thật hoặc giúp họ “hạ” uy tín của cá nhân/ doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó, các cơ quan báo chí cũng cần chủ động, linh hoạt trong phối hợp với các cơ quan, tổ chức, ban ngành và với các cơ quan bảo chi khác để tăng cường số lượng, chất lượng các tin, bài thông tin tuyên truyền về tầm quan trọng của sự minh bạch thông tin đối với sự phát triển của một quốc gia, một nền kinh tế, một doanh nghiệp. Đồng thời tăng cường phổ biến kiến thức, giới thiệu các tiêu chí đánh giá tính minh bạch thông tin, giới thiệu kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng các văn bản pháp quy cũng như các hướng dẫn, các tiêu chí rõ ràng, cụ thể về minh bạch thông tin để đông đảo công chúng biết, hiểu và tuân thủ, thực thi.
Thứ hai, hoàn thiện khung pháp lý về minh bạch thông tin. Để có thể “đo lường” được mức độ minh bạch trong thông tin về TTCK nói chung và CKPS nói riêng trên báo chí truyền thông cần thiết phải có một “thước đo” mang tính quy chuẩn thể hiện được sự chính xác, đầy đủ của các thông tin về TTCK Việt Nam trên báo chí. Vì vậy, thiết nghĩ trong thời gian tới, vấn đề minh bạch thông tin về TTCK nói chúng và CKPS nói riêng trên báo chí tại Việt Nam cần phải được luật hóa bởi một văn bản pháp lý cụ thể, có thể trong các văn bản pháp lý về báo chí, hoặc đưa vào thành một điều khoản, một nội dụng cụ thể trong các văn bản pháp lý về TTCK để làm “thước đo” và tạo tỉnh “răn đe" đối với hoạt động thông tin tuyên truyền về TTCK trên báo chí. Trên cơ sở đó, các cơ quan báo chí cũng như các phóng viên theo dõi lĩnh vực chứng khoán biết và hiểu được vai trò của mình bạch thông tin trên báo chí, từ đó các tòa soạn báo đưa vào xây dựng các quy định, quy chế, quy trình nội bộ của tòa soạn về minh bạch thông tin, nhằm đảm bảo chất lượng ấn phẩm báo chí cũng như ngăn ngừa những biểu hiện thiếu rõ ràng, minh bạch trong quá trình hoạt động hoặc có chế tài xử phạt khi vi phạm về minh bạch thông tin.
Thứ ba, cần tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan báo chí và cơ quan quản lý TTCK, giữa các cơ quan báo chí với cơ quan báo chí, giữa cơ quan báo chí với các chuyên gia tài chính, chứng khoán và giữa báo chí với công chúng để có được nguồn tin phong phú, dồi dào về TTCK nói chung và CKPS nói riêng. Sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan báo chí với cơ quan quản lý TTCK sẽ góp phần giúp cho cơ quan báo chí gia tăng nguồn tin chính thống, chính xác, dồi dào và lâu dài về TTCK để thông tin nhanh chóng, đầy đủ, chính xác đến cho công chúng. Điều này cũng sẽ giúp cơ quan báo chí thuận tiện và dễ dàng hơn trong việc kiểm chứng thông tin về TTCK đối với các nguồn tin khác mà tòa soạn nhận được trước khi đăng tải. Bản thân nhà báo, phóng viên theo dõi lĩnh vực chứng khoán cũng sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với các nguồn tin từ cơ quan quản lý TTCK khi cơ quan báo chí mà mình đang công tác đã có sự hợp tác chặt chẽ với cơ quan quản lý TTCK, đồng thời thuận tiện hơn trong việc kiểm chứng lại độ xác thực của thông tin mà mình thu thập được.
Thứ tư, cần tăng cường hoạt động giám sát chéo thông tin giữa cơ quan quản lý TTCK (Bộ Tài chính, UBCKNN) và cơ quan báo chí, nhằm tăng tính minh bạch của các nguồn tin do hai bên cung cấp cho công chúng. Theo đó, cơ quan quản lý TTCK cần có đầu mối hoặc bộ phận thực hiện nhiệm vụ giám sát thông tin về TTCK trên báo chí, ví dụ như tăng cường hoạt động điểm bảo hàng ngày các thông tin về TTCK trên báo chí truyền thông. Hàng tuần có báo cáo nhanh và hàng tháng có báo cáo lãnh đạo cơ quan quản lý TTCK. Trong trường hợp nhận thấy có thông tin bất thường, hoặc thông tin sai liên quan đến TTCK đăng phát trên báo chí, cơ quan quản lý TTCK cần thông tin, trao đổi với tòa soạn báo để có giải pháp xử lý như gỡ tin, bài đã đăng trên trang điện từ, hoặc buộc tòa soạn báo phải có đính chính. Ngược lại, cơ quan báo chí cũng cần phân công phóng viên, nhà báo theo dõi lĩnh vực chứng khoán bám sát các hoạt động của cơ quan quản lý TTCK, không để lọt thông tin quan trọng; nhanh chóng, kịp thời đăng tải những thông tin chính thống, chính xác do cơ quan quản lý TTCK cung cấp đến cho công chúng.
Thứ năm, tăng cường đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ phóng viên, biên tập Để có nguồn nhân lực chất lượng tốt, trước hết, các tòa soạn báo cần chú trọng ngay từ khâu tuyển dụng đầu vào các phóng viên, biên tập viên chuyên theo dõi lĩnh vực tài chính, chứng khoán với việc tuyển chọn được nhân lực có chất lượng cao: vừa có kiến thức về tài chính, chứng khoán và vừa có khả năng viết báo. Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động, các phóng viên cũng cần định kỳ, thường xuyên được đào tạo, tập huấn để nâng cao kiến thức chuyên môn về tài chính, chứng khoán cũng như trau dồi kỹ năng tác nghiệp báo chí chuyên nghiệp.
Thứ sáu, các cơ quan báo chí truyền thông cần căn cứ vào chủ trương, định hướng, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các Bộ, ban ngành liên quan để xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, kế hoạch hoạt động cho từng giai đoạn cụ thể, nhằm từng bước hiện thực hóa định hướng, chủ trương của Đảng về phát triển báo chí, phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu đổi mới trong thời kỳ hội nhập. Trong đó, cần bám sát các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Đảng liên quan đến phát triển báo chí và kinh tế, xã hội, trong đó cần bám sát Đề án Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 và mới đây nhất là Quyết định 1431/QĐ-TTg ngày 26/10/2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực thông tin và truyền thông đến năm 2021, định hướng đến năm 2030. Từ đó, trong chỉ đạo, lãnh đạo, quản lý cũng như hoạch định chính sách, đề ra các giải pháp tăng hiệu quả của hoạt động thông tin tuyên truyền, tăng nguồn thu cho tòa soạn, xây dựng bộ máy tinh gọn, có chuyên môn cao. Đồng thời chỉ đạo, lãnh đạo đội ngũ phóng viên, biên tập viên thực hiện nhiệm vụ đạt hiệu quả cao. Những cơ quan báo chí vẫn được Nhà nước cấp ngân sách cho hoạt động cần phải từng bước tăng dần mức độ tự chủ về tài chính, tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động.
Qua những phân tích, đánh giá thực trạng vai trò giữa báo chí và thị trường CKPS có mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ. Bên cạnh tác động tích cực, mối quan hệ này vẫn còn những hạn chế, khiến cho hoạt động tương hỗ, minh bạch thị trường chứng khoán còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Thực tế, có những thông tin không chuẩn xác đã gây nhiễu loạn thị trường chứng khoán, nhà đầu tư mất niềm tin vào thị trường, một số cá nhân vụ lợi thao túng thông tin, thao túng thị trường CKPS nhằm trục lợi, tạo ra những mặt tối của thị trường. Vì vậy, cần sớm hoàn thiện các quy định pháp luật cho thị trường CKPS, trong đó phải nâng cao vai trò minh bạch thông tin thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, nhất là các kênh báo chí chính thống. Việc này sẽ giúp các nhà quản lý sớm phát hiện những rủi ro tiềm tàng trên thị trường, kịp thời chấn chỉnh các biểu hiện thao túng thị trường, đảm bảo thị trường CKPS phát triển lành mạnh, tạo tiền đề phát triển kinh tế - tài chính quốc gia lên một vị thế mới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chứng khoán biến động bất thường? https://nld.com.vn/kinh-te/chung-khoan-bien-dong-bat-thuong-20221121210811552.htm
2. Nguyễn Thị Hải, Trần Thanh Thế (2022), Đánh giá thực trạng chứng khoán phái sinh Việt Nam: Tiềm năng và những hạn chế, Tạp chí Công thương.
3. La Thị Hường (2019), Tính minh bạch trong thông tin về thị trường chứng khoán trên báo điện tử, Luận văn Thạc sĩ ngành Báo chí học, Đại học KHXH&NVHN.
4. Luật Báo chí 2016
5. Luật chứng khoán 2006
6. Nhìn lại 5 năm hoạt động thị trường chứng khoán phái sinh: https://nhandan.vn/nhin-lai-5-nam-hoat-dong-thi-truong-chung-khoan-phai-sinh-post728669.html
7. Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán
8. Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán
9. Nghị định số: 158/2020/NĐ-CP về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh
10. Quyết định 252/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán