Tầm nhìn - Chính sách

Bảo đảm quyền của người khuyết tật ở Việt Nam: Khung pháp luật và giải pháp thúc đẩy

Trịnh Thị Tuyết Mai - Cầm Thị Lai Thứ hai, 18/08/2025 - 17:30
Nghe audio
0:00

(PLPT) - Bài viết phân tích khung pháp luật hiện hành về quyền của người khuyết tật (NKT) tại Việt Nam trong mối tương quan với Công ước về Quyền của Người khuyết tật, đồng thời đánh giá một số thách thức và rào cản trong thực tiễn thực thi.

Tóm tắt: Bài viết phân tích khung pháp luật hiện hành về quyền của người khuyết tật (NKT) tại Việt Nam trong mối tương quan với Công ước về Quyền của Người khuyết tật, đồng thời đánh giá một số thách thức và rào cản trong thực tiễn thực thi. Theo các tác giả, mặc dù pháp luật Việt Nam đã có những bước tiến đáng khích lệ trong việc bảo vệ quyền của NKT trong những thập kỷ gần đây, song việc bảo đảm quyền của nhóm yếu thế này vẫn gặp sự thiếu đồng bộ giữa pháp luật và cơ chế thực hiện, định kiến xã hội. Trên cơ phân tích những hạn chế, bài viết đề xuất một số giải pháp để khắc phục những hạn chế, cũng như vượt qua những thách thức đó, nhằm tăng cường bảo đảm các quyền của NKT ở Việt Nam trong những năm tới.

Từ khoá: Người khuyết tật, quyền của người khuyết tật, pháp luật, Việt Nam

Abstract: The article analyzes the current legal framework on the rights of persons with disabilities in Vietnam in relation to the Convention on the Rights of Persons with Disabilities, and assesses some challenges and barriers in practical implementation. According to the authors, although Vietnamese law has made strides in protecting the rights of persons with disabilities in recent decades, the guarantee of the rights of this vulnerable group still faces a lack of synchronization between the law and the law implementation, social prejudices. Based on analysis of the standing weaknesses, the article proposes some solutions to overcome these limitations, as well as overcome those challenges, in order to strengthen the guarantee of the rights of persons with disabilities in Vietnam in the coming years.

Keywords: Persons with disabilities, rights of persons with disabilities, law

1. Giới thiệu

Quyền của NKT được bảo vệ trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế và văn bản pháp luật của cácquốc gia, trong đó có Việt Nam với mục tiêu tạo ra một xã hội nhân văn, công bằng và hòa nhập. Sau khi phê chuẩn Công ước về quyền của NKT (CRPD) vào năm 2014, Việt Nam đã có những nỗ lực lớntrong việc xây dựng hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm các quyền của NKT. Tuy nhiên, khung pháp luật hiện hành của Việt Nam về vấn đề này hiện vẫn còn một số quy định chưa hợp lý và việc thực hiện trên thực tế còn nhiều thách thức.

Bài viết đầu tiên phân tích khung pháp luật hiện hành của Việt Nam về quyền của NKT, trong đó tập trung vào các nguyên tắc và những quyền cơ bản như giáo dục, y tế, việc làm, tiếp cận công trình công cộng (ở mục 2). Trên cơ sở đó, bài viết đánh giá những thành tựu và khoảng trống trong quy phạm pháp luật và thực thi pháp luật về những quyền đã nêu của NKT (ở mục 3), đồng thời đề xuất một số giải pháp hoàn thiện khung pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật về quyền của NKT theo hướng tiếp cận quyền con người và phù hợp CRPD (ở mục 4).

2. Khung pháp luật hiện hành của Việt Nam về quyền của người khuyết tật

Việt Nam đã chính thức phê chuẩn CRPD vào ngày 28 tháng 11 năm 2014. Sau khi tham gia CRPD, Nhà nước Việt Nam đã tiến hành rà soát, sửa đổi và hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành để nội luật hóa các nguyên tắc và tiêu chuẩn của Công ước. Hiện tại, Luật NKT năm 2010 (LNKTT 2010) là nền tảng pháp lý chuyên ngành quan trọng nhất, bên cạnh đó còn có nhiều văn bản pháp luật khác cũng đề cập việc bảo đảm quyền của NKT. Những văn bản pháp luật quan trọng của Việt Nam về quyền của NKT được thể hiện trong bảng sau đây:

Bảng 1: Các văn bản pháp luật quan trọng hiện hành của Việt Nam về quyền của người khuyết tật

Văn bản pháp luậtNội dung cơ bản
Luật Người khuyết tật 2010Quy định quyền và nghĩa vụ của NKT, trách nhiệm của nhà nước, gia đình và xã hội trong việc bảo đảm quyền, cơ hội bình đẳng, và điều kiện sống, học tập, làm việc của NKT.
Nghị định số 28/2012/NĐ-CPQuy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật NKT, trong đó đặc biệt là các vấn đề liên quan đến xác định mức độ khuyết tật và chính sách trợ giúp xã hội.
Thông tư liên tịch số 34/2012/TTLT-BYT-BLĐTBXHHướng dẫn quy trình, tiêu chí, hồ sơ thủ tục xác định mức độ khuyết tật nhằm hỗ trợ NKT tiếp cận các chính sách và trợ cấp phù hợp.
Quyết định số 753/QĐ-TTg năm 2020Phê duyệt Chương trình trợ giúp NKT giai đoạn 2021-2030, tập trung vào cải thiện chất lượng cuộc sống, hỗ trợ hòa nhập cộng đồng và phát triển năng lực cho NKT.
Nghị định số 144/2013/NĐ-CPQuy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em, bao gồm cả xử phạt hành vi vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của NKT.
Bộ luật Lao động 2022Có những điều khoản bảo vệ quyền làm việc của NKT, yêu cầu doanh nghiệp tạo điều kiện làm việc phù hợp và có chính sách ưu tiên tuyển dụng.

Các văn bản pháp luật Việt Nam nêu đã thể chế hóa nhiều quy định cơ bản của CRPD, trong đó bao gồm các nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt, tiếp cận, và hòa nhập xã hội (CRPD, Điều 3). Các văn bản pháp luật nêu trên cũng đã quy định về việc bảo đảm quyền của NKT trên các lĩnh vực như y tế, giáo dục, lao động, giao thông, văn hoá, thể thao... trong đó bao gồm những chính sách nhằm trợ giúp NKT theo các mức độ và nhóm khuyết tật. Tiếng nói và sự tham gia của NKT vào các vấn đề xã hội liên quan đến họ cũng được ghi nhận, bảo vệ, thông qua các quy định của Luật NKT mà theo đó, NKT được công nhận là chủ thể xã hội có quyền tham gia vào các hoạt động xã hội, chính trị, văn hóa mà không chỉ là đối tượng nhận trợ giúp xã hội. Nhà nước Việt Nam cũng xây dựng các chương trình hành động cụ thể về bảo đảm quyền của NKT, ví dụ như Quyết định 753/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình trợ giúp NKT giai đoạn 2021–2030 trong đó yêu cầu các bộ, ban, ngành có trách nhiệm lồng ghép nội dung quyền của NKT vào kế hoạch hàng năm.

Tóm lại, khung pháp luật hiện hành của Việt Nam về quyền của NKT đã khá toàn diện, thể hiện cam kết và quyết tâm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền của nhóm xã hội này. Đây là nền tảng để thực hiện và giám sát việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền của NKT trong thực tế ở Việt Nam .

3. Một số vấn đề đặt ra và giải pháp thúc đẩy việc bảo đảm quyền của người khuyết tật ở Việt Nam

Mặc dù trong thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng được một khung pháp luật khá toàn diện, tuy nhiên, việc thực hiện một số quy định còn thiếu hiệu quả, đòi hỏi cần có giải pháp để tiếp tục thúc đẩy việc bảo đảm quyền của NKT, cụ thể như sau:

Thứ nhất, điều chỉnh cách tiếp cận và củng cố quy định về một số nguyên tắc cơ bản

Sau khi tham gia CRPD (ngày 22/10/2007), việc nội luật hóa các quy định của Công ước vào pháp luật Việt Nam đã được Nhà nước triển khai, trong đó đầu tiên là việc ban hành Luật NKT năm 2010 - đánh dấu sự thay đổi trong nhận thức và tạo hành lang pháp lý quan trọng trong việc ghi nhận các quyền của NKT. Luật NKT 2010 đã tiếp thu tinh thần của CRPD thông qua việc sử dụng thuật ngữ “NKT” thay vì “người tàn tật” như trong Pháp lệnh Người tàn tật năm 1998. Đây được coi là bước ngoặt quan trọng trong nhận thức của quốc gia về NKT và thể hiện sự tôn trọng phẩm giá của NKT. Tuy nhiên, nội hàm định nghĩa về NKT trong Luật NKT năm 2010 vẫn thiên về cách tiếp cận theo mô hình y tế, tức là coi những khiếm khuyết về mặt y học (khiếm khuyết một hoặc một vài bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng biểu hiện dưới dạng tật) là nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, trở ngại của họ vào cuộc sống. Nói cách khác, định nghĩa NKT trong Luật NKT 2010 của Việt Nam vẫn chưa thể hiện được quan điểm chủ đạo của CRPD, trong đó xem những rào cản từ xã hội là nguyên nhân chính tạo ra và làm trầm trọng hóa tình trạng khuyết tật của một người. Trong khi đó, khái niệm phân biệt đối xử và kỳ thị NKT quy định trong Luật NKT năm 2010 được xây dựng theo cách mô tả các hành vi cụ thể, vì thế chưa khái quát được rằng phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật chính là việc chưa bảo đảm sự thụ hưởng quyền con người của NKT trên cơ sở bình đẳng với các chủ thể khác.

Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam về NKT vẫn chưa đưa ra một số định nghĩa như “Giao tiếp”, “Ngôn ngữ”, “Điều chỉnh hợp lý” và “Thiết kế phổ quát” như đã được đề cập trong CRPD. Điều này gây khó khăn cho việc xoá bỏ các rào cản về ngôn ngữ, cũng như thực hiện các yêu cầu về điều chỉnh hợp lý và thiết kế phổ quát, đặc biệt khi pháp luật chưa có quy định rằng việc từ chối thực hiện những quy định này sẽ tạo nên phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật.

Nhìn rộng hơn, một số nguyên tắc cơ bản nêu ở CRPD, cụ thể như nguyên tắc “Tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận NKT là bộ phận của nhân loại có tính đa dạng”, “ Tham gia và hoà nhập trọn vẹn và hữu hiệu vào xã hội” và “Thừa nhận tính chất dễ bị tổn thương hơn (tổn thương kép) của phụ nữ và các bé gái khuyết tật” chưa được thể hiện rõ trong Luật Người khuyết tật năm 2010 của Việt Nam. Theo Luật NKT, vấn đề “tiếp cận” mới chỉ được xem là một nguyên tắc trong tiếp cận giao thông, công trình công cộng mà chưa được coi là một nguyên tắc trong tất cả các chính sách về NKT, bao gồm cả việc tiếp cận với trang thiết bị y tế, giáo dục... Đặc biệt, vấn đề sống độc lập, tuy đã được định nghĩa trong Luật NKT nhưng chưa có quy định cụ thể, trong khi những công việc trợ giúp cá nhân với NKT chưa được xác định là một nghề cũng như chưa có các quy định về đào tạo, chứng nhận và tiêu chuẩn nghề nghiệp, định mức chi trả trong khi đó trợ giúp cá nhân đã được xem là một nghề được quốc tế thừa nhận.

Từ những phân tích ở trên, có thể thấy Nhà nước cần: Sửa đổi, bổ sung khái niệm “NKT” trong Luật NKT năm 2010 theo hướng tiếp cận dựa trên quyền và tiếp cận với góc độ xã hội thay vì tiếp cận dưới góc độ y tế như hiện nay; Bổ sung các khái niệm về “giao tiếp”, “ngôn ngữ”, “điều chỉnh hợp lý”, “thiết kế phổ quát” và các nguyên tắc “sự tham gia và hoà nhập xã hội đầy đủ và hiệu quả”, “tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận NKT như một phần của sự đa dạng nhân loại và nhân văn”, “tiếp cận”, “thừa nhận tính chất dễ bị tổn thương hơn (tổn thương kép) của phụ nữ và các bé gái khuyết tật” vào Luật này để tạo điều kiện thuận lợi trong việc ghi nhận và thực thi quyền của NKT; Bổ sung các quy định và tiêu chuẩn cơ bản liên quan đến sống độc lập của NKT, bao gồm những tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề, chức năng nhiệm vụ và phát triển các chương trình đào tạo việc chăm sóc và hỗ trợ cá nhân NKT.

Thứ hai, xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử, kỳ thị đối với người khuyết tật

Pháp luật Việt Nam hiện hành đã có nhiều quy định về nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử vì bất kỳ lý do gì, bao gồm sự khuyết tật. Tuy nhiên, trong thực tế, NKT ở Việt Nam vẫn đang gặp những rào cản về phân biệt đối xử từ nhiều phía, trên nhiều phương diện khác nhau, cụ thể như sau: Một là định kiến xã hội với người khuyết tật, đặc biệt là người có khuyết tật thần kinh, tâm thần, dẫn đến các hành vi phân biệt đối xử với họ trong chăm sóc, đặc biệt là chăm sóc tại nhà. Cụ thể, có đến 45,5% người tham gia điều tra trả lời cho rằng nên chăm sóc NKT tại cơ sở bảo trợ xã hội[1], chỉ có 15% số người trả lời cho rằng việc chăm sóc NKT nên dựa vào gia đình và cộng đồng, vì thế, người có khuyết tật dạng tâm thần chiếm tỉ lệ cao nhất, phổ biến nhất trong các cơ sở nuôi dưỡng NKT[2]. Hai là thái độ kỳ thị và phân biệt đối xử với trẻ em khuyết tật trong giáo dục. Cụ thể, chỉ có 42,7% số người trả lời cho rằng trẻ em khuyết tật nên đi học hòa nhập với trẻ em khác[3], 24,0% số người trả lời cho rằng trẻ khuyết tật nên học trường chuyên biệt[4]; khoảng 3,5% trường học gặp khó khăn trong giáo dục trẻ em khuyết tật vì gặp thái độ phân biệt đối xử từ phía cộng đồng[5]; đa số các trường học hiện vẫn chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận về cơ sở vật chất cho học sinh khuyết tật[6]; 72,3% số trường học thiếu giáo viên có trình độ, chuyên môn và kỹ năng giảng dạy trẻ khuyết tật[7]. Ba là phân biệt đối xử trong lao động - việc làm. Cụ thể, 53% số NKT khi tham gia tuyển dụng bị từ chối nhận vì lý do khuyết tật, trong khi nhiều người bị phân biệt đối xử và kỳ thị tại nơi làm việc, bố trí việc làm không phù hợp, cơ sở hạ tầng và giao thông không tiếp cận; không được ký hợp đồng lao động, lương thấp hoặc không được tăng lương, không được thăng tiến[8]. Do đó, có khoảng 13% số NKT từ 15 đến 59 tuổi đã tốt nghiệp tiểu học trở lên trả lời rằng “khuyết tật” là lý do khiến họ không có việc làm[9]. Bốn là phân biệt đối xử trong hôn nhân và gia đình. Cụ thể, 10% số người được khảo sát trả lời cho rằng NKT không nên kết hôn. Tỷ lệ số NKT đang có vợ hoặc có chồng là 51,9% so với 71,5% ở nhóm người không khuyết tật; 35,2% số NKT có tình trạng hôn nhân là goá, ly hôn hoặc ly thân; trong khi con số này ở nhóm người không khuyết tật chỉ là 7,6%[10].

Từ những phân tích ở trên, có thể thấy Nhà nước cần: (i) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức về quyền của NKT cho bản thân NKT, gia đình của họ, người sử dụng lao động khuyết tật và cộng đồng có NKT chú trọng vấn đề quyền bình đẳng và các chính sách chống kỳ thị, phân biệt đối xử với NKT (ii) Sửa đổi, bổ sung các tài liệu và phương pháp giảng dạy phù hợp với cách học và năng lực của trẻ khuyết tật song song với việc giải quyết không gian trường học tiếp cận. Kiểm tra, rà soát các cơ sở giáo dục chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với NKT, có kế hoạch cải tạo, nâng cấp kịp thời và ưu tiên bố trí kinh phí cho việc cải tạo, nâng cấp các cơ sở giáo dục đáp ứng chuẩn tiếp cận công trình đối với NKT. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động nâng cao nhận thức, năng lực và kỹ năng dạy trẻ em khuyết tật cho giáo viên và cán bộ trong hệ thống giáo dục các cấp; (iii) Nghiên cứu tăng mức độ nghiêm khắc của các chế tài pháp lý đối với hành vi phân biệt đối xử trong tuyển dụng, sử dụng lao động là NKT; (iv) Khuyến khích, hỗ trợ phát triển các hội nhóm, câu lạc bộ của NKT để đẩy mạnh sự tham gia của NKT và gia đình NKT vào các hoạt động xã hội.

Thứ ba, xoá bỏ rào cản trong việc tiếp cận giao thông, công trình xây dựng, tư pháp và thông tin truyền thông đối với người khuyết tật

Về tiếp cận giao thông, pháp luật Việt Nam đã có quy định nhằm bảo đảm tiếp cận giao thông công cộng cho NKT như: ban hành lộ trình xây dựng, cải tạo công trình giao thông, phương tiện giao thông tiếp cận cho NKT; miễn giảm giá vé, dịch vụ và các ưu tiên khác khi tham gia giao thông; cung cấp thông tin và người hỗ trợ; xử lý hành chính đối với hành vi vi phạm liên quan đến giao thông tiếp cận đối với NKT. Mặc dù vậy, trong thực tế việc thực thi các quy định này còn nhiều hạn chế, khiến NKT vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn khi tham gia giao thông công cộng. Tương tự, trong vấn đề tiếp cận công trình xây dựng, Việt Nam đã ban hành Quy chuẩn quốc gia về xây dựng công trình công cộng bảo đảm tiếp cận dành cho NKT năm 2014 và 2024. Tuy nhiên, theo khảo sát, mới chỉ có 22,6% số công trình y tế, 20,8% số công trình giáo dục, 13,2% số nhà triển lãm, nhà trưng bày, 11,3% số trung tâm hội nghị, trụ sở cơ quan; 5,7% số siêu thị; 3,8% số nhà thi đấu, bưu điện, nhà ga, cửa khẩu; 7,5% số nhà dưỡng lão, câu lạc bộ hưu trí và 2% số ngân hàng bảo đảm tiếp cận đối với NKT[11]. Đặc biệt, ở cấp cơ sở, chỉ có 16,9% số trạm y tế được thiết kế phù hợp với tiêu chuẩn tiếp cận cho NKT[12]. Về tiếp cận thông tin truyền thông, Luật NKT, Luật Phổ biến giáo dục pháp luật và Luật Tiếp cận thông tin đã có quy định theo hướng Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để NKT thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Tuy nhiên, trong thực tế, việc bảo đảm quyền này còn rất hạn chế, một phần do các cơ quan nhà nước thiếu nguồn nhân lực, vật lực cần thiết. Hiện tại, ngôn ngữ ký hiệu dành cho người điếc chỉ mới được sử dụng ở một số kênh truyền hình trung ương và địa phương; đa số website của các bộ, cơ quan ngang bộ hiện nay đều chưa ứng dụng các phần mềm hỗ trợ người khiếm thị tiếp cận thông tin (ngoại trừ website của Bộ Thông tin - Truyền thông nay đã sáp nhập vào Bộ Khoa học và Công nghệ).

Từ những phân tích ở trên, có thể thấy Nhà nước cần: (i) Ban hành Quy chuẩn, tiêu chuẩn tiếp cận với NKT theo hướng thiết giao thông kế phổ quát; (ii) Tổ chức rà soát, kiểm tra, đánh giá thực trạng cải tạo, nâng cấp các công trình công cộng, hạ tầng giao thông, phương tiện giao thông theo tiêu chuẩn quốc gia về tiếp cận sử dụng đối với NKT, trên cơ sở đó có biện pháp đẩy nhanh các hoạt động bảo đảm thực hiện đúng quy định của Luật NKT năm 2010 tại các điều 40, 41, 42 và các quy định có liên quan; (iii) Ưu tiên bố trí ngân sách để cải tạo, nâng cấp các công trình công cộng, hạ tầng giao thông xây dựng từ trước năm 2010 nhằm bảo đảm tiếp cận sử dụng theo hướng thiết kế phổ quát; (iv) Tăng cường tuyên truyền, phổ biến các quy định liên quan đến quyền của NKT đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao thông vận tải; thiết lập đường dây nóng để nhận phản ánh vấn đề liên quan đến vấn đề tiếp cận các công trình xây dựng, giao thông công cộng của NKT; (v) Tăng chế tài xử phạt đối với các trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định về hỗ trợ NKT khi tham gia giao thông; Bổ sung quy định xử phạt hành chính đối với trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý khai thác bến xe, trạm dừng nghỉ, cung cấp dịch vụ vận tải hành khách không thực hiện hoặc thực hiện không đúng lộ trình cải tạo, nâng cấp xe, bến xe, trạm dừng nghỉ để bảo đảm NKT tiếp cận; (vi) Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định tại Điều 43 của Luật NKT năm 2010 theo hướng bảo đảm phù hợp, đồng bộ với Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và các luật khác có liên quan, trong đó, cần khẳng định rõ chính sách: “NKT có quyền tiếp cận với những nội dung thông tin liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ và những thông tin hợp pháp khác theo quy định của pháp luật tiếp cận thông tin và pháp luật khác có liên quan.”; (vii) Có lộ trình xây dựng trang thông tin điện tử tiếp cận với NKT của các cơ quan nhà nước; tăng cường kỹ năng hướng dẫn phù hợp với từng dạng khuyết tật của cán bộ đầu mối cung cấp thông tin cho NKT; (viii) Khuyến khích các tập đoàn, doanh nghiệp viễn thông, các cơ quan, tổ chức, cá nhân đẩy mạnh việc nghiên cứu, đầu tư, áp dụng các công nghệ hiện đại, công nghệ mới về thông tin và truyền thông phục vụ NKT; (ix). Tăng cường sử dụng phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu trên các kênh truyền hình, đặc biệt là các kênh thời sự.

Thứ tư, xoá bỏ rào cản trong việc tiếp cận với giáo dục, đào tạo đối với người khuyết tật

Việt Nam đã có nhiều chính sách quy định về giáo dục đối với NKT như Luật Giáo dục, Luật NKT, trong đó đề cập việc trẻ em khuyết tật cần được tiếp cận tất cả loại hình giáo dục. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về việc Nhà nước có nghĩa vụ “bảo đảm một hệ thống giáo dục hoà nhập ở tất cả các cấp và chương trình học tập suốt đời” như quy định của CRPD. Luật NKT vẫn phân loại khuyết tật theo 06 dạng khuyết tật, vô tình làm những dạng tật không được nêu trực tiếp trong Luật (như tự kỷ) khi tham gia vào các hoạt động giáo dục bị giảm cơ hội được hỗ trợ từ các chính sách của Nhà nước và của ngành giáo dục. Trong thực tế, tỷ lệ biết chữ của NKT còn thấp (74,4%) so với tỷ lệ biết chữ chung của toàn quốc (92,68%) và của người không khuyết tật (94,31%). Tỷ lệ phụ nữ khuyết tật biết chữ (69,8%) cũng thấp hơn so với tỷ lệ này ở nam giới khuyết tật (81,6%) và ở nông thôn (72,5%) thấp hơn so với thành thị (80,2%)[13]. Trình độ học vấn của NKT thấp so với mặt bằng chung của cả nước. Trong tương quan NKT chiếm 6,11% dân số từ 2 tuổi trở lên thì số NKT chiếm 15,37% số người chưa hoàn thành bậc tiểu học[14]. Trong nhóm dân số là NKT từ 5 tuổi trở lên, vấn đề trình độ học vấn càng thể hiện rõ cơ hội học tập của NKT với hơn một nửa số NKT chưa học hết tiểu học. Điều đáng lưu ý là sự chênh lệch giảm dần giữa tỷ lệ NKT hoàn thành tiểu học, trung học cơ sở và hoàn thành trung học phổ thông là rất đáng kể, thể hiện sự khó khăn cho NKT để tiếp cận bậc giáo dục cao hơn[15]. Điều kiện thực hiện hoạt động giáo dục có chất lượng còn đang hạn chế do thiếu về cả số lượng và chất lượng giáo viên có kiến thức và phương pháp dạy trẻ khuyết tật[16]. Trang thiết bị tiếp cận cho học sinh khuyết tật ở các trường học hòa nhập còn thiếu[17]. Thiết bị học tập đặc thù như chữ nổi Braille, dụng cụ hỗ trợ thị lực và vận động, sách, băng hình/sách ngôn ngữ ký hiệu cho trẻ khuyết tật nghe nói... chưa được quản lý và theo dõi một cách hệ thống[18]. Hiện chưa có quy định danh mục tối thiểu bắt buộc nên việc cung cấp và quản lý thiết bị hỗ trợ đặc thù cho trẻ khuyết tật còn bị bỏ ngỏ, dẫn đến việc thiếu trang thiết bị cơ bản bảo đảm chất lượng giáo dục cho trẻ em khuyết tật. Ứng dụng công nghệ thông tin chưa được khuyến khích đưa vào các hoạt động giáo dục chính thống mặc dù công nghệ thông tin đã được nghiên cứu có thể hỗ trợ tích cực cho trẻ có khuyết tật đặc biệt và có giao tiếp đặc thù. Người khiếm thị, khiếm thính cần nhiều trợ giúp về công nghệ thông tin để tiếp cận tài liệu học tập ở các bậc học cao hơn. Việc di chuyển, đi lại và tiếp cận từ nhà đến trường của trẻ gặp nhiều rào cản, đặc biệt đối với nhóm trẻ em khu vực nông thôn và miền núi, trong khi khả năng tiếp cận vật lý trường học ảnh hưởng rất lớn tới việc tham gia giáo dục của trẻ em khuyết tật (chiếm 60% nguyên nhân bỏ học).

Từ những phân tích ở trên, có thể thấy Nhà nước cần: (i) Ban hành quy định bảo đảm các cơ sở giáo dục thực hiện giáo dục hoà nhập có chất lượng ở tất cả các cấp cho NKT; (ii) Mở rộng các mô hình giáo dục linh hoạt khác tại cộng đồng như giáo dục từ xa, giáo dục tại nhà, tại cộng đồng song song với các loại hình hiện có, nhằm tạo thuận lợi cho các trẻ có dạng và mức độ khuyết tật khác nhau, đặc biệt là trẻ khuyết tật nặng và đặc biệt nặng; (iii) Dành ngân sách hằng năm cho chương trình giáo dục trẻ em khuyết tật trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, trong đó bao gồm ngân sách cho nhân viên hỗ trợ, các trung tâm hỗ trợ, tập huấn nâng cao năng lực cho giáo viên và cán bộ quản lý, các hoạt động hỗ trợ trực tiếp trẻ khuyết tật tại trường và từ nhà đến trường; (iv)Bảo đảm giáo viên được đào tạo, tập huấn phương pháp dạy trẻ em khuyết tật phù hợp và phân bổ, xây dựng lực lượng nhân viên hỗ trợ giáo dục, giáo viên có bằng cấp về giáo dục theo dạng tật, nhân viên công tác xã hội cho NKT tại các cơ sở giáo dục; (v) Mở rộng xây dựng các trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hoà nhập các cấp, xây dựng phòng hỗ trợ giáo dục NKT tại các trường để thúc đẩy chất lượng giáo dục NKT, nâng cao tỷ lệ đi học và giảm thiểu tỷ lệ bỏ học của NKT; (vi) Đánh giá mức độ tiếp cận của toàn bộ hệ thống trường học và cơ sở giáo dục theo Quy chuẩn QCVN 10:2014/BXD, từ đó điều chỉnh, sửa chữa những công trình hiện có và giám sát xây dựng những công trình mới phù hợp quy chuẩn tiếp cận cho NKT sử dụng; (vii)Tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học kỹ thuật về phương tiện, công cụ hỗ trợ giáo dục cho NKT, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thiết bị, vật liệu, học liệu đặc thù cho giáo dục trẻ em khuyết tật; (viii) Thực hiện chương trình nâng cao nhận thức và kiến thức cho cộng đồng cha mẹ của trẻ em khuyết tật và cha mẹ học sinh khác trong trường về giáo dục trẻ em khuyết tật; nâng cao nhận thức của hệ thống các trường đại học và cao đẳng trong việc hỗ trợ sinh viên khuyết tật.

Thứ năm, xoá bỏ rào cản trong việc tiếp cận với y tế

Mặc dù quyền được chăm sóc y tế đối với người khuyết tật đã được pháp luật Việt Nam ghi nhận, nhưng trong thực tế, việc thực hiện quyền này còn nhiều thách thức. Hiện nay, số NKT có bảo hiểm y tế chiếm tỷ lệ cao hơn số người không khuyết tật (90,1% so với 80,1%) do những phúc lợi mà NKT nhận được từ một số chương trình của Chính phủ và cũng thể hiện những nỗ lực của Chính phủ trong việc cung cấp bảo hiểm y tế cho NKT [2, p. 260]. Tuy nhiên, đối tượng NKT được hưởng chính sách bảo hiểm y tế lại hạn chế. Theo Luật Bảo hiểm y tế năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014, 2025) và Luật NKT thì chỉ NKT nặng và đặc biệt nặng được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí và được hỗ trợ 100% chi phí khám chữa bệnh[19]. Như vậy, nếu không thuộc các đối tượng bảo trợ xã hội khác, NKT mức độ nhẹ hầu như không được hưởng bất kỳ chính sách ưu tiên nào về bảo hiểm y tế, bao gồm thuộc diện mua bảo hiểm y tế bắt buộc theo cơ sở lao động (loại bảo hiểm bắt buộc này được hưởng hỗ trợ một phần từ phía chủ lao động). Về phạm vi chi trả bảo hiểm y tế đối với nhóm NKT nặng và đặc biệt nặng, hiện nay mới chỉ chi trả một số dịch vụ cơ bản mà chưa bao gồm những dịch vụ kỹ thuật cao hay các dụng cụ đặc thù cho NKT. Những dụng cụ chỉnh hình như chân tay giả, máy trợ thính, phương tiện trợ giúp vận động lại thuộc danh mục không được hưởng bảo hiểm y tế, trong khi những dụng cụ trợ giúp đó có thể tác động lớn đến khả năng của NKT khi tham gia vào xã hội. Hoặc các dịch vụ can thiệp tâm lý cho NKT trí tuệ, thần kinh, tâm thần không nằm trong danh mục được Bảo hiểm y tế chi trả, do vậy cho dù được cấp bảo hiểm y tế miễn phí, nhưng NKT trí tuệ, thần kinh, tâm thần vẫn phải trả tiền khi sử dụng các dịch vụ hỗ trợ tâm lý, xã hội trong khoảng thời gian dài, thậm chí là cả đời. Hơn nữa, người có khuyết tật thần kinh, tâm thần cần điều trị dài ngày nhưng phạm vi thanh toán của bảo hiểm y tế chỉ trả viện phí khi NKT nằm điều trị nội trú trong bệnh viện 24/24 giờ, hoặc chỉ chi trả điều trị nội trú ban ngày đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh y học cổ truyền. Phạm vi hưởng bảo hiểm y tế còn chồng chéo khi người có khuyết tật thuộc diện được cấp bảo hiểm y tế miễn phí dành cho người có khuyết tật nhưng vẫn phải chi trả chi phí mua bảo hiểm y tế bắt buộc khi tham gia lao động.

Một vấn đề nữa là, mặc dù được tiếp cận với bảo hiểm y tế, nhưng bảo hiểm y tế chỉ có thể được sử dụng hiệu quả nếu các cơ sở y tế được trang bị các trang thiết bị phù hợp, có các dịch vụ hỗ trợ thích hợp và nhân viên y tế được đào tạo đầy đủ. Trong khi đó, thực tế hiện nay chỉ có 16,9% số trạm y tế được thiết kế phù hợp với tiêu chuẩn tiếp cận cho NKT, tỷ lệ trạm y tế có công trình vệ sinh thiết kế phù hợp cho NKT chỉ chiếm 22,4%, chỉ có khoảng 41,7% số trạm y tế có lối đi, đường dốc dành cho NKT vận động[20]. Người khiếm thị và NKT nghe, nói còn gặp khó khăn khi không nghe hoặc nhìn được số thứ tự gọi, trong khi cơ sở y tế thì chưa trang bị các bảng hiệu, loa để NKT nhận biết, thiếu tài liệu bằng chữ nổi để giao tiếp với người khiếm thị, không có phiên dịch trợ giúp khi khám chữa bệnh. Số bệnh viện có sử dụng dịch vụ phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu cho người điếc chỉ vẫn còn rất thấp và chủ yếu ở các thành phố lớn[21]. Số cán bộ, nhân viên y tế được đào tạo kiến thức về NKT cũng chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ chiếm 12,6% số nhân viên trạm y tế xã hoặc phường[22].

Từ những phân tích ở trên, có thể thấy Nhà nước cần: (i) Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi Luật Bảo hiểm y tế và các chính sách liên quan để rộng đối tượng được hỗ trợ cấp bảo hiểm y tế miễn phí bao gồm cả NKT mức độ nhẹ; mở rộng phạm vi thanh toán của bảo hiểm y tế đối với NKT nặng và đặc biệt nặng khi sử dụng các dụng cụ hỗ trợ, dụng cụ chỉnh hình và các dịch vụ kỹ thuật cao trong quá trình khám bệnh chữa bệnh; mở rộng phạm vi danh mục vật tư y tế, trang thiết bị y tế thuộc danh mục thanh toán của bảo hiểm y tế bao gồm cả các trang thiết bị hỗ trợ chỉnh hình cho NKT có nhu cầu, máy trợ thính, ốc tai điện tử cho người khiếm thính; chân tay giả; một số thuốc cho người có khuyết tật thần kinh, tâm thần… điều chỉnh quy định về việc miễn đóng chi phí tham gia bảo hiểm y tế của người lao động là NKT đã được hưởng bảo hiểm y tế miễn phí theo chính sách khác; (ii) Rà soát và ban hành các văn bản quy định các cơ sở y tế (công lập và tư nhân) phải cung cấp hoặc có lộ trình cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe bình đẳng và phù hợp đối với NKT, bao gồm cả việc bố trí cơ cấu nhân sự, nhân viên hỗ trợ NKT, tiếp cận cơ sở vật chất, tiếp cận các trang thiết bị y tế hay các biện pháp bảo đảm NKT tiếp cận được thông tin y tế liên quan (như sử dụng dịch vụ ngôn ngữ ký hiệu); đẩy mạnh và phát triển mới các chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng và dịch vụ phục hồi chức năng sẵn có ở địa phương, đặc biệt là dành cho trẻ em khuyết tật và người có khuyết tật trí tuệ, thần kinh, tâm thần và khuyết tật đặc biệt nặng tối đa hóa khả năng sống độc lập của NKT; (iii) Ưu tiên phát triển đào tạo các lĩnh vực sâu và đa dạng trong chuyên ngành phục hồi chức năng cả bậc cử nhân và thạc sĩ; thực hiện nghiên cứu khoa học và nghiên cứu đánh giá tình hình thực hiện ở Việt Nam, đồng thời rà soát và chuẩn hóa chương trình đào tạo về vấn đề này; (iv) Đẩy mạnh các chương trình tăng cường nhận thức cộng đồng về các hoạt động phục hồi chức năng bằng nhiều hình thức và các kênh truyền thông khác nhau, bảo đảm các chương trình này sử dụng các phương thức tiếp cận như chữ nổi Braille, ngôn ngữ ký hiệu, hình ảnh đơn giản… phù hợp với các dạng khuyết tật.

Thứ sáu, xoá bỏ rào cản trong việc đào tạo nghề nghiệp và việc làm

Quyền được bảo hộ về việc làm, hỗ trợ về đào tạo nghề nghiệp của NKT theo pháp luật Việt Nam đã được ghi nhận khá đầy đủ trong Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, Luật NKT năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, trên thực tế, vấn đề đào tạo nghề nghiệp và cơ hội có việc làm của NKT ở Việt Nam còn gặp không ít khó khăn. Số NKT được đào tạo nghề nghiệp phù hợp chiếm tỷ lệ chưa cao, cụ thể: cứ 100 NKT từ 15 tuổi trở lên thì chỉ có 7 người được dạy nghề (7,3%), trong khi con số này ở người không khuyết tật là 22 người (21,9%)[23]. Hiện mới chỉ có 32,76% số NKT tham gia lực lượng lao động so với 83,20% số người không khuyết tật. Khoảng 13% số NKT từ 15 đến 59 tuổi đã tốt nghiệp tiểu học trở lên trả lời rằng “khuyết tật” là lý do khiến họ không có việc làm[24]. Đặc biệt, số NKT khi đi tham gia tuyển dụng bị từ chối nhận vì khuyết tật chiếm tỷ lệ khá cao (53%)[25]. Ngoài ra, NKT bị phân biệt đối xử và kỳ thị nơi làm việc, bố trí việc làm không phù hợp, cơ sở hạ tầng và giao thông không tiếp cận; NKT không được ký hợp đồng lao động chính thức, lương thấp hoặc không được tăng lương, không được thăng tiến[26].Chính sách miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp sử dụng lao động là NKT hiện nay đã được ban hành song chưa khuyến khích được nhiều doanh nghiệp sử dụng lao động là NKT. Doanh nghiệp sử dụng từ 30% số lao động bình quân trong năm là NKT và có tổng số lao động bình quân trong năm từ 20 người trở lên thì được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế, có nhiều doanh nghiệp nhận từ 30% - 50%, thậm chí là 100% lao động là NKT nhưng lại không đủ tổng số 20 lao động ký hợp đồng từ một năm trở lên trong một năm. Những doanh nghiệp nhỏ không được hưởng chính sách này dù đã sử dụng lao động là NKT cao hơn tỷ lệ ưu đãi theo quy định. Số lượng NKT tiếp cận chính sách vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất, kinh doanh từ Ngân hàng chính sách xã hội còn rất thấp, chỉ khoảng trên 11.000 người (chiếm 0,23% tổng số NKT trong độ tuổi lao động)[27]. Nguyên nhân bắt nguồn từ việc chưa có chương trình vay vốn dành riêng cho NKT hoặc chưa có nguồn vay vốn riêng dành cho NKT trong Quỹ quốc gia về việc làm. NKT tự tạo việc làm, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là NKT còn gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm do nhiều nguyên nhân khác nhau như: thiếu sự quan tâm của chính quyền trong việc ban hành chính sách cụ thể hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm của NKT; một số sản phẩm do NKT làm ra còn kém tinh xảo, hoạt động bán hàng chưa chuyên nghiệp; đa số các hộ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp của NKT còn hoạt động đơn lẻ, thiếu chủ động trong khâu liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm[28]…

Từ những phân tích ở trên, có thể thấy Nhà nước cần: (i)Tăng cường công tác tuyên truyền về chính sách đào tạo nghề nghiệp đối với NKT, nghiên cứu đổi mới chương trình dạy nghề theo hướng tăng số giờ dạy thực hành; nghiên cứu xây dựng giáo trình dạy nghề riêng cho NKT, đặc biệt là người khiếm thị, chú trọng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển tài liệu, giáo trình bằng chữ nổi, sách nói, công cụ hỗ trợ học tập, đồng thời, tăng cường sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, bố trí phiên dịch trong các lớp dạy nghề có người điếc. Bên cạnh đó, cần tăng cường bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ giáo viên dạy nghề đối với NKT nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng và quy mô giáo viên dạy nghề cho NKT, đa dạng hóa ngành nghề đào tạo và chú trọng khâu tư vấn học nghề, nhằm đáp ứng nhu cầu, khả năng, điều kiện của NKT trong học nghề; (ii)Tăng cường kiểm tra các cơ sở đào tạo nghề nghiệp thuộc phạm vi quản lý về việc tuân thủ tiếp cận công trình đối với NKT theo Quy chuẩn quốc gia QCVN 10:2014, ưu tiên bố trí kinh phí cải tạo, nâng cấp những công trình chưa đủ tiêu chuẩn tiếp cận; (iii)Quy định bắt buộc về tỷ lệ tối thiểu lao động là NKT trong các cơ quan, doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu đặc thù lao động trong từng lĩnh vực, từng ngành nghề và điều kiện thực tế của mỗi địa phương; có chế tài cụ thể cho các trường hợp đơn vị nào không đáp ứng quy định này; (iv) Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số nghị định về xử phạt hành chính liên quan đến tuyển dụng, sử dụng lao động là NKT, đặc biệt, cần quy định mức chế tài xử phạt thích đáng với những hành vi vi phạm quyền của người lao động là NKT trong tuyển dụng và sử dụng lao động; (v) sửa đổi hoặc hủy bỏ quy định tại khoản 3 Điều 1 Luật Sửa đổi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 sửa đổi năm 2013 về điều kiện doanh nghiệp sử dụng 30% số lao động là NKT phải có ít nhất 20 người lao động ký hợp đồng lao động trong năm mới được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; (vi)Ban hành các chính sách ưu tiên giới thiệu xúc tiến thương mại, tiêu thụ sản phẩm của NKT, đồng thời, có các giải pháp tuyên truyền, nâng cao nhận thức, khuyến khích các hộ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp của NKT chủ động liên kết với nhau trong sản xuất và tìm kiếm nguồn tiêu thụ sản phẩm ổn định, bền vững.

4. Kết luận

Bảo đảm quyền của NKT là một yêu cầu thiết yếu trong việc thực hiện công bằng xã hội, thúc đẩy phát triển bền vững và tôn trọng phẩm giá con người. Mặc dù Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ NKT sau khi tham gia CRPD, song việc triển khai trên thực tế vẫn còn nhiều thách thức, cụ thể là: cách tiếp cận pháp luật còn chịu ảnh hưởng mạnh từ mô hình y học, định kiến xã hội và rào cản vật lý – thông tin vẫn phổ biến, hệ thống giáo dục – y tế – việc làm chưa thực sự bao trùm và tiếp cận.

Để khắc phục những hạn chế trên, cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về NKT theo hướng tiếp cận dựa trên quyền con người, bảo đảm các nguyên tắc phổ quát, bình đẳng, không phân biệt đối xử và hòa nhập. Cụ thể, cần sửa đổi các khái niệm pháp lý nền tảng trong Luật NKT năm 2010, mở rộng phạm vi chính sách y tế – giáo dục – lao động, tăng cường giám sát thực thi pháp luật, và phát huy vai trò của NKT như một chủ thể tích cực của tiến trình phát triển. Đồng thời, việc lồng ghép quyền của NKT vào các chiến lược phát triển quốc gia sẽ tạo nền tảng để Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và hướng tới một xã hội thực sự bao trùm và không bỏ ai lại phía sau./.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ luật Lao động năm 2019

2. Bộ y tế; Nhóm đối tác y tế (Health Partnership Group - HPG), "Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm 2014: Tăng cường dự phòng và kiểm soát bệnh không lây nhiễm," NXB Y học, Hà Nội, 2014.

3. Chính phủ, "Báo cáo quốc gia lần thứ nhất về thực thi Công ước Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật," 2017.

4. Cổng thông tin điện tử Chính phủ, "Đề xuất bố trí nguồn vốn ưu đãi dành riêng cho người khuyết tật," 2018.

5. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

6. Liên hiệp Hội về Người khuyết tật Việt Nam, "Báo cáo Kết quả tham vấn trẻ em khuyết tật về tình hình thực hiện UNCRPD tại Việt Nam," 2017

7. Liên hiệp Hội về Người khuyết tật Việt Nam, "Báo cáo nghiên cứu tình hình thực hiện UNCRPD đối với nhóm khuyết tật trí tuệ, thần kinh, tâm thần," 2016.

8. Liên hiệp Hội về Người khuyết tật Việt Nam, "Báo cáo nghiên cứu thực địa về tình hình việc thực hiện UNCRPD," 2016.

9. Liên hiệp Hội về Người khuyết tật Việt Nam, "Báo cáo quyền của trẻ khuyết tật," 2016.

10. Liên hiệp Hội về Người khuyết tật Việt Nam, "Báo cáo tổng kết công tác," 2018.

11. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015

12. Luật Người khuyết tật 2010 (Việt Nam).

13. N. H. Phương, "Báo cáo Tổng quan nghiên cứu tài liệu về chính sách dành cho người khuyết tật tại Việt Nam," 2016.

14. N. Mekong, "Báo cáo Khảo sát về Khả năng tiếp cận trường học ở Việt Nam," 2017.

15. Nghị định số 28/2012/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật (Viet.).

16. Nguyễn Thị Lan Hương, “Thực hiện quyền người khuyết tật ở Việt Nam theo Công ước quốc tế”,Tạp chí Nhân quyền Việt Nam, số 4 (2022).

17. Quyết định 753/QĐ-TTg năm 2020 về chương trình trợ giúc người khuyết tật giai đoạn 2021–2030.

18.T. A. Obaid, Sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục của người khuyết tật, (2012).

19.T. Bình, "Mô hình “Ngôi nhà bình yên”: Xóa nỗi ám ảnh bạo lực gia đình" (2019).

20.T. Trúc, "Tìm cách hỗ trợ doanh nghiệp của người khuyết tật" (2018).

21.Tổng cục Thống kê, "Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2019," Hà Nội, 2019.

22.Tổng cục Thống kê, "Điều tra Quốc gia về người khuyết tật 2016 (VDS2016) - Báo cáo cuối cùng," Tổng cục thống kê, Hà Nội, Việt Nam, 2016.

23.TDSI, "Đề án giao thông hỗ trợ người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020," 2016.

24.Tổ chức Lao động quốc tế, "Báo cáo khảo sát về đào tạo nghề nghiệp và tạo việc làm cho người khuyết tật tại Việt Nam," 2011.

25.Tổng cục Thống kê, Khảo sát mức sống dân cư năm 2020.

26.Trung tâm Hành động vì sự phát triển cộng đồng, "Báo cáo Đánh giá năng lực và nhu cầu phát triển hội nhóm của người khuyết tật," 2019.

27.Trung tâm Hành động vì sự phát triển cộng đồng, "Báo cáo khảo sát tình hình bạo lực tình dục với phụ nữ và trẻ em gái khuyết tật tại Hà Nội và Đà Nẵng," 2018.

28.UBQG, "Báo cáo “Các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam năm 2017”," 2017.

29.UBQG, "Báo cáo Kết quả công tác về người khuyết tật 2019," 2019.

30.UN Committee on the Rights of Persons with Disabilities, General Comments.

31.UNDP Vietnam, “Disability Rights in Vietnam: Law and Practice”, 2022.

32.UNICEF, "Báo cáo Sự sẵn sàng cho giáo dục trẻ khuyết tật nghiên cứu tại 8 tỉnh ở Việt Nam," 2015.

33.UNICEF, Trẻ em và thanh niên khuyết tật - Các số liệu thực tế, 2013.

34.United Nations, Committee on the Rights of Persons with Disabilities, General Comment No. 6 on Equality and Non-discrimination, U.N. Doc. CRPD/C/GC/6 (2018).

35.Ủy ban y tế Hà Lan - Việt Nam (MCNV), “Báo cáo Khảo sát nhu cầu đào tạo âm ngữ trị liệu tại Việt Nam,” Hà Nội, 2017.

36.Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, “Đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Chiến lược Dân số - Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020,” Hà Nội, 2019.

37.Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (iSEE), Xóa bỏ kỳ thị - Quan điểm và đánh giá của người khuyết tật, Hà Nội: Nxb Tri Thức, 2017.

38.Vietnam Ministry of Labour, Invalids and Social Affairs (MOLISA), Annual Report on Disability Inclusion, 2023.

39.X.Hoa, "Hơn 1.2 triệu người khuyết tật cần được hỗ trợ dạy nghề" (2017).

* ThS. Trịnh Thị Tuyết Mai, NCS Viện Quyền con người, Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Duyệt đăng 19/7/2025

** TS Cầm Thị Lai, Học viện CTQG Hồ Chí Minh

[1] Bộ y tế; Nhóm đối tác y tế (Health Partnership Group - HPG), "Báo cáo chung Tổng quan ngành y tế năm 2014: Tăng cường dự phòng và kiểm soát bệnh không lây nhiễm," NXB Y học, Hà Nội, tr.23 (2014).

[2] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.59.

[3] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.22.

[4] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.22.

[5] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.67.

[6] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.19.

[7] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.67.

[8] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.88,89.

[9] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.95.

[10] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.67.

[11] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.59.

[12] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.59.

[13] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.117.

[14] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.80.

[15] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.127.

[16] N. H. Phương, "Báo cáo Tổng quan nghiên cứu tài liệu về chính sách dành cho người khuyết tật tại Việt Nam," 2016.

[17] N. H. Phương, tài liệu đã dẫn.

[18] N. H. Phương, tài liệu đã dẫn.

[19]Liên hiệp Hội về Người khuyết tật Việt Nam, "Báo cáo nghiên cứu tình hình thực hiện UNCRPD đối với nhóm khuyết tật trí tuệ, thần kinh, tâm thần," 2016.

[20] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.59

[21] Liên hiệp Hội về Người khuyết tật Việt Nam, tài liệu đã dẫn, tr.17.

[22] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.60

[23] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.19

[24] Bộ y tế; tài liệu đã dẫn, tr.95

[25] Chính phủ, "Báo cáo quốc gia lần thứ nhất về thực thi Công ước Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật," 2017, tr.85.

[26] Chính phủ, tài liệu đã dẫn, tr.88-89.

[27] Xem Tổng cục Thống kê, "Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2019," 2019. Cũng em T. Trúc, "Tìm cách hỗ trợ doanh nghiệp của người khuyết tật," 2018.

[28] TDSI, "Đề án giao thông hỗ trợ người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020” (2016).

Cùng chuyên mục

Một số quy định mới về đất đai

Một số quy định mới về đất đai

Tầm nhìn - Chính sách -  4 giờ trước

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 226/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai.

Bảo đảm quyền bình đẳng của người khuyết tật trong bầu cử và ứng cử

Bảo đảm quyền bình đẳng của người khuyết tật trong bầu cử và ứng cử

Tầm nhìn - Chính sách -  5 giờ trước

(PLPT) - Bài viết làm rõ những điểm chưa tương thích và khoảng trống chính sách ảnh hưởng đến khả năng tham gia bầu cử, ứng cử của người khuyết tật. Từ đó, bài viết kiến nghị hướng hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm sự tham gia chính trị toàn diện và không phân biệt đối xử đối với nhóm đối tượng này.

Đề xuất chính sách mới về việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý viên chức

Đề xuất chính sách mới về việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý viên chức

Tầm nhìn - Chính sách -  11 giờ trước

Bộ Nội vụ đang lấy ý kiến về dự thảo Luật Viên chức (sửa đổi), dự kiến sẽ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 10, diễn ra vào tháng 10 tới.

80 năm - vinh quang Công an nhân dân Việt Nam

80 năm - vinh quang Công an nhân dân Việt Nam

Tầm nhìn - Chính sách -  11 giờ trước

80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành đã khẳng định bản chất cách mạng, sức chiến đấu kiên cường của lực lượng công an nhân dân - lực lượng vũ trang trọng yếu, tin cậy của Đảng, Nhà...

Đề xuất Quốc hội họp 4 kỳ mỗi năm

Đề xuất Quốc hội họp 4 kỳ mỗi năm

Tầm nhìn - Chính sách -  20 giờ trước

Nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên cho rằng hoạt động của Quốc hội cần thời gian làm việc đủ lớn tại hội trường. Vì vậy, Quốc hội có thể họp 4 kỳ/năm thay vì 2 kỳ để đáp ứng yêu cầu thực tế.

Tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước tại Việt Nam hiện nay và một số giải pháp phòng, chống thời gian tới

Tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước tại Việt Nam hiện nay và một số giải pháp phòng, chống thời gian tới

Tầm nhìn - Chính sách -  2 ngày trước

Tham nhũng là một trong những vấn nạn cố hữu của nhiều quốc gia, tác động tiêu cực đến nhiều mặt của xã hội. Ở nước ta, tham nhũng diễn ra trong khu vực ngoài nhà nước đã và đang được phát hiện và xử lý nghiêm minh. Cần nghiên cứu, thực hiện nhiều giải pháp để hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, góp phần xây dựng đất nước phát triển toàn diện, bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

'Phát triển công nghiệp bán dẫn phải nghĩ sâu, làm lớn, nhìn xa, trông rộng'

'Phát triển công nghiệp bán dẫn phải nghĩ sâu, làm lớn, nhìn xa, trông rộng'

Tầm nhìn - Chính sách -  2 tuần trước

Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết việc phát triển ngành công nghiệp bán dẫn vừa là công việc trước mắt, vừa lâu dài, chiến lược, do đó phải nghĩ sâu, làm lớn, nhìn xa, trông rộng.

Hoàn thiện chính sách xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới của đất nước

Hoàn thiện chính sách xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới của đất nước

Tầm nhìn - Chính sách -  2 tuần trước

Chính sách xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một bộ phận cấu thành trong hệ thống chính sách của Nhà nước hướng tới nhà đầu tư nước ngoài nhằm thực hiện mục tiêu thu hút, phát huy vai trò, quản lý FDI theo định hướng phát triển của quốc gia. Ở Việt Nam, chính sách xúc tiến FDI đóng góp quan trọng vào thành tựu công cuộc đổi mới, được xây dựng và hoàn thiện gắn liền với từng giai đoạn phát triển của đất nước.