Bạn đọc Nguyễn Trung Hiếu hỏi Bộ Công an về trường hợp
các tổ chức, cá nhân kêu gọi, tiếp nhận tiền ủng hộ của người khác để ủng hộ đồng bào bị ảnh hưởng bởi bão và lũ lụt sau
bão nhưng không chuyển hoặc chuyển không đủ số tiền đó vào tài khoản của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam; không chứng minh được việc sử dụng đúng mục đích số tiền đã
tiếp nhận thì sẽ bị xử lý ra sao.
Bộ Công an trả cho biết, việc cá nhân, tổ chức
đứng ra kêu gọi ủng hộ, hỗ trợ đồng bào vượt qua khó khăn dịch bệnh, thiên
tai là nghĩa cử cao đẹp, nhân văn, đúng với truyền thống dân tộc Việt Nam.
Nhà nước rất khuyến khích, tôn vinh và tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân,
tổ chức đóng góp vận động, kịp thời mang lại hiệu quả thiết thực cho những người
đang cần hỗ trợ.
Việc vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn
đóng góp tự nguyện hỗ trợ khắc phục khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, sự cố;
hỗ trợ bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo đã được Chính phủ quy định tại Nghị định
số 93/2021/NĐ-CP ngày 27/10/2021 (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 11/12/2021).
Nghị định này lần đầu tiên mở ra hành lang pháp lý cho
phép cá nhân huy động tiền từ thiện, quy định rõ từng bước những người mà tham
gia hoạt động này cần phải làm gì và có các quy định ràng buộc để việc này được
minh bạch, tránh bị lợi dụng.
Điều 5 Nghị định số 93/2021/NĐ-CP ngày 27/10/2021 quy
định các hành vi bị nghiêm cấm gồm:
(1) Cản trở hoặc ép buộc tổ chức, cá nhân tham gia vận
động, đóng góp, tiếp nhận, phân phối và sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện;
(2) Báo cáo, cung cấp thông tin không đúng sự thật;
chiếm đoạt; phân phối, sử dụng sai mục đích, không đúng thời gian phân phối, đối
tượng được hỗ trợ từ nguồn đóng góp tự nguyện;
(3) Lợi dụng công tác vận động, tiếp nhận, phân phối
và sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện để trục lợi hoặc thực hiện các hoạt động
xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Đối với câu hỏi của bạn đọc nêu trên, tùy vào từng trường
hợp, tính chất và mức độ của hành vi mà cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi
phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xử lý vi phạm hành chính.
Về xử lý hình sự hành vi chiếm đoạt tiền từ thiện
- Trường hợp thứ nhất, nếu cá nhân, tổ chức ngay từ đầu
đã dùng thủ đoạn gian dối, chủ động lên kế hoạch kêu gọi từ thiện, ủng hộ, cứu
trợ nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm
2015 với khung hình phạt cao nhất là tù chung thân. Cụ thể:
"1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt
tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc
dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải
tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm
đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội
quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã
hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị
hại và gia đình họ.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,
thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến
dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh
nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,
thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến
dưới 500.000.000 đồng;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,
thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở
lên;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ
tài sản".
- Trường hợp thứ hai, nếu ban đầu cá nhân, tổ chức kêu
gọi quyên góp tiền từ thiện, ủng hộ, cứu trợ không có mục đích chiếm đoạt tài sản,
nhưng khi có được tiền từ việc quyên góp, ủng hộ thì dùng thủ đoạn gian dối
(như làm giả sao kê, không chuyển đủ số tiền đã nhận được) nhằm mục đích chiếm
đoạt tài sản thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, với khung
hình phạt cao nhất là 20 năm tù. Cụ thể:
"1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau
đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới
50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính
về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong
các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ
luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm
sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được
tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc
bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều
kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được
tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục
đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,
thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến
dưới 200.000.000 đồng;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh
nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã
hội;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000
đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng
trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ
tài sản."
Xử phạt hành chính hành vi chiếm đoạt tiền từ thiện
- Nếu cá nhân, tổ chức lợi dụng hoạt động kêu gọi từ
thiện, ủng hộ, cứu trợ để chiếm đoạt tài sản nhưng chưa đủ yếu tố cấu thành tội
phạm, chưa đến mức xử lý hình sự về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" quy định tại
Điều 174 Bộ luật Hình sự hoặc tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" quy định
tại Điều 175 Bộ luật Hình sự nêu trên thì căn cứ quy định tại điểm c khoản 1,
khoản 3 Điều 15 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống
bạo lực gia đình, hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản, gây
thiệt hại đến tài sản của tổ chức, cá nhân khác, người vi phạm có thể bị phạt
tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Đồng thời, người vi phạm còn có thể
bị tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và trục xuất nếu là người
nước ngoài. Đối với tổ chức có cùng hành vi vi phạm, mức phạt tiền gấp 2 lần mức
phạt tiền đối với cá nhân.
- Đối với hành vi sử dụng không đúng mục đích số tiền ủng
hộ đã tiếp nhận theo cam kết ban đầu, căn cứ quy định tại Điều 10 Nghị định số
130/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em, cá nhân, tổ chức vi
phạm sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể:
1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối
với một trong các hành vi sau đây:
a) Để hư hỏng, thất thoát tiền, hàng cứu trợ, trừ trường
hợp bất khả kháng do thiên tai, hỏa hoạn;
b) Sử dụng, phân phối tiền, hàng cứu trợ không đúng mục
đích, không đúng đối tượng;
c) Tráo đổi hàng cứu trợ.
2. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc bồi hoàn lại số tiền, hàng cứu trợ bị hư hỏng,
thất thoát do thực hiện hành vi vi phạm tại điểm a khoản 1 Điều này;
b) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện
hành vi vi phạm tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này;
c) Buộc chịu mọi chi phí khám bệnh, chữa bệnh (nếu có)
cho người sử dụng hàng cứu trợ bị ảnh hưởng sức khỏe do hành vi vi phạm tại điểm
a và điểm c khoản 1 Điều này.