Trình bày Báo cáo một số vấn đề lớn về việc giải
trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản, Chủ nhiệm Ủy ban
Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy cho biết, ngay sau
Kỳ họp thứ 7 thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH),
Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KH,CN&MT) đã chủ trì,
phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường (cơ quan chủ trì soạn thảo), Thường trực
Ủy ban Pháp luật và các cơ quan hữu quan, các chuyên gia nghiên cứu, tiếp thu,
chỉnh lý dự thảo Luật; tham khảo và học tập kinh nghiệm quốc tế; tổ chức làm việc
với Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Đoàn ĐBQH và Ủy ban
nhân dân tỉnh Bình Phước, Đắk Nông để góp ý cho dự thảo Luật.
Thường trực Ủy ban KH,CN&MT đã thống nhất với Cơ
quan chủ trì soạn thảo (Bộ Tài nguyên và Môi trường) báo cáo UBTVQH một số vấn
đề lớn trong việc giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Luật. Theo đó, quá
trình xây dựng dự án Luật, Cơ quan chủ trì soạn thảo cùng Cơ quan chủ trì thẩm
tra đã tiến hành rà soát 46 Luật có liên quan, trong đó có các Luật: Đầu tư,
Doanh nghiệp, Thương mại, Quy hoạch, Xây dựng… Kết quả rà soát cho thấy không
có sự chồng chéo về phạm vi quản lý và không ảnh hưởng đến việc quy hoạch, hoạch
định chính sách phát triển ngành công nghiệp chế biến khoáng sản.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy. (Ảnh: quochoi.vn)
Dự thảo Luật điều chỉnh các loại khoáng sản, trừ dầu
khí, các loại nước thiên nhiên khác không phải là nước khoáng, nước nóng thiên
nhiên đã bao hàm đầy đủ các đối tượng, bảo đảm không tạo khoảng trống pháp lý.
Việc quản lý nước khoáng, nước nóng thiên nhiên ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa có những khó khăn, thách thức nhất định. Tuy nhiên, cần thiết phải đưa
vào đối tượng điều chỉnh để bảo đảm chủ quyền quốc gia đối với việc thăm dò,
khai thác, bảo vệ tài nguyên khoáng sản ở khu vực này. Đề nghị Chính phủ căn cứ
vào tình hình thực tiễn để ban hành quy định hướng dẫn thực hiện các giải pháp
quản lý phù hợp, khả thi.
Về phân nhóm khoáng sản (Điều 7), tiếp thu ý kiến
ĐBQH, tại khoản 2 Điều 7 đã quy định giao Chính phủ quy định danh mục khoáng sản
theo nhóm; quy định việc phân nhóm đối với khoáng sản có nhiều mục đích sử dụng.
Theo dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết một số điều được dự thảo
Luật giao, có kèm theo danh mục khoáng sản theo từng nhóm và sẽ rà soát, bổ
sung đất hiếm thuộc khoáng sản nhóm I và các khoáng sản nhóm III sẽ được nêu cụ
thể trong danh mục này. Do vậy, sẽ bảo đảm không có sự lẫn lộn giữa các nhóm
khoáng sản, không có khoảng trống pháp lý.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của
Quốc hội Lê Quang Huy cũng báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội một số nội dung
xây dựng 02 phương án để tiếp tục xin ý kiến. Trong đó, đối với trách nhiệm lập
quy hoạch khoáng sản (Điều 15), Thường trực Ủy ban KH,CN&MT phối hợp Cơ
quan chủ trì soạn thảo dự thảo nội dung Điều 15 theo 02 phương án:
Phương án 1:
Giao Bộ Tài nguyên và Môi trường lập Quy hoạch khoáng sản (phương án Chính phủ
trình Quốc hội).
Phương án 2:
Giao Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng lập quy hoạch khoáng sản (giữ như quy định của
Luật Khoáng sản và Luật Quy hoạch hiện hành).
Đa số ý kiến Thường trực Ủy ban KH,CN&MT đồng ý
theo Phương án 2. Trên cơ sở ý kiến của UBTVQH, Thường trực Ủy ban KH,CN&MT
sẽ phối hợp Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục hoàn thiện các điều 13, 14, 15
và khoản 3 Điều 115 của dự thảo Luật.
Về điều chỉnh quy hoạch khoáng sản (Điều 16), trong
quá trình nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý, có một số ý kiến đề nghị việc điều chỉnh
thực hiện theo pháp luật về quy hoạch, nhưng cũng có ý kiến khác đề nghị quy định
cụ thể trong dự thảo Luật này. Vì vậy, Thường trực Ủy ban KH,CN&MT phối hợp
Cơ quan chủ trì soạn thảo dự thảo nội dung Điều 16 theo 02 phương án:
Phương án 1:
Việc điều chỉnh thực hiện theo pháp luật về quy hoạch.
Phương án 2:
Dự thảo Luật đã quy định các trường hợp không phải điều chỉnh quy hoạch và các
trường hợp phải điều chỉnh quy hoạch theo hình thức rút gọn và theo quy định của
pháp luật về khoáng sản. (nội dung này được thể hiện tại Điều 16 và Điều 115).
Đa số ý kiến Thường trực Ủy ban KH,CN&MT đồng ý
theo Phương án 2. Trên cơ sở ý kiến của UBTVQH, Thường trực Ủy ban KH,CN&MT
sẽ phối hợp Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục hoàn thiện các điều 16, 46, 58,
76 và khoản 5 Điều 115 của dự thảo Luật.
Giải trình, tiếp thu quy định về Hội đồng đánh giá trữ
lượng khoáng sản (Điều 53), Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường
của Quốc hội Lê Quang Huy cho biết, tiếp thu ý kiến ĐBQH, Thường trực Ủy ban
KH,CN&MT đã chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng tiếp tục quy định về Hội đồng
đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia như Luật Khoáng sản năm 2010.
Về kỹ thuật an toàn, vệ sinh lao động trong khai thác
khoáng sản (Điều 63), tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã chỉnh lý khoản 2
theo hướng đã quy định các yêu cầu về kỹ thuật an toàn đối với tổ chức, cá nhân
khai thác khoáng sản. Đồng thời, tại khoản 7, khoản 8 đã giao Bộ Công Thương,
Chính phủ quy định chi tiết. Các nội dung cụ thể sẽ được quy định tại văn bản
hướng dẫn chi tiết.
Để giải quyết những hạn chế, vướng mắc, bất cập hiện
nay liên quan đến tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, dự thảo Luật đã quy định
theo hướng thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo năm và được quyết toán
theo sản lượng khai thác thực tế. Với quy định này, tiền cấp quyền khai thác
khoáng sản sẽ không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố liên quan tới trữ lượng địa chất,
trữ lượng không được khai thác, hoặc trong quá trình khai thác không thể khai
thác hết, hoặc trường hợp vì lý do khách quan chưa thể đưa mỏ vào khai thác.
Theo đó, đã tháo gỡ bất cập của Luật Khoáng sản năm 2010, bảo đảm tính khả thi
của chính sách về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.
Thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tham dự Phiên họp. (Ảnh: quochoi.vn)
Quy định về khu vực đấu giá
Đối với quy định về khu vực đấu giá, không đấu giá quyền
khai thác khoáng sản (Điều 104), tiếp thu ý kiến của ĐBQH về thu hẹp phạm vi, đối
tượng khu vực không đấu giá, theo đó, dự thảo Luật đã chỉnh lý tại khoản 2 Điều
104. Theo đó, các khu vực được xác định là khu vực không đấu giá quyền khai
thác khoáng sản bao gồm: các loại khoáng sản bảo đảm an ninh năng lượng, an
ninh quốc phòng; khoáng sản được xác định phục vụ cho các nhà thầu thi công các
dự án đầu tư theo quy định tại khoản 2 Điều 75 (để bảo đảm nguồn vật liệu thi
công cho các dự án); các khu vực khoáng sản do các tổ chức, cá nhân tham gia điều
tra địa chất về khoáng sản (để bảo đảm quyền lợi cho các tổ chức, cá nhân đã
cung cấp kinh phí cho các đề án điều tra) và các trường hợp thu hồi khoáng sản
theo các dự án đầu tư xây dựng (là các trường hợp không phải vì mục đích khai
thác khoáng sản).
Đồng thời, tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã bỏ
quy định tiêu chí khu vực không đấu giá tại điểm b khoản 2 Điều 104 là “khoáng
sản được quy hoạch là nguồn nguyên liệu cho các dự án chế biến sản phẩm công
nghiệp theo quy hoạch khoáng sản”.
Quy hoạch khoáng sản bô xít
Liên quan đến quy hoạch khoáng sản bô xít, qua phối hợp
với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thường trực Ủy ban KH,CN&MT nhận thấy: sau
khi rà soát, chỉnh lý, dự thảo Luật đã có một số quy định (có nội dung liên
quan đến Luật Đất đai) để giải quyết các vướng mắc (2), (3) và (5). Đối với vướng
mắc (1), liên quan đến phương án được lựa chọn quy định tại Điều 16 dự thảo Luật
(mục 3.2). Đối với vướng mắc (4), hiện dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản
không xử lý được vấn đề này vì chưa có quy định khả thi, phù hợp thực tiễn; do
vậy cần tiếp tục nghiên cứu kỹ nội dung này (xem Phụ lục).
Về các nội dung trong Luật Khoáng sản năm 2010 được rà
soát theo nhiệm vụ của Đảng đoàn Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ
và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy cho biết, theo kết quả rà soát về mâu
thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật theo nhiệm vụ của Đảng đoàn Quốc hội,
có 04 nội dung trong Luật Khoáng sản năm 2010. Dự thảo Luật đã được chỉnh lý
các quy định đã tháo gỡ các vướng mắc liên quan đến 04 nội dung theo yêu cầu.
Ngoài các vấn đề nêu trên, Thường trực Ủy ban
KH,CN&MT đã phối hợp với cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan hữu quan
nghiên cứu, tiếp thu nhiều ý kiến góp ý của ĐBQH; thể hiện lại văn phong, sắp xếp
bố cục dự thảo Luật cho khoa học và hợp lý hơn.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết việc phát triển ngành công nghiệp bán dẫn vừa là công việc trước mắt, vừa lâu dài, chiến lược, do đó phải nghĩ sâu, làm lớn, nhìn xa, trông rộng.
Chính sách xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một bộ phận cấu thành trong hệ thống chính sách của Nhà nước hướng tới nhà đầu tư nước ngoài nhằm thực hiện mục tiêu thu hút, phát huy vai trò, quản lý FDI theo định hướng phát triển của quốc gia. Ở Việt Nam, chính sách xúc tiến FDI đóng góp quan trọng vào thành tựu công cuộc đổi mới, được xây dựng và hoàn thiện gắn liền với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Sáng 30/7, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã chủ trì làm việc với Tiểu ban Văn kiện, Thường trực Tiểu ban Kinh tế - xã hội, Thường trực Tiểu ban Điều lệ Đảng Đại hội XIV của Đảng và Thường trực Ban Chỉ đạo tổng kết 40 năm đổi mới về dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng.
Nếu được tái định vị một cách đúng đắn và hiện đại – như một năng lực chiến lược để bảo vệ chủ quyền kinh tế, dẫn dắt mô hình tăng trưởng mới và kiến tạo thị trường cạnh tranh lành mạnh – thì vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước sẽ trở thành lực đẩy trọng yếu giúp đất nước tự tin bước vững vàng vào kỷ nguyên công nghiệp hóa 4.0, chuyển đổi số và phát triển xanh.
Điểm mới của Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp là tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Khi trao nhiều quyền hơn cho doanh nghiệp sẽ góp phần tháo gỡ, khơi thông nguồn lực, giúp phát huy và sử dụng hiệu quả vốn
Để hoàn thành khối lượng công việc rất lớn của Hội nghị trong thời gian ngắn, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh yêu cầu đặt ra là từng Ủy viên Trung ương cần phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, thảo luận dân chủ, thẳng thắn, khách quan và cầu thị. Phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết. Không để bất kỳ lợi ích cục bộ, cảm tính cá nhân hay nể nang, né tránh làm ảnh hưởng tới chất lượng quyết sách.
Dự thảo Luật Thi hành án dân sự (dự thảo Luật) được xây dựng theo hướng hoàn thiện cơ chế rút ngắn thời gian, giảm chi phí và thủ tục thi hành án; đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin...
Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân đối với dự thảo Thông tư hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở GDĐT thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và lĩnh vực giáo dục và đào tạo của phòng chuyên môn thuộc UBND xã, phường, đặc khu thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.