Tóm tắt: Liêm chính trong công vụ là sự trung thực, ngay thẳng, trong sáng và trách nhiệm trong hoạt động công vụ, thực hiện bổn phận, nghĩa vụ, nhiệm vụ được giao, là yêu cầu của nền công vụ của mọi quốc gia, mọi thời đại. Mặc dù vậy, trong thực tiễn ở Việt Nam đang đối mặt với tình trạng bất liêm của một số cán bộ, công chức, đó là tình trạng thoái hóa, biến chất, nói không đi đôi với làm, tiêu cực, gian lận, tham nhũng, sự tha hóa, biến chất. Bài viết phân tích làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và những biện pháp nâng cao đạo đức liêm chính trong công vụ ở Việt Nam.
Từ khoá: liêm chính, công vụ, lý luận, thực tiễn, Việt Nam.
Abstract: Integrity in public service is honesty, integrity, transparency and responsibility in public service activities, performing duties, obligations and assigned tasks, and is a requirement of the public service of every country. family, all time. However, in reality, Vietnam is facing a state of dishonesty among some officials and civil servants, which is a state of degeneration, degeneration, talk that does not match action, negativity, fraud, and corruption. corruption, alienation, metamorphosis. The article analyzes and clarifies theoretical and practical issues and measures to improve ethical integrity in public service in Vietnam.
Keywords: integrity, public service, theory, practice, Vietnam.
Đặt vấn đề
Trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, cải cách hành chính, Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, khẳng định mục tiêu đến năm 2030, xây dựng “đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính”. Điều này đặt ra nhiều vấn đề cần được nghiên cứu cả phương diện lý luận và thực tiễn, bài viết tập trung luận bàn về “liêm chính trong hoạt động công vụ” ở phương diện lý luận, tình trạng bất liêm trong hoạt động công vụ và đưa ra một số giải pháp nâng cao đức liêm chính trong hoạt động công vụ ở Việt Nam hiện nay.
1. Quan niệm và đặc điểm của liêm chính trong hoạt động công vụ
1.1. Quan niệm về liêm chính trong hoạt động công vụ
Tính trung thực, ngay thẳng, trong sáng và trách nhiệm trong hoạt động công vụ là những phẩm chất đạo đức đã được quan tâm, luận bàn trong toàn bộ lịch sử nhà nước ở các quốc gia trên thế giới, có lẽ từ khi nhà nước ra đời, cũng đã xuất hiện những hành vi bất liêm, thiếu trung thực, ngay thẳng và nhà nước đặt ra yêu cầu về liêm chính của đội ngũ quan, lại. Với những tư liệu lịch sử hiện có, khó có thể trả lời câu hỏi thuật ngữ liêm chính trong hoạt động công vụ ở Việt Nam có từ khi nào. Tuy vậy, có thể tìm thấy những quy định phòng, chống những hành vi bất liêm trong những văn tịch, pháp luật cổ Việt Nam. Cách ngày nay hơn một ngàn năm, nhà nước phong kiến triều Lý (1009-1225) có những quy định khắt khe và cụ thể ngăn ngừa và trừng phạt những hành vi bất liêm như: tham ô, ăn trộm của công của quan lại.[1] Đến triều Lê sơ, Lê Thánh Tông đã xây dựng và thực thi bộ luật Hồng Đức với 722 điều, trong đó có trên 40 điều liên quan đến trừng phạt hành vi bất liêm của quan lại. Ví dụ: Điều 1, chương “Vi chế”, quy định các chức quan lại có số lượng nhất định, nếu tự ý bổ dụng hay tuyển chọn quá hạn định thì cứ thừa 1 người, phạt người đứng đầu cho 60 trượng, “biếm” 2 tư (hạ chức 2 bậc), hoặc bãi chức, thừa 2 người thì xử tội “đồ” (hình phạt lao dịch khổ sai ở nhiều mức độ).
Trong ngôn ngữ Châu Âu thuật ngữ “integrity” (tiếng Anh), tiếng Pháp “intégrité”, tiếng Nga “Честность”, được dịch sang tiếng Việt là “liêm chính”, có nghĩa là “ tập hợp các phẩm chất đạo đức như sự trung thực, ngay thẳng, trong sạch .[2] Trong tiếng Việt liêm chính là “trong sạch ngay thẳng”[3]“liêm chính” là từ gép, tạo bởi hai thành tố“ liêm”và “ chính”, theo quan niệm của Đào Duy Anh “ liêm – trong sạch – ngay thẳng – không tham lam”.[4]
Các nhà nghiên cứu phương Tây như Mark C. Murphy cũng nhấn mạnh rằng integrity không chỉ đơn thuần là sự trung thực cá nhân, mà còn là sự cam kết duy trì các giá trị đạo đức phổ quát và hành động nhất quán dựa trên các giá trị đó.[5] Điều này tương đồng với tư tưởng của Aristotle trong Nicomachean Ethics[6], nơi ông đề cao tính cách đức hạnh (virtue) như một phẩm chất cốt lõi để đạt được một cuộc sống tốt đẹp và công bằng. Ngoài ra, theo Huberts, liêm chính trong quản trị công được hiểu là việc tuân thủ các tiêu chuẩn đạo đức và pháp luật, nhằm thúc đẩy sự công bằng, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Huberts cho rằng liêm chính không chỉ là một khía cạnh cá nhân mà còn là yếu tố tổ chức, khi các cơ quan công quyền phải thiết lập và duy trì các chuẩn mực đạo đức cho đội ngũ công chức.[7]
Khi bàn về đạo đức cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm liêm “là trong sạch, không tham lam” còn “tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là bất liêm.[8] Bên cạnh đó Người còn giải thích về đức chính, theo Người chính nghĩa là không tà nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà, “cần, kiệm, liêm là gốc của chính. Một người phải cần, kiêm, liêm nhưng còn phải chính mới là người hoàn toàn”.[9]
Như vậy, “liêm chính” theo cách hiểu của phương Đông và phương Tây đều khá tương đồng, có nghĩa là: trung thực, thật thà, ngay thẳng, trong sáng, không tham lam, là đạo đức, giá trị, phẩm giá của con người.
Công vụ là hoạt động nhà nước mang tính tổ chức và quyền lực pháp lý, được thực thi bởi đội ngũ cán bộ, công chức hoặc những người khác khi được nhà nước trao quyền nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước vì lợi ích xã hội, cá nhân, tổ chức và nhà nước.[10] Hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật (Điều 2 Luật cán bộ, công chức năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2019); “công vụ là hoạt động phục vụ có tính chuyên nghiêp của công dân nhằm đảm bảo cho việc thực thi thẩm quyền của liên bang, các cơ quan của liên bang, các chủ thể liên bang và các cơ quan của chủ thể liên bang”.[11]
Từ những vấn đề trên có thể hiểu: liêm chính trong hoạt đông công vụ là sự trung thực, thẳng thắn, trong sạch, không tham lam, ham danh vị, dối trá, không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi, tiêu cực, tham nhũng của cán bộ, công chức và những người khác trong thực thi công vụ.
1.2. Đặc điểm của liêm chính trong hoạt động công vụ
Liêm chính trong hoạt động công vụ không chỉ là một phạm trù đạo đức mà còn là yêu cầu pháp lý, phản ánh sự tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và quy định pháp luật trong thực thi công vụ. Trên cơ sở pháp luật về cán bộ, công chức, về hoạt động công vụ, có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của liêm chính trong hoạt động công vụ bao gồm:
Chủ thể của liêm chính trong hoạt động công vụ là cán bộ, công chức, hoặc những người khác được giao quyền thực thi công vụ, vốn mang tính quyền lực,
tổ chức.
Trung thực và minh bạch: Cán bộ, công chức cần cung cấp thông tin chính xác, minh bạch trong các hoạt động công vụ, không làm sai lệch thông tin để trục lợi hoặc gây bất lợi cho cá nhân, tổ chức khác.
Trách nhiệm và tận tụy: Thực hiện đầy đủ, hiệu quả các nhiệm vụ được giao, chịu trách nhiệm về hành vi công vụ của mình.
Không vụ lợi, tham nhũng: Không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi cá nhân, không tham gia các hành vi tham nhũng, hối lộ dưới mọi hình thức.
Tuân thủ pháp luật: Tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật về công vụ, các quy tắc đạo đức nghề nghiệp, đặc biệt là các quy định về minh bạch, trách nhiệm giải trình và phòng, chống tham nhũng.
Những đặc điểm này là nền tảng để đánh giá mức độ liêm chính của đội ngũ cán bộ, công chức cũng như xây dựng các chính sách, biện pháp nâng cao đức liêm chính trong hoạt động công vụ.
2. Các phương diện tiếp cận liêm chính trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức
Liêm chính là một hiện tượng gắn với đời sống xã hội, con người là một phạm trù đạo đức và là hiện tượng đa diện, phức tạp – phức tạp như chính đời sống con người, cần được khám phá từ nhiều phương diện khác nhau, mà mỗi diện, mỗi mặt chỉ có thể phản ánh khía cạnh này, khía cạnh khác những biểu hiện của liêm chính trên mọi lĩnh vực của đời sống con người, cộng đồng, nhà nước, xã hội. Liêm chính có thể được tiếp cận từ khía cạnh đạo đức, pháp luật, kinh tế, chính trị - tư tưởng, lịch sử.
i) Phương diện đạo đức
Liêm chính, xét từ khía cạnh đạo đức, là tập hợp các giá trị, chuẩn mực được hình thành, kiểm nghiệm và lưu truyền qua các thế hệ trong cộng đồng xã hội. Những chuẩn mực này mang tính phổ quát, bất kể vị trí nghề nghiệp hay tầng lớp xã hội, mỗi cá nhân đều cần tuân thủ để duy trì sự ổn định và phát triển bền vững của tổ chức và xã hội.
Liêm chính trong hoạt động công vụ là biểu hiện của đạo đức nghề nghiệp, thể hiện qua sự trung thực, minh bạch, thẳng thắn, không vụ lợi hay tham nhũng. Nhận thức đúng đắn về đạo đức công vụ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ, hành vi của cán bộ, công chức trong quá trình thực hiện công vụ, nhiệm vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng... đều là biểu hiện của bất liêm”. Sự suy thoái đạo đức công vụ chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm liêm chính trong thực tiễn.
Xã hội là tấm gương phản chiếu tính liêm chính của cán bộ, công chức thông qua sự giám sát, đánh giá khách quan. Dư luận xã hội có vai trò quan trọng trong việc khích lệ những cá nhân có phẩm chất đạo đức tốt cũng như lên án, loại trừ các hành vi bất liêm. Việc xây dựng, củng cố đạo đức công vụ cần được thực hiện song song với các biện pháp giáo dục, bồi dưỡng nhận thức, đồng thời hoàn thiện các cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả.
Liêm chính không chỉ là phẩm chất cá nhân mà còn là kết quả của một môi trường làm việc minh bạch, công bằng, nơi mỗi cán bộ, công chức đều được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển và thực hành các chuẩn mực đạo đức trong công việc hàng ngày.
ii) Từ phương diện hoạt động nhà nước
Liêm chính trong hoạt động công vụ là yêu cầu bắt buộc đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, liêm chính phải được đảm bảo trong toàn bộ các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trong lĩnh vực lập pháp: Quá trình xây dựng, ban hành luật pháp cần tôn trọng Hiến pháp, loại trừ lợi ích nhóm, tham nhũng chính sách, đảm bảo tính minh bạch và công bằng.
Trong lĩnh vực hành pháp: Các cơ quan hành chính nhà nước phải tuân thủ quy định pháp luật, thực hiện công vụ minh bạch, công tâm, không vụ lợi, đặc biệt trong công tác thanh tra, kiểm tra.
Trong lĩnh vực tư pháp: Cần đảm bảo các phán quyết của tòa án được đưa ra trên cơ sở độc lập, khách quan, theo đúng quy định pháp luật, bảo vệ công lý và quyền công dân (Điều 102, Hiến pháp 2013).
Việc thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc liêm chính trong hoạt động nhà nước sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý công và củng cố niềm tin của nhân dân vào bộ máy hành chính.
iii) Ở khía cạnh chính trị - tư tưởng
Liêm chính trong công vụ là yêu cầu bắt buộc, nhất là trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi năm 2019), công chức phải “Trung thành với Đảng, Nhà nước; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia” (khoản 1 Điều 8).
Việc phát huy dân chủ, tôn trọng quyền con người và nâng cao trách nhiệm giải trình là những yếu tố then chốt để đảm bảo liêm chính. Hiến pháp Việt Nam và các luật như Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đều nhấn mạnh vai trò của liêm chính trong hoạt động công vụ. Việc xử lý kỷ luật nghiêm minh và các quy định về trách nhiệm giải trình góp phần xây dựng đội ngũ công chức trong sạch, vững mạnh.
Thực hiện liêm chính trong công vụ không chỉ là yêu cầu pháp lý mà còn là nhiệm vụ chính trị - tư tưởng quan trọng nhằm củng cố niềm tin của nhân dân vào chính quyền, đảm bảo công bằng, minh bạch và hiệu quả trong quản lý nhà nước.
iv) Từ khía cạnh công bằng, dân chủ xã hội
Liêm chính trong công vụ gắn liền với dân chủ và công bằng xã hội. Dân chủ là cơ chế kiểm soát, công bằng là mục tiêu, còn liêm chính là yếu tố đảm bảo sự vận hành đúng đắn của hai nguyên tắc này.
Việc thực hiện liêm chính trong công vụ giúp đảm bảo các chính sách, quyết định hành chính được ban hành và thực thi một cách minh bạch, không bị chi phối bởi lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân. Ngược lại, nếu thiếu liêm chính, dân chủ sẽ trở nên hình thức, công bằng bị xâm phạm, tạo ra những hệ quả tiêu cực trong xã hội.
Thực tiễn cho thấy, tình trạng dân chủ hình thức trong một số cơ quan đã dẫn đến các quyết định sai lệch, gây mất công bằng, thiệt thòi cho những người thực sự liêm chính. Do đó, cần tăng cường các cơ chế giám sát, phản biện xã hội và giáo dục nhận thức về mối quan hệ giữa liêm chính, dân chủ và công bằng để xây dựng một nền công vụ minh bạch, hiệu quả.
v) Từ khía cạnh kinh tế - xã hội
Những hành vi bất liêm của cán bộ, công chức trực tiếp quản lý nhà nước đối với các ngành kinh tế quốc dân, hay trực tiếp quản lý các tổ chức kinh tế có thể gây những tổn hại cho toàn bộ nền kinh tế, quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức. Những hành vi bất liêm như nhận hối lộ, thông đồng với doanh nghiệp để đưa ra những chính sách, pháp luật có lợi cho các doanh nghiệp, còn nhà nước, xã hội, cá nhân, tổ chức khác lại chịu những thiệt hại, gây bất công trong xã hội. Đối với các doanh nghiệp, cả công và tư, trong kinh doanh phải trung thực, chịu trách nhiệm về các sản phẩm – hàng hóa, dịch vụ do mình cung cấp cho xã hội, không lừa dối khách hàng. Lợi ích kinh tế của các chủ thể quan hệ xã hội, sự phân phối sản phẩm xã hội có công bằng hay không, tình trạng giàu, nghèo, phân hóa xã hội như thế nào, giáo dục, y tế, an sinh xã hội và nhiều vấn đề khác cũng tùy thuộc vào sự liêm chính của cán bộ, công chức, tổ chức kinh tế sản xuất các giá trị vật chất và phân phối các sản phẩm xã hội.
vi) Từ khía cạnh lịch sử
Liêm chính là một phạm trù lịch sử, luôn thay đổi về nội dung của nó, tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau: chính trị, pháp luật, kinh tế - xã hội. Vì vậy, tình trạng liêm chính trong hoạt động công vụ ở một quốc gia cũng thay đổi qua các giai đoạn lịch sử nhất định, tùy thuộc vào sự trung thực, đứng đắn, phẩm chất chính trị, đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, của môi trường chính trị, kinh tế - xã hội. Tình trạng liêm chính trong hoạt động công vụ luôn mang tính thời đại, điển hình cho những giai đoạn lịch sử nhất định của quốc gia, dân tộc. Lịch sử dân tộc, lúc thịnh, lúc suy, cũng tùy thuộc vào tình trạng liêm chính của cán bộ, công chức.
3. Tình trạng vi phạm liêm chính/ bất liêm trong hoạt động công vụ ở Việt Nam hiện nay
3.1. Tình trạng vi phạm liêm chính nhìn từ phương diện đạo đức
Vi phạm liêm chính trong hoạt động công vụ trước hết là vi phạm quy tắc đạo đức công vụ đã được hình thành trong thực tiễn và được thừa nhận chung, hoặc được quy định trong các văn bản pháp luật. Vi phạm liêm chính là sự suy thoái về đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ, công chức. Những hành vi như khai gian bằng cấp, báo cáo sai sự thật, lạm dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi đều phản ánh sự suy giảm nghiêm trọng của các giá trị trung thực, minh bạch, trách nhiệm. Khi đạo đức công vụ bị xói mòn, niềm tin của người dân vào bộ máy nhà nước cũng theo đó giảm sút.
Thực tiễn khó có thể kể hết những hành vi vi phạm liêm chính/ bất liêm của cán bộ, công chức, vì bất kỳ hành vi vi phạm kỷ luật lao động, kỷ luật tài chính, kỷ luật kế hoạch, kỷ luật công vụ, vi phạm pháp luật trong hoạt động công vụ vì vụ lợi, hay thiếu trách nhiệm đều là những hành vi vi phạm liêm chính. Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh, bên cạnh luận bàn về đức liêm, đức chính, còn luận bàn về bất liêm, theo người, trái với “Liêm” là bất “Liêm”, “tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên,… Dìm người giỏi để giữ địa vị và danh tiếng của mình... Gặp việc phải mà sợ khó nhọc, nguy hiểm không dám làm” là bất liêm[12]. Ngày nay, từ thực tiễn và những quy định của pháp luật, có thể kể ra một số hành vi vi phạm liêm chính/ bất liêm như: Gian lận trong thi tuyển công chức, khai gian văn bằng, chứng chỉ, lý lịch, công trạng; báo cáo sai sự thật, gian lận, lãng phí sử dụng công quỹ, sử dụng tài sản công không đúng mục đích; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi, chạy chọt để được luân chuyển, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giữ chức vụ cao hơn, gây bè phái, phe cánh, chia rẽ mất đoàn kết trong cơ quan, tổ chức; không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; nói không đi đối với làm, hách dịch cửa quyền, sách nhiều người dân, tham nhũng là điển hình của bất liêm, (cả tham nhũng chính sách, kinh tế, tham nhũng trong khu vực công, khu vực tư ) và hàng loạt những hành vi bất liêm khác.
Tất cả những hành vi này trước hết đều vi phạm những chuẩn mực đạo đức công vụ, bị dư luận xã hội đánh giá, lên án.
3.2. Tình trạng vi phạm liêm chính nhìn từ phương diện chính trị - tư tưởng
Liêm chính trong hoạt động công vụ gắn liền với phẩm chất chính trị và ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức. Tuy nhiên, thời gian qua, một số cán bộ lãnh đạo có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, chạy theo lợi ích nhóm, gây mất đoàn kết nội bộ. Các vụ án như "chuyến bay giải cứu" hay vụ việc của Tân Hoàng Minh là minh chứng rõ ràng cho sự tha hóa quyền lực, tác động tiêu cực đến uy tín của tổ chức Đảng và nhà nước.
Sự bất liêm của cán bộ, công chức ảnh hưởng trực tiếp đến tính công bằng và dân chủ trong xã hội. Khi các quyết định hành chính bị thao túng bởi lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm người dân mất đi cơ hội tiếp cận công bằng với các nguồn lực công. Việc xử lý sai phạm thiếu minh bạch hoặc có dấu hiệu bao che, nể nang đã làm giảm hiệu quả của các cơ chế kiểm soát xã hội, ảnh hưởng đến đời sống chính trị - xã hội.
3.3. Tình trạng vi phạm liêm chính nhìn từ phương diện hoạt động nhà nước
Tình trạng bất liêm trong hoạt động công vụ cũng xuất phát từ những bất cập trong cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước. Việc gian lận trong thi tuyển công chức, tham nhũng trong hoạt động thanh tra, kiểm tra đều là minh chứng cho sự thiếu liêm chính trong hoạt động hành pháp.
Do tính đa dạng của hành vi vi phạm liêm chính, do đó có nhiều cách đánh giá tình trạng liêm chính trong hoạt động công vụ. Có thể đánh giá thông qua tình trạng vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ, vào thực tiễn thực hiện pháp luật một cách nghiêm minh, thường xuyên, liên tục, vô tư, khách quan, không vụ lợi của cán bộ, công chức.
Xét mối tương quan giữa tình trạng vi phạm liêm chính với tình trạng kỷ luật và tính trạng vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, có thể thấy rằng: Tình trạng liêm chính trong hoạt động công vụ tỷ lệ nghịch với tình trạng kỷ luật, tình trạng phạm tội của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ.Tình trạng đó được thể hiện: theo thống kê năm 2021 có 20.382 cán bộ, công chức, viên chức bị xử lý kỷ luật, chiếm tỷ lệ 1%, trong đó cán bộ, công chức là 12.651 người, chiếm tỷ lệ 0,62%, viên chức là 7.731 người, chiếm tỷ lệ 0,38 %[13] . Theo báo cáo tóm tắt tổng kết công tác năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2023 của Tòa án (ngày 22/12/2022) của Tòa án nhân dân tối cao trong năm 2022: các Tòa án đã xét xử nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng do những người có chức vụ, quyền hạn gây ra những thiệt hại đặc biệt lớn, đã tuyên thu hồi tiền, tài sản đối với 840 vụ, 1.995 bị cáo trong các vụ án kinh tế, tham nhũng với số tiền trên 4.027 tỷ đồng và nhiều tài sản khác và đã đưa ra xét xử 188 vụ với 297 bị cáo liên quan đến phòng chống dịch Covid-19[14]. Một ví dụ khá điển hình về tính trạng bất liêm của cán bộ, công chức thể hiện từ đầu nhiệm kỳ Khóa XIII của Đảng (đến thời điểm báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao), Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 67 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý trong đó có những cán bộ bị kỷ luật nặng như khai trừ Đảng, khởi tố hình sự, truy tố, xét xử... Điển hình như các ông: cựu Bí thư Bình Dương - Trần Văn Nam, cựu Chủ tịch TP Hà Nội - Chu Ngọc Anh, cựu Bộ trưởng Bộ Y tế - Nguyễn Thanh Long, cựu Bí thư Hải Dương - Phạm Xuân Thăng... Các cơ quan tiến hành tố tụng cả nước đã khởi tố, điều tra 2.474 vụ/4.646 bị can, truy tố 2.157 vụ/4.564 bị can, xét xử sơ thẩm 2.198 vụ/4.620 bị cáo về các tội tham nhũng, chức vụ, kinh tế (trong đó về tham nhũng đã khởi tố mới 414 vụ án/939 bị can). Đối với các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đã khởi tố mới 10 vụ án/37 bị can; đã kết thúc điều tra 16 vụ án/248 bị can, kết luận điều tra bổ sung 8 vụ án/148 bị can; ban hành cáo trạng truy tố 13 vụ án/122 bị can; xét xử sơ thẩm 10 vụ án/101 bị cáo; xét xử phúc thẩm 9 vụ án/66 bị cáo[15], gần đây có những vụ án lớn, nổi lên như vụ án “ chuyến bay giải cứu”, hay vụ án “ Tân Hoàng Minh” và còn nhiều vụ việc khác, cán bộ thực hiện hành vi đảng viên không được làm… Một số địa phương, cả Bí thư tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân và một số thành viên Ủy ban nhân dân tỉnh đều bị kỷ luật, có người bị khai trừ khỏi đảng và bị khởi tố về tội tham nhũng, hay thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiệm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, tình trạng liêm chính còn được đánh giá thông qua tình trạng bất liêm trong việc ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính, bị khiếu nại, tố cáo: Qua giải quyết khiếu nại, tố cáo đã kiến nghị thu hồi cho Nhà nước 25,2 tỷ đồng, 1,9 ha đất; trả lại cho tổ chức, cá nhân 319,0 tỷ đồng, 8 ha đất; khôi phục, đảm bảo quyền lợi cho 61 tổ chức, 702 cá nhân; kiến nghị xử lý 466 người (trong đó có 408 cán bộ, công chức); chuyển cơ quan điều tra xử lý 32 vụ, 35 đối tượng (có 13 cán bộ, công chức). Việc xử lý, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh do đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội chuyển đến được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo thực hiện. Thanh tra Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương tiến hành 1.268 cuộc thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về KNTC tại 1.873 cơ quan. Qua thanh tra kiến nghị xử lý hành chính đối với 155 tổ chức, 365 cá nhân, đã xử lý 114 tổ chức, 293 cá nhân.[16]
Vi phạm liêm chính trong công vụ gây ra những tổn hại lớn đối với sự phát triển kinh tế và sự ổn định xã hội. Theo báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao năm 2022, có 1.995 bị cáo trong các vụ án kinh tế, tham nhũng với số tiền thất thoát hơn 4.027 tỷ đồng. Các hành vi trục lợi trong các lĩnh vực như đấu thầu, đầu tư công không chỉ gây thất thoát tài sản quốc gia mà còn làm suy yếu môi trường kinh doanh.
3.4. Tình trạng vi phạm liêm chính nhìn từ phương diện lịch sử
Lịch sử phát triển nhà nước Việt Nam cho thấy liêm chính luôn là một tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng, phẩm chất đội ngũ công chức. Tuy nhiên, những biến động chính trị - xã hội, đặc biệt trong giai đoạn chuyển đổi sang kinh tế thị trường, đã dẫn đến sự xói mòn nhất định về chuẩn mực liêm chính trong công vụ. Việc nhận diện rõ những nguyên nhân lịch sử của tình trạng bất liêm sẽ là cơ sở để xây dựng các giải pháp phù hợp trong bối cảnh hiện nay.
Như vậy, tình trạng vi phạm liêm chính trong hoạt động công vụ ở Việt Nam hiện nay là một vấn đề phức tạp, diễn ra trên nhiều phương diện khác nhau. Việc phân tích, đánh giá dưới các khía cạnh đạo đức, hoạt động nhà nước, chính trị - tư tưởng, công bằng - dân chủ xã hội, kinh tế - xã hội và lịch sử sẽ giúp nhận diện rõ ràng hơn những nguyên nhân và đề xuất giải pháp phù hợp cho công cuộc cải cách hành chính và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Qua dẫn liệu nêu trên có thể khẳng định rằng: tình trạng bất liêm của cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, ở trung ương, địa phương, không chỉ cán bộ, công chức cấp thấp, mà cả cán bộ, công chức cấp cao, trong bộ máy nhà nước, cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, có nhiều diễn biến phức tạp, có những vụ án liên quan đến nhiều người, nhiều địa phương, nhiều người thực hiện hành vi phạm tội tham nhũng[17], phải chăng đây là sự tha hóa của quyền lực mang tính hệ thống, sự xuống cấp về đạo đức, sự yếu kém về ý thức pháp luật, ý thức chính trị, thiếu kỷ luật, kỷ cương, xử lý không kịp thời, nghiêm minh đối với những hành vi bất liêm trong hoạt động công vụ đang diễn ra ở nước ta hiện nay.
4. Nguyên nhân của tình trạng bất liêm và một số giải pháp góp phần tăng cường liêm chính trong hoạt động công vụ ở nước ta hiện nay
4.1. Nguyên nhân của tình trạng bất liêm trong hoạt động công vụ ở nước ta hiện nay
Liêm chính là phạm trù đạo đức, chính trị - pháp lý, gắn liền với đời sống xã hội con người, bị chi phối bởi môi trường chính trị, pháp luật, kinh tế, văn hóa - xã hội. Vì vậy, để đi tìm nguyên nhân của tình trạng bất liêm cần phải đi tìm từ trong lòng xã hội và từ bản thân con người, có nghĩa phải đi tìm nguyên nhân khách quan và chủ quan của tình trạng này. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất liêm, có thể kể ra một số nguyên nhân sau:
i) Do sự tác đồng tiêu cực của kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật thặng dư… ảnh hưởng tích cực, tiêu cực đến mọi quan hệ xã hội. Trong cơ chế đó con người luôn mong muốn làm giầu, đó đó không ít trường hợp người có chức vụ quyền hạn, vì vụ lợi đã bằng mọi cách, bất chấp cả “luân thường, đạo lý”, pháp luật để thực hiện hành vi bất liêm, miễn là mang lại lợi ích vật chất cho mình, gia đình, người thân.
ii) Pháp luật về chế độ công vụ, công chức, quản lý nhà nước đối với các ngành, linh vực nền kinh tế quốc dân chậm được hoàn thiện, đổi mới, còn mâu thuẫn, chồng chéo, không rõ ràng, đặc biệt là những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ, để những người có chức vụ, quyền hạn có thể lợi dụng ra những quyết định vì mục đích vụ lợi cho mình, gia đình, người thân của mình.
iii) Kiểm soát quyền lực nhà nước chưa được thực hiện thường xuyên ở mọi cấp, mọi ngành, đôi khi mang tính hình thức, đặc biệt là kiểm soát của các cơ quan nhà nước ở cùng cấp, các cơ quan trong cùng hệ thống, kiểm soát nội bộ trong cơ quan nhà nước, thậm chí kiểm soát quyền lực của các thiết chế cùng cập ở địa phương chưa mang lại kết quả như mong đợi. Phương diện xử lý không thường xuyên, chưa nghiêm đối với những hành vi bất liêm của cán bộ, công chức, vẫn có tình trạng xử lý “nội bộ” xử lý không công bằng, nói theo cách nói trước đây “quan xử theo lễ, dân xử theo luật”.
iv) Thiếu cơ chế bảo vệ người tố giác hành vi bất liêm. Tình trạng bất liêm thường không được phát hiện kịp thời vì thiếu cơ chế bảo vệ người tố giác, dẫn đến tâm lý sợ hãi và e dè khi báo cáo hành vi sai trái. Theo Transparency International, các quốc gia không thiết lập được hệ thống bảo vệ người tố giác sẽ khó đạt được sự minh bạch trong quản trị công.[18]
v) Sự suy giảm đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm công vụ. Một số cán bộ, công chức không còn xem trọng giá trị của đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm đối với xã hội, dẫn đến việc xem nhẹ các nguyên tắc liêm chính. Huberts đã nhấn mạnh rằng sự suy giảm đạo đức nghề nghiệp trong khu vực công thường là hệ quả của môi trường làm việc thiếu công bằng và sự lãnh đạo yếu kém.[19]
vi) Văn hóa dung túng và thiếu trách nhiệm giải trình. Tâm lý “dĩ hòa vi quý” trong nhiều cơ quan nhà nước làm giảm hiệu quả của việc kiểm tra, giám sát và xử lý sai phạm. Schein đã phân tích rằng văn hóa tổ chức yếu kém là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự phổ biến của các hành vi vi phạm đạo đức trong khu vực công.[20]
vii) Chênh lệch tiền lương và chi phí sinh hoạt. Mức lương của cán bộ, công chức nhiều khi không đủ để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tạo áp lực và khuyến khích họ tham gia các hành vi bất liêm để kiếm thêm thu nhập. Tài liệu của OECD cũng chỉ ra rằng chế độ lương thưởng không công bằng có thể làm tăng nguy cơ tham nhũng trong khu vực công.[21]
4.2. Giải pháp góp phần tăng cường liêm chính trong hoạt động công vụ ở nước ta hiện nay
i) Tăng cường giáo dục liêm chính cho mọi đối tượng xã hội từ học sinh, sinh viên, từ người dân đến cán bộ, công chức, đặc biệt là những người có chức vụ, quyền hạn trong toàn hệ thống chính trị, quản lý các doanh nghiệp
Giáo dục liêm chính không chỉ là công cụ giúp cán bộ, công chức nhận thức đúng đắn về trách nhiệm công vụ mà còn là phương thức định hình văn hóa tổ chức. Huberts nhấn mạnh rằng, để thúc đẩy liêm chính, cần tập trung vào giáo dục đạo đức nghề nghiệp và ý thức tuân thủ pháp luật, đặc biệt trong các chương trình đào tạo công chức.[22] Đồng thời, Transparency International chỉ ra rằng việc lồng ghép giáo dục phòng, chống tham nhũng vào chương trình học ở trường học và cơ quan công quyền là cách hiệu quả để xây dựng thế hệ công chức mới với ý thức liêm chính cao.[23] Khi mọi người đều nhận thức và rèn luyện đức liêm chính, coi đó là lẽ sống của xã hội, thì liêm chính trong công vụ mới được đảm bảo. Cần giáo dục về quyền con người, phòng chống tham nhũng và nâng cao ý thức pháp luật, đặc biệt với cán bộ, công chức. Điều này phải song hành với đào tạo kiến thức, kỹ năng pháp luật, tôn trọng và chấp hành Hiến pháp, pháp luật như một trách nhiệm, bổn phận. Nghị quyết số 27 của BCH TW khóa 13 nhấn mạnh việc "Xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp và pháp luật". Đồng thời, cần phát huy lòng tự hào dân tộc, thường xuyên quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ, đề cao phê bình và tự phê bình, cùng tinh thần dân chủ trong đấu tranh với hành vi bất liêm.
ii) Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Một hệ thống pháp luật minh bạch và chặt chẽ là yếu tố quan trọng để ngăn ngừa tình trạng lợi dụng kẽ hở nhằm thực hiện hành vi bất liêm. Doig cho rằng việc thiết lập các tiêu chuẩn pháp luật rõ ràng, đi đôi với cơ chế kiểm soát và đánh giá thường xuyên, sẽ giảm đáng kể cơ hội tham nhũng trong hoạt động công vụ.[24] Đồng thời, các học giả như Rose-Ackerman đã nhấn mạnh rằng việc tăng cường tính răn đe thông qua khung pháp lý hình sự nghiêm minh sẽ góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức.[25]
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu BCH TW Đảng khóa XIII nhấn mạnh việc xây dựng “hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán”.[26] Mục tiêu là ngăn chặn việc lợi dụng “kẽ hở” của pháp luật để trục lợi trong công vụ.
Cần bổ sung tiêu chí phòng, chống tham nhũng trong thẩm định văn bản pháp luật và tăng cường các quy định về kỷ luật công chức, với hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe hành vi bất liêm. Việc này phải đi cùng với hoàn thiện pháp luật quản lý nhà nước, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, đảm bảo công chức không thể lạm dụng chức vụ để trục lợi.
iii) Tăng cường kiểm soát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức
Việc thiết lập cơ chế kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước, đồng thời phát huy vai trò của xã hội dân sự, là phương thức quan trọng để đảm bảo liêm chính. Bovens nhấn mạnh rằng trách nhiệm giải trình (accountability) không chỉ là yếu tố ràng buộc quyền lực mà còn giúp tạo niềm tin giữa chính phủ và người dân.[27] Ngoài ra, Pyman chỉ ra rằng sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội và phương tiện truyền thông sẽ giúp kiểm tra, giám sát chặt chẽ hơn các hành vi công vụ.[28] Với quan điểm “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 2013, do đó, để tăng cường phẩm chất liêm chính, giảm những hành vi bất liêm, phòng, chống tham nhũng của của cán bộ, công chức phải thiết lập được cơ chế kiểm soát một cách hữu hiệu giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, tránh tình trạng hình thức. Bên cạnh đó cần phải thường xuyên kiểm tra trong nội bộ hệ thống các cơ quan nhà nước, đặc biệt là hệ thống hành chính nhà nước, kiểm tra trong nội bộ cơ quan đối với mọi hoạt động công vụ của cán bộ, công chức. Bên cạnh đó phải kết hợp, đề cao vai trò kiểm tra, giám sát của Đảng, của các tổ chức chính trị - xã hội, của các tổ chức xã hội, giám sát của công dân đối với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức, đặc biệt là phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong phòng, chống vi phạm pháp luật, bất liêm, tham nhũng.
iv) Xử lý kịp thời, nghiêm minh những hành vi bất liêm của cán bộ, công chức, bất luận người đó là ai, không có ngoại lệ
Theo Klitgaard, tính nghiêm minh trong xử lý vi phạm là yếu tố cốt lõi để xây dựng văn hóa tổ chức minh bạch. Ông nhấn mạnh rằng, không thể chỉ dựa vào giáo dục và thuyết phục để duy trì kỷ cương, mà cần có cơ chế xử phạt rõ ràng và công khai để tạo ra hiệu ứng răn đe.[29] Đồng thời, Banerjee và Duflo cho rằng việc công khai danh tính và xử lý các cán bộ vi phạm sẽ tạo ra sự minh bạch, qua đó nâng cao niềm tin của người dân vào bộ máy nhà nước.[30]
Thực tiễn đã minh chứng rằng, sẽ không có một trật tự nào chỉ có thể được thiết lập chỉ bằng giáo dục, thuyết phục, mà cần phải được thiết lập trên cơ sở trật tự, kỷ cương, bằng việc xử lý, trừng phạt kịp thời, nghiêm minh đối với mọi hành vi bất liêm, dù đó là nhỏ nhất để sao cho không còn tình trạng vị phạm mà “hạ cánh an toàn”. Bên cạnh đó cần phải công bố công khai, minh bạch đối với mọi hành vi bất liêm trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức, tránh tình trạng chung chung, trừu tượng “Những vi phạm, khuyết điểm của ông/ bà đã gây dư luận xấu, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước và cá nhân. Nhận thức rõ trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân, ông/bà đã có đơn xin thôi giữ các chức vụ được phân công và nghỉ công tác”. Bên cạnh đó cần phải tạo được dư luận xã hội để xã hội lên án những hành vi bất liêm của cán bộ, công chức, có như vậy tính lan tỏa của các biện pháp xử lý mới tới mọi đối tượng xã hội.
v) Giải pháp nâng cao liêm chính từ khía cạnh đạo đức công vụ
Nâng cao nhận thức đạo đức công vụ: Tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng về đạo đức nghề nghiệp, liêm chính cho công chức, viên chức. Tích hợp nội dung giáo dục đạo đức công vụ trong chương trình đào tạo tại các trường đào tạo cán bộ, công chức.
Xây dựng văn hóa tổ chức liêm chính: Khuyến khích lãnh đạo các cơ quan, đơn vị làm gương trong thực hành liêm chính, các phong trào thi đua gắn với việc thực hiện liêm chính trong công vụ.
Tăng cường trách nhiệm giải trình: Yêu cầu công khai, minh bạch các quyết định hành chính, quy trình xử lý công việc. Thiết lập cơ chế giám sát hiệu quả, khuyến khích người dân tham gia giám sát hoạt động công vụ.
Tạo cơ chế bảo vệ người tố giác: Hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ người tố giác các hành vi vi phạm liêm chính. Xây dựng hệ thống tiếp nhận, xử lý thông tin tố giác một cách minh bạch, công bằng.
5. Kết luận
Liêm chính trong hoạt động công vụ là nền tảng quan trọng để xây dựng một nền công vụ minh bạch, hiệu quả và công bằng. Tình trạng vi phạm liêm chính như tham nhũng, lãng phí hay lạm quyền không chỉ làm xói mòn niềm tin của nhân dân mà còn gây tổn thất lớn cho xã hội. Để khắc phục, cần đồng bộ các giải pháp từ nâng cao ý thức đạo đức công vụ, hoàn thiện pháp luật, kiểm soát quyền lực đến xử lý nghiêm minh các vi phạm, đồng thời xây dựng văn hóa thượng tôn pháp luật và trách nhiệm cá nhân. Việc duy trì và phát triển liêm chính đòi hỏi nỗ lực lâu dài từ cả hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội và toàn dân. Đây chính là yếu tố cốt lõi để cải thiện chất lượng bộ máy nhà nước và thúc đẩy sự phát triển bền vững, dân chủ và văn minh của xã hội. Những giải pháp đề xuất trong nghiên cứu này hy vọng sẽ đóng góp tích cực vào nỗ lực chung trong việc nâng cao tính liêm chính trong hoạt động công vụ tại Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu học thuật
1. ABHIJIT V. BANERJEE & ESTHER DUFLO, POOR ECONOMICS: A RADICAL RETHINKING OF THE WAY TO FIGHT GLOBAL POVERTY (PUBLICAFFAIRS 2011).
2. ALAN DOIG, CORRUPTION AND MISCONDUCT IN CONTEMPORARY GOVERNANCE (ROUTLEDGE 2011).
3. ĐÀO DUY ANH, TỪ ĐIỂN HÁN VIỆT GIẢN – YẾU, NXB VĂN HÓA THÔNG TIN (2005).
4. ARISTOTLE, NICOMACHEAN ETHICS, 15-22 (W.D. ROSS TRANS., OXFORD UNIV. PRESS 2009) (C. 350 B.C.E.).
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành TW Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, Tư liệu văn kiện Đảng, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-27-nqtw-ngay-09112022-hoi-nghi-lan-thu-sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-ve-tiep-tuc-xay-dung-va-9016 (ngày truy cập: 8/12/2024).
6. HỒ CHÍ MINH: TOÀN TẬP, NXB. CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT, HÀ NỘI, T.6 (2011).
7. EDGAR H. SCHEIN, ORGANIZATIONAL CULTURE AND LEADERSHIP (JOSSEY-BASS 2010).
8. LEO W.J.C. HUBERTS, THE INTEGRITY OF GOVERNANCE: WHAT IT IS, WHAT WE KNOW, WHAT IS DONE, AND WHERE TO GO, 45-78 (PALGRAVE MACMILLAN 2014).
9. Transparency International, Global Corruption Report: Education (Transparency Int'l 2013).
10. TRƯƠNG HẢI LONG (CHỦ BIÊN), XÂY DỰNG NỀN CÔNG VỤ LIÊN THÔNG THỐNG NHẤT, CHUYÊN NGHIỆP, TRÁCH NHIỆM, NĂNG ĐỘNG, THỰC TÀI, NXB CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT, HÀ NỘI (2023).
11. MARK BOVENS, THE QUEST FOR RESPONSIBILITY: ACCOUNTABILITY AND CITIZENSHIP IN COMPLEX ORGANISATIONS (CAMBRIDGE UNIV. PRESS 1998).
12. MARK C. MURPHY, NATURAL LAW IN JURISPRUDENCE AND POLITICS (CAMBRIDGE UNIV. PRESS 2006).
13. Mark Pyman et al., Anti-Corruption in Public Procurement: Balancing Competing Priorities (Transparency Int'l 2014).
14. Organisation for Economic Co-operation and Development (OECD), Preventing Corruption in Public Administration: Policy Recommendations (OECD Publishing 2017).
15. ROBERT KLITGAARD, CONTROLLING CORRUPTION 89-92 (UNIV. OF CALIFORNIA PRESS 1988).
16. SUSAN ROSE-ACKERMAN & BONNIE J. PALIFKA, CORRUPTION AND GOVERNMENT: CAUSES, CONSEQUENCES, AND REFORM (CAMBRIDGE UNIV. PRESS 2016).
17. PHẠM HỒNG THÁI, NGUYỄN THỊ MINH HÀ (CHỦ BIÊN), LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM, NXB ĐHQGHN (2017).
18. Tòa án Nhân dân Tối cao, Báo cáo tóm tắt tổng kết công tác năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2023 của Tòa án Nhân dân tối cao, ngày 22/12/2022. https://www.toaan.gov.vn/ webcenter/portal/tdkt/chitietthongbao?dDocName=TAND284234,(ngày truy cập: 08/12/2023).
19. Transparency International, Corruption Perceptions Index (Transparency Int'l 2022).
20. NGUYỄN MINH TUẤN, PHẠM THỊ DUYÊN THẢO, MAI VĂN THẮNG (ĐỒNG CHỦ BIÊN), LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM, NXB ĐHQGHN, (2024).
21. NGUYỄN NHƯ Ý (CHỦ BIÊN), TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, NXB VĂN HÓA THÔNG TIN, (1999).
22. Д. Н. БАХРАХ, АДМИНИСТРАТИВНОЕ ПРАВО РОССИИ ИЗДАТЕЛЬСТВО, ЭКСМО (МОСКВА 2010).
Trang tin điện tử:
23. Lê Sơn, Tình trạng khiếu nại, tố cáo giảm so với năm 2021, Báo Chính phủ (13/09/2022 17:40) https://baochinhphu.vn/tinh-trang-khieu-nai-to-cao-giam-so-voi-nam-2021-10222091315510025.htm
24. Thành Chung, Bộ Công an thông tin mới về vụ án Thuận An, Phúc Sơn, giai đoạn 2 vụ Vạn Thịnh Phát, Tuổi trẻ (14/08/2024 16:23) https://tuoitre.vn/bo-cong-an-thong-tin-moi-ve-vu-an-thuan-an-phuc-son-giai-doan-2-vu-van-thinh-phat-20240814155902294.htm
* GS.TS Phạm Hồng Thái, Giảng viên cao cấp Trường Đại học Luật, ĐHQG Hà Nội, Chủ tịch HĐGS ngành Luật học. Duyệt đăng 17/1/2025. Email: thaihanapa201@yahoo.com
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số 505.01-2023.04.
[1] Xem: NGUYỄN MINH TUẤN, PHẠM THỊ DUYÊN THẢO, MAI VĂN THẮNG (ĐỒNG CHỦ BIÊN), LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM, NXB ĐHQGHN, 120 (2024).
[2] Dẫn theo: Vũ Công Giao “Liêm chính học thuật - Lý luận, thực tiễn và những yêu cầu đặt ra trên thế giới và ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, 6 (358), tr.3-16 (2018).
[3] NGUYỄN NHƯ Ý (CHỦ BIÊN), TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, NXB VĂN HÓA THÔNG TIN, 1018 (1999).
[4] ĐÀO DUY ANH, TỪ ĐIỂN HÁN VIỆT GIẢN – YẾU, NXB VĂN HÓA THÔNG TIN, 405 (2005).
[5] MARK C. MURPHY, NATURAL LAW IN JURISPRUDENCE AND POLITICS, 37 (CAMBRIDGE UNIV. PRESS 2006).
[6] ARISTOTLE, NICOMACHEAN ETHICS, 15-22 (W.D. ROSS TRANS., OXFORD UNIV. PRESS 2009) (C. 350 B.C.E.).
[7] LEO W.J.C. HUBERTS, THE INTEGRITY OF GOVERNANCE: WHAT IT IS, WHAT WE KNOW, WHAT IS DONE, AND WHERE TO GO, 45-78 (PALGRAVE MACMILLAN 2014).
[8] HỒ CHÍ MINH: TOÀN TẬP, NXB. CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT, HÀ NỘI, T.6, 127 (2011).
[9] HỒ CHÍ MINH, SĐD, 129.
[10] PHẠM HỒNG THÁI, NGUYỄN THỊ MINH HÀ (CHỦ BIÊN), LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM, NXB ĐHQGHN, 165 (2017).
[11] Xem: Д. Н. БАХРАХ, АДМИНИСТРАТИВНОЕ ПРАВО РОССИИ ИЗДАТЕЛЬСТВО, ЭКСМО, 203 (МОСКВА 2010).
[12] HỒ CHÍ MINH, SĐD, tlđd, 6, 127.
[13] Dẫn theo: TRƯƠNG HẢI LONG (CHỦ BIÊN), XÂY DỰNG NỀN CÔNG VỤ LIÊN THÔNG THỐNG NHẤT, CHUYÊN NGHIỆP, TRÁCH NHIỆM, NĂNG ĐỘNG, THỰC TÀI, NXB CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT, HÀ NỘI, 15 -16 (2023).
[14] Tòa án Nhân dân Tối cao, Báo cáo tóm tắt tổng kết công tác năm 2022 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2023 của Tòa án Nhân dân tối cao, ngày 22/12/2022. https://www.toaan.gov.vn/webcenter /portal/tdkt/chitietthongbao?dDocName=TAND284234, (ngày truy cập: 08/12/2023).
[16] Lê Sơn, Tình trạng khiếu nại, tố cáo giảm so với năm 2021, Báo Chính phủ (13/09/2022 17:40) https://baochinhphu.vn/tinh-trang-khieu-nai-to-cao-giam-so-voi-nam-2021-10222091315510025.htm
[17] Ví dụ vụ án liên quan đến vụ “Tập đoàn Phúc Sơn” đã khởi tố 23 bị can, trong đó có 6 cán bộ diện Trung ương quản lý gồm 1 bí thư, 1 nguyên bí thư, 1 phó bí thư thường trực Tỉnh ủy, 2 chủ tịch, 1 nguyên chủ tịch UBND tỉnh. Đối với vụ Thuận An, đã khởi tố 8 bị can, trong đó có 2 cán bộ diện Trung ương quản lý gồm 1 bí thư Tỉnh ủy, 1 phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội. (Thành Chung, Bộ Công an thông tin mới về vụ án Thuận An, Phúc Sơn, giai đoạn 2 vụ Vạn Thịnh Phát, Tuổi trẻ (14/08/2024 16:23) https://tuoitre.vn/bo-cong-an-thong-tin-moi-ve-vu-an-thuan-an-phuc-son-giai-doan-2-vu-van-thinh-phat-20240814155902294.htm ).
[18] Transparency International, Corruption Perceptions Index 2022, 18-20 (Transparency Int'l 2022).
[19] LEO W.J.C. HUBERTS, THE INTEGRITY OF GOVERNANCE: WHAT IT IS, WHAT WE KNOW, WHAT IS DONE, AND WHERE TO GO, 102-104 (PALGRAVE MACMILLAN 2014).
[20] EDGAR H. SCHEIN, ORGANIZATIONAL CULTURE AND LEADERSHIP, 74-76 (JOSSEY-BASS 2010).
[21] Organisation for Economic Co-operation and Development (OECD), Preventing Corruption in Public Administration: Policy Recommendations 35-38 (OECD Publishing 2017).
[22] LEO W.J.C. HUBERTS, THE INTEGRITY OF GOVERNANCE: WHAT IT IS, WHAT WE KNOW, WHAT IS DONE, AND WHERE TO GO 208-211 (PALGRAVE MACMILLAN 2014).
[23] Transparency International, Global Corruption Report: Education 44-47 (Transparency Int'l 2013).
[24] ALAN DOIG, CORRUPTION AND MISCONDUCT IN CONTEMPORARY GOVERNANCE 67-70 (ROUTLEDGE 2011).
[25] SUSAN ROSE-ACKERMAN & BONNIE J. PALIFKA, CORRUPTION AND GOVERNMENT: CAUSES, CONSEQUENCES, AND REFORM 225-227 (CAMBRIDGE UNIV. PRESS 2016).
[26] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành TW Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, (09/11/2022).
[27] MARK BOVENS, THE QUEST FOR RESPONSIBILITY: ACCOUNTABILITY AND CITIZENSHIP IN COMPLEX ORGANISATIONS 45-50 (CAMBRIDGE UNIV. PRESS 1998).
[28] Mark Pyman et al., Anti-Corruption in Public Procurement: Balancing Competing Priorities 34-36 (Transparency Int'l 2014).
[29] ROBERT KLITGAARD, CONTROLLING CORRUPTION 89-92 (UNIV. OF CALIFORNIA PRESS 1988).
[30] ABHIJIT V. BANERJEE & ESTHER DUFLO, POOR ECONOMICS: A RADICAL RETHINKING OF THE WAY TO FIGHT GLOBAL POVERTY 172-175 (PUBLICAFFAIRS 2011).