Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định rất chặt
chẽ việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng; tuy nhiên, thực tiễn thi hành còn gặp nhiều vướng mắc, bất cập. Bài viết
đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác dữ liệu ghi âm, ghi
hình có âm thanh trong hỏi cung bị can, đảm bảo cho hoạt động điều tra vụ án
khách quan, minh bạch.
Tầm quan trọng của ghi âm, ghi hình có âm thanh trong hỏi cung bị can
Ghi âm và ghi hình có âm thanh trong tố tụng hình sự
đang được coi là một chủ trương quan trọng trong pháp luật tố tụng của Việt
Nam, nhằm thể chế hóa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo quy định, việc
ghi âm và ghi hình có âm thanh bắt buộc thực hiện trong hai trường hợp sau: (1)
Hỏi cung bị can và lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân: Điều
này giúp đảm bảo tính minh bạch và khách quan trong việc thu thập chứng cứ từ bị
can; (2) Các trường hợp khác: Ghi âm và ghi hình có thể thực hiện trong tiếp nhận
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; lấy lời khai của người làm chứng;
lấy lời khai của bị hại, đương sự; đối chất; ghi âm diễn biến phiên tòa. Quy định
về ghi âm và ghi hình trong quá trình hỏi cung bị can đóng vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo quyền con người và hội nhập chung vào nền tư pháp quốc tế. Mục
đích của việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong hỏi cung bị can là để: (i)
Minh bạch hoạt động tố tụng: Điều này giúp tăng cường giám sát quá trình tố tụng
và hạn chế oan sai; (ii) Bảo vệ quyền con người và quyền công dân: Đảm bảo tính
minh bạch và khách quan trong việc thu thập chứng cứ; chống bức cung và nhục
hình; (iii) Bảo vệ cán bộ hỏi cung: Tránh bị vu cáo...
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm
2021 (BLTTHS năm 2015) quy định rất chặt chẽ việc cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng tổ chức ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và việc các cơ quan có thẩm
quyền sử dụng nguồn chứng cứ đã ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Các nội dung
ghi âm, ghi hình việc hỏi cung bị can cũng là nguồn chứng cứ quan trọng, giúp
cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có thể xác định sự
thật khách quan của vụ án, chứng minh một cách khách quan và đầy đủ các tình tiết
của vụ án, hạn chế được oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Đồng thời, đây cũng là những
căn cứ xác thực, giúp làm rõ có hay không việc mớm cung, bức cung hoặc dùng nhục
hình; hoặc phản bác lại việc phản cung, chối tội, thay đổi lời khai không đúng
sự thật, hoặc bịa đặt, tố cáo sai sự thật rằng mình bị bức cung, nhục hình của
bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án.
Về tổ chức ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, Điều 183
BLTTHS năm 2015 quy định bắt buộc về việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc
tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra (gọi tắt là CQĐT) phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Điều luật
cũng quy định rất chặt chẽ việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng.
Sau khi có kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
khi hỏi cung bị can thì CQĐT đã sử dụng các biên bản hoạt động điều tra đã được
lập theo đúng quy định tại Điều 133 BLTTHS năm 2015 để phục vụ cho việc giải
quyết vụ án. Đồng thời, có thể sử dụng các tài liệu này để phục vụ cho công tác
điều tra, khám phá tội phạm, mở rộng vụ án, làm rõ các vấn đề cần chứng minh
khác, chẳng hạn có thể sử dụng dữ liệu ghi âm có âm thanh phục vụ cho hoạt động
nhận biết giọng nói theo Điều 191 BLTTHS năm 2015 hoặc sử dụng dữ liệu đã được
ghi bằng hình ảnh phục vụ cho hoạt động nhận dạng theo quy định tại Điều 190
BLTTHS năm 2015.
Đối với một số vụ án phức tạp mà bị can phạm tội có tổ
chức hoặc phạm tội nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; vụ án truy xét hoặc
bị can không thành khẩn, quanh co, chối tội thì tài liệu có được từ việc hỏi
cung bị can có ghi âm, ghi hình có âm thanh có giá trị chứng minh rất quan trọng.
Đó không những là nguồn chứng cứ mà còn để bảo đảm tính khách quan của các chứng
cứ đã thu thập được bằng cách đối chiếu so sánh các biên bản hoạt động điều tra
với nội dung đã ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, một mặt kiểm tra tính chính
xác trung thực của thông tin có đúng như nội dung đã ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh hay không.
Khi việc điều tra đã hoàn tất thì CQĐT sẽ ban hành bản
kết luận điều tra kèm theo hồ sơ vụ án chuyển sang Viện kiểm sát đề nghị truy tố.
Theo Điều 131 BLTTHS năm 2015, hồ sơ vụ án bao gồm: Lệnh, quyết định, yêu cầu của
CQĐT, Viện kiểm sát; các biên bản tố tụng do CQĐT, Viện kiểm sát lập; các chứng
cứ, tài liệu liên quan đến vụ án; các chứng cứ, tài liệu do Viện kiểm sát, Tòa
án thu thập trong giai đoạn truy tố, xét xử phải đưa vào hồ sơ vụ án. Hồ sơ vụ
án phải có thống kê tài liệu kèm theo, thống kê tài liệu ghi rõ tên tài liệu, số
bút lục và đặc điểm của tài liệu (nếu có). Như vậy, nội dung ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh được hiểu là một trong các tài liệu liên quan trong hồ sơ vụ
án, tài liệu này sẽ được các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để đánh giá, giải
quyết vụ án.
Một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình hỏi cung bị can có ghi âm, ghi hình có âm thanh
Thứ nhất, hiện nay quy định về quy trình, hướng dẫn về
ghi âm, ghi hình có âm thanh còn chưa bao quát toàn diện, đầy đủ. Cụ thể, quy định
việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác có thể được ghi âm, ghi hình có âm thanh
theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
(khoản 6 Điều 183 BLTTHS năm 2015). Tuy nhiên, trên thực tế việc hiểu và áp dụng
quy định trên không thống nhất, vì Thông tư liên tịch số 03/2018 của Bộ Công an - Viện kiểm sát nhân dân tối cao -
Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Quốc phòng hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử (TTLT số
03/2018) không có quy định hướng dẫn cụ thể trường hợp nào thì yêu cầu được
CQĐT chấp nhận, trường hợp nào không; căn cứ để chấp nhận yêu cầu; nếu được chấp
nhận thì quy trình thực hiện như thế nào.
Thực tiễn cho thấy việc Điều tra viên hỏi cung bị can
thường áp dụng ghi âm, mà không ghi hình có âm thanh, dẫn đến trường hợp cần
xem lại từng file ghi âm, ghi hình có âm thanh để đánh giá lại thái độ, hành vi
của bị can trong quá trình khai báo để đề ra các phương án điều tra tiếp theo
còn gặp khó khăn. Nguyên nhân là do việc lựa chọn ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh còn mang tính tùy nghi, phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Điều tra viên hỏi
cung.
Hai là, theo quy định tại khoản 6 Điều 183 và khoản 5 Điều 442 BLTTHS năm 2015
thì việc hỏi cung bị can, lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân thương mại ngoài trụ sở CQĐT được ghi âm, ghi hành có âm thanh khi có yêu
cầu của các chủ thể sau: Bị can, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân
thương mại, của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Như vậy có
nghĩa là, trong trường hợp này việc ghi âm hay ghi hình có âm thanh chỉ được tiến
hành khi các chủ thể nêu trên có yêu cầu, không phải là bắt buộc như trong trường
hợp hỏi cung bị can, lấy lời khai của người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân thương mại được thực hiện tại CQĐT. Tuy nhiên, điều luật lại không quy định
cụ thể trường hợp nào thì yêu cầu được chấp nhận, trường hợp nào yêu cầu không
được chấp nhận dẫn đến việc áp dụng còn mang tính tùy nghi trong thực tiễn. Bên
cạnh đó, điều luật cũng không quy định cụ thể chủ thể nào có thẩm quyền trong
việc chấp nhận yêu cầu này (là cán bộ hỏi cung trực tiếp tương tự quy định tại
khoản 1 Điều 5 TTLT số 03/2018 hay là Thủ trưởng CQĐT hay là chủ thể khác).
Ba là, khoản 3 Điều 5 TTLT số 03/2018 cũng không hướng
dẫn về nội dung ở trên mà chỉ ghi nhận trình tự, thủ tục ghi âm hoặc ghi hình
có âm thanh trong trường hợp này được thực hiện theo quy định tại điểm b khoản
2 Điều 5 TTLT này. Đồng thời, không có quy định cụ thể hướng dẫn về trình tự,
thủ tục, biểu mẫu... cần thực hiện khi những chủ thể có quyền thực hiện quyền
yêu cầu này. Thực tế cho thấy, hầu hết bị can, người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân thương mại đều mong muốn quá trình hỏi cung, lấy lời khai được diễn
ra công khai, minh bạch, đảm bảo đúng sự thật khách quan của vụ án, nên họ luôn
mong muốn quá trình hỏi cung, lấy lời khai này được áp dụng việc ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh. Do đó, khả năng họ yêu cầu áp dụng các biện pháp này khi
việc hỏi cung thực hiện tại địa điểm khác không phải là tại trụ sở CQĐT là rất
cao. Tuy nhiên, do luật chưa có quy định cụ thể nên thực tế còn nhiều khó khăn,
vướng mắc khi áp dụng.
Ngoài ra, việc bảo quản, lưu trữ dữ liệu ghi âm, ghi
hình có âm thanh trên thực tế vẫn còn
khó khăn; thời gian trích xuất file, sao lưu dữ liệu vào đĩa DVD chậm, đặc biệt
nếu triển khai đồng loạt ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh tại nhiều phòng hỏi
cung thì việc trích xuất file, sao lưu dữ liệu và đĩa DVD mất khá nhiều thời
gian; máy tính lưu trữ có dung lượng thấp, khó khăn cho công tác lưu trữ file gốc;
ổ cứng, phần mềm có lúc gặp trục trặc, chưa ổn định, không nhận camera, mic…
Đề xuất, giải pháp
Xuất phát từ những khó khăn, vướng mắc trên, để nâng
cao hiệu quả ghi âm, ghi hình có âm thanh trong hỏi cung bị can, lấy lời khai,
theo tác giả trong thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt các vấn đề sau:
Một là, liên ngành tư pháp trung ương cần kịp thời ban
hành các văn bản hướng dẫn về ghi âm, ghi hình có âm thanh trong hỏi cung bị
can, lấy lời khai để áp dụng các trình tự, thủ tục, tiêu chuẩn kỹ thuật, lưu giữ
tài liệu, phân cấp, phân quyền người truy cập dữ liệu để kiểm tra, trích xuất,
phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình lưu giữ, bảo quản,
khai thác và sử dụng dữ liệu hỏi cung bị can. Cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn
về việc ghi âm, ghi hình có âm thanh trong trường hợp tiến hành hỏi cung, lấy lời
khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại ngoài trụ sở CQĐT,
về căn cứ để yêu cầu ghi âm, ghi hình có âm thanh của bị can, người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội, của cơ quan, người tiến hành
tố tụng được chấp nhận để đảm bảo việc áp dụng thống nhất trong thực tiễn,
tránh áp dụng một cách tùy nghi, chủ quan. Đồng thời, cần hướng dẫn cụ thể về
trình tự, thủ tục chấp nhận yêu cầu này cũng như biểu mẫu, theo đó, yêu cầu cần
phải được lập thành văn bản hoặc bằng lời nói có ghi nhận vào biên bản hỏi
cung...
Hai là, cần sửa đổi Điều 183 BLTTHS năm 2015 về việc hỏi
cung bị can ghi âm, ghi hình có âm thanh theo hướng thu hẹp trường hợp áp dụng
là chỉ đối với bị can phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, bị can kêu oan, bị can
không nhận tội và chỉ khi buổi hỏi cung không có người bào chữa để đảm bảo tính
khả thi, tránh lãng phí.
Ba là, cần tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng cách sử
dụng các thiết bị phục vụ hoạt động hỏi cung bị can có ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh cho Điều tra viên, Cán bộ điều tra. Bên cạnh đó, tập trung trang bị cơ
sở vật chất, cán bộ kỹ thuật phục vụ việc hỏi cung ghi âm, ghi hình có âm thanh
tại các nhà tạm giữ, trại tạm giam, thiết bị di động ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh cho Điều tra viên, Cán bộ điều tra hỏi cung bị can tại trụ sở CQĐT.
Bốn là, tiếp tục thực hiện nghiêm các quy định về dữ
liệu ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong lấy lời khai, hỏi cung bị can;
trong đó chú trọng khai thác dữ liệu ghi âm, ghi hình phục vụ ngược trở lại
công tác điều tra, mở rộng vụ án. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, đề xuất bổ sung
các quy định cho phép ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến như một số nước vào công
tác lấy lời khai, hỏi cung bị can như các kỹ thuật phát hiện nói dối (đặc biệt
là các công cụ “không xâm lấn”, dựa âm thanh và hình ảnh (như công cụ CVSA,
CBCA, FIT)); kỹ thuật chuyển từ lời nói thành bản chữ nhằm khắc phục tình trạng
biên bản ghi lời khai, hỏi cung bị can và dữ liệu ghi âm, ghi hình không khớp
nhau.
Năm là, cần hoàn thiện chất lượng cơ sở vật chất về
ghi âm, ghi hình có âm thanh và ban hành tiêu chuẩn thống nhất đối với phòng
ghi âm, ghi hình có âm thanh; tổ chức cải tạo, sửa chữa các phòng hỏi cung chưa
đảm bảo yêu cầu và sớm triển khai, lắp đặt đồng bộ hệ thống ghi âm, ghi hình tại
các phòng hỏi cung. Ngoài ra, cần xây dựng hệ thống mạng kết nối CQĐT các cấp,
tạo điều kiện cho việc truy cập thông tin về đối tượng một cách nhanh chóng; đẩy
mạnh ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, chuyển đổi số, nghiên cứu cấp quyền
khai thác thông tin từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư cho Điều tra viên các cấp
để phục vụ điều tra vụ án nhằm phát huy nguồn tài nguyên số về thông tin, góp
phần giúp ích cho hoạt động điều tra tội phạm
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra nhằm phát hiện những
vi phạm, sai phạm khi áp dụng các chiến thuật hỏi cung bị can để chấn chỉnh, xử
lý, giải quyết kịp thời. Song song với việc phê duyệt kế hoạch hỏi cung bị can,
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT cần thường xuyên thực hiện công tác kiểm tra kết
quả hỏi cung, kiểm tra quá trình hỏi cung (thông qua việc khai thác dữ liệu ghi
âm, ghi hình có âm thanh) để phát hiện những sai sót, vi phạm, trên cơ sở đó có
sự tổng hợp, phê bình, đánh giá và chỉ dẫn nhằm hỗ trợ các Điều tra viên trong
công tác vận dụng chiến thuật hỏi cung trong hoạt động điều tra.