Những gì cần biết về cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 2024
Cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ lần thứ 60 sẽ quyết định Tổng thống thứ 47 và Phó Tổng thống thứ 50.
Nếu như Trung Quốc có Luật Đầu tư nước ngoài gồm hệ thống các qui định pháp luật chặt chẽ nhằm thu hút nguồn vốn FDI sạch, đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Còn Ấn Độ, tuy không có luật chuyên biệt về đầu tư nước ngoài, song Chính phủ nước này đã tạo ra lực hút hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước bởi chính sách và cách làm rất khác biệt. Chúng ta cùng tiếp tục tìm hiểu về Ấn Độ…
Nếu như Trung Quốc là hình mẫu để cho những quốc gia trở thành thành viên của BRICS có nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi kinh nghiệm, để gia tăng khối lượng thương mại với các nền kinh tế đang phát triển lớn nhất thế giới, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu và thu hút đầu tư. Thì Ấn Độ cũng là một hình mẫu với những đặc sắc riêng về chính sách hỗ trợ đột pháp và cách làm khác biệt để thu hút FDI
Trong đó, pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền; pháp luật về bất động sản là hai trong những khung pháp lý được Chính phủ Ấn Độ liên tục quan tâm điều chỉnh trong bối cảnh cách mạng kỹ thuật số đang thâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế và vì sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài.
Ấn Độ là một trong những thị trường phát triển nhất về lĩnh vực thương mại điện tử trong những năm vừa qua. Doanh thu từ lĩnh vực này chứng kiến tốc độ tăng trưởng hàng năm là 51%, cao nhất thế giới. Sự tăng trưởng đó được kích hoạt bởi sự gia tăng cơ sở thuê bao điện thoại di động và khả năng thâm nhập của internet trên khắp đất nước. Tính đến tháng 1/2023, số lượng người dùng internet ở Ấn Độ đã có 629 triệu người. Con số này dự kiến sẽ vượt quá 1 tỷ người vào năm 2030, nhiều hơn toàn bộ dân số Châu Âu và Bắc Mỹ.
Sự gia tăng truy cập internet đã mang lại tăng trưởng tương ứng về số lượng các công ty khởi nghiệp dựa trên internet và nhiều gã khổng lồ internet đa quốc gia toàn cầu hiện đang tham gia và phát triển kinh doanh tại thị trường Ấn Độ. Nền kinh tế kỹ thuật số mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng và thị trường, giúp tăng lựa chọn, giá thấp hơn, tính đối xứng thông tin và đổi mới nhanh chóng, nhưng một số chuyên gia cũng cảnh báo đây là điều không tưởng của cạnh tranh hoàn hảo. Ngay cả việc mang lại nhiều lợi ích, nền kinh tế kỹ thuật số đang làm phát sinh khả năng xảy ra các hành vi phản cạnh tranh và lạm dụng mới, do bản chất phức tạp của công nghệ cơ bản có liên quan, có thể không chỉ khó hiểu mà thậm chí còn không phù hợp với khuôn khổ luật cạnh tranh truyền thống.
Nhiều năm qua, Ấn Độ đã có phiên bản luật cạnh tranh của riêng mình, được ban hành thông qua một đạo luật được gọi là Luật Thực hành thương mại hạn chế và độc quyền 1969. Văn bản pháp lý này dựa trên các nguyên tắc của nền kinh tế “chỉ huy và kiểm soát”, được thiết kế để đặt ra một cơ chế quản lý trong nước không cho phép tập trung quyền lực kinh tế vào một số ít gây phương hại đến lợi ích công cộng và do đó nghiêm cấm bất kỳ chế độ độc quyền nào cũng như các hoạt động thương mại hạn chế. Tuy nhiên, luật này dần tỏ ra không còn hiệu quả dù được sửa đổi nhiều lần. Sau khi tự do hóa kinh tế năm 1991, Ấn Độ nhận thấy phải bắt buộc phải xây dựng một chế độ pháp luật cạnh tranh đáp ứng tốt hơn với thực tế kinh tế quốc gia và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Do đó, vào năm 2002, Quốc hội Ấn Độ đã thông qua Luật Cạnh tranh để điều chỉnh toàn diện các hoạt động kinh doanh trong nước nhằm ngăn chặn các hành vi có ảnh hưởng bất lợi đáng kể đến cạnh tranh ở Ấn Độ. Theo đó, các loại hành vi bị điều chỉnh, đó là: Thỏa thuận chống cạnh tranh; lạm dụng vị trí thống lĩnh; và các mối kết hợp (tức là sáp nhập, mua lại và hợp nhất). Tuy nhiên, các điều khoản về kiểm soát sáp nhập của Luật Cạnh tranh chỉ thực sự hoàn thiện phải đợi đến tháng 6/2011, sau khi phải trải qua 2 lần “giải phẫu” (đó là được sửa đổi vào năm 2007, có hiệu lực vào năm 2009; và năm 2011 khi Chính phủ Ấn Độ thông báo các điều khoản liên quan đến các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và lạm dụng vị trí thống lĩnh của Luật Cạnh tranh).
Có thể nói Luật Cạnh tranh năm 2011 là văn bản pháp lý cao nhất của Ấn Độ về điều chỉnh về cạnh tranh. Theo đó, Ủy ban Cạnh tranh Ấn Độ (CCI) là cơ quan đại diện Nhà nước chịu trách nhiệm cao nhất về việc tổ chức thực thi và quản lý. CCI có thể tự mình bắt đầu một cuộc điều tra độc lập liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc lạm dụng vị trí thống lĩnh dựa trên cơ sở thông tin hoặc kiến thức thuộc sở hữu của mình, hoặc khi nhận được thông tin hoặc khi nhận được tài liệu tham khảo từ Chính phủ hoặc một cơ quan có thẩm quyền theo luật định. Bất kỳ người nào, người tiêu dùng hoặc Hiệp hội của họ đều có thể gửi khiếu nại hoặc thông tin liên quan đến các thỏa thuận chống cạnh tranh và lạm dụng vị trí thống lĩnh. Tổ chức này bao gồm một Chủ tịch, không ít hơn 2 và không nhiều hơn 6 thành viên khác do Chính phủ chỉ định.
Đối với các hình thức kết hợp, CCI có thể tự mình bắt đầu điều tra hoặc trên cơ sở thông báo của các công ty đề xuất tham gia sự kết hợp. CCI và cơ quan điều tra của nó, Văn phòng Tổng giám đốc (DG), được giao quyền điều tra sâu rộng về các hành vi chống cạnh tranh, bao gồm quyền triệu tập và buộc sự có mặt của bất kỳ cá nhân nào, kiểm tra họ khi tuyên thệ, nhận bằng chứng về bản tuyên thệ và các điều khoản tương tự khác. Nếu CCI cho rằng có trường hợp sơ bộ, CCI sẽ chỉ đạo DG điều tra vấn đề và báo cáo các phát hiện của mình. DG cũng được trao quyền để thực hiện “các cuộc đột kích” cho mục đích điều tra.
Ngoài ra, CCI có thể dựa vào các khuyến nghị do DG đưa ra trong báo cáo của mình và sau khi cho các bên liên quan có cơ hội được lắng nghe, thông qua các lệnh đó nếu thấy phù hợp, bao gồm lệnh ngừng hoạt động và bãi bỏ cũng như áp dụng các hình phạt. Ở chiều ngược lại, Luật Cạnh tranh 2011, cũng có điều khoản kháng cáo lên Tòa án Phúc thẩm cạnh tranh (COMPAT) đối với một số lệnh nhất định của CCI; và quyết định của COMPAT có thể được được kháng cáo lên Tòa án Tối cao của nước này.
Cùng với dự báo của S&P Global Ratings, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ước tính, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Ấn Độ có thể sẽ đạt mức 4,33 nghìn tỷ USD vào năm 2025, vượt mức 4,31 nghìn tỷ USD của Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới, sớm một năm so với dự báo trước đó. Đồng thời, theo IMF, Ấn Độ có thể tiếp tục vượt Đức để trở thành nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới vào năm 2027.
Những “gã khổng lồ” công nghệ như Amazon và Microsoft đã đổ hàng tỷ USD vào thung lũng Silicon Bangalore, trong khi các đại công ty khác như Verizon, Nokia và Cisco đang đầu tư gấp đôi vào cường quốc kinh tế mới nổi này. Chính phủ Ấn Độ dự trù kế hoạch đầy tham vọng để thu hút các công ty toàn cầu, trong đó có Apple và các công ty Nhật Bản - thành lập các trung tâm nghiên cứu sáng tạo và sản xuất khổng lồ ở Ấn Độ; đồng thời tăng chi tiêu để xây dựng đường sá, bến cảng và sân bay.
Để thu hút thêm ngày càng nhiều các nhà đầu tư FDI đổ tiền vào các dự án liên quan đến lĩnh vực dịch vụ và du lịch, từ năm 2009, Chính phủ Ấn Độ thay đổi luật pháp hiện hành để cho phép các nhà đầu tư FDI có thể trở thành chủ sở hữu của những dự án BĐS có diện tích nhỏ hơn hiện tại (trước đó các NĐT nước ngoài khi đầu tư vào Ấn Độ sẽ bị giới hạn bởi những dự án có diện tích tối thiểu phải từ 25 mẫu Anh trở lên). Việc điều chỉnh hành lang pháp lý này được kỳ vọng tạo ra sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư FDI rót vốn vào các dự án phát triển ở các thành phố lớn của Ấn Độ như: Mumbai, New Delhi, Bangalore, Chennai và Hyderbad, những nơi được cho là không dễ gì tìm được những khu đất có diện tích lớn hơn 25 mẫu Anh.
Ngoài ra, Vụ Chính sách và Xúc tiến Công nghiệp (Bộ Công nghiệp Ấn Độ) còn đưa ra những văn bản quy định dưới luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ấn Độ nhằm thu hút thêm các nhà đầu tư FDI. Theo đó, Chính phủ bãi bỏ những giới hạn về vốn tối thiểu cho những dự án phát triển có liên quan đến lĩnh vực dịch vụ và du lịch chẳng hạn như các dự án xây dựng khách sạn, nhà hàng, các khu vui chơi giải trí… Những thủ tục pháp lý được nới rộng này còn có thể được áp dụng cho những dự án có trên 50% diện tích các tòa nhà dành cho kinh doanh khách sạn và kinh doanh du lịch ví dụ như khu ẩm thực, nhà hàng, resort… hoặc có 20% trên tổng số diện tích đất được xây dựng làm phòng nghỉ cho du khách.
Ấn Độ tuyên bố họ chào đón các nhà đầu tư nghiêm túc từ mọi nơi trên thế giới đến đây đầu tư lâu dài. Rõ ràng động thái mới của Ấn Độ chính là để kích thích đầu tư bởi thị trường BĐS nước này cũng đang phải chịu chung cảnh ngộ với nhiều thị trường khác trên thế giới sau tác động của khủng hoảng. Nhưng chính sách mới này sẽ là tiền đề cho những dự án lớn trong tương lai gần khi mà nền kinh tế thế giới đang dần hồi phục.
Cùng với những chính sách phát triển cơ sở hạ tầng của Thủ tướng Narendra Modi, những đổi mới trên đã làm cho bất động sản của Ấn Độ trở nên hấp dẫn hơn trong bối cảnh trì trệ của thị trường bất động sản Trung Quốc, khiến dòng vốn tín dụng tư nhân nước ngoài chuyển hướng sang Ấn Độ.
Theo báo cáo của Ernst & Young, năm 2022, trong 5,3 tỉ đô la Mỹ từ dòng vốn tín dụng tư nhân chảy vào Ấn Độ thì có 30% đổ vào bất động sản. Nhưng chỉ trong vòng 6 tháng của năm 2023, đã có 50% trong 4 tỉ đô la đầu tư theo hình thức này là vào bất động sản. Theo Công ty tư vấn Grant Thornton, chi nhánh Ấn Độ, lĩnh vực bất động sản của Ấn Độ chiếm 6-7% GDP và sẽ tăng gấp đôi vào năm 2025. Thị trường bất động sản nước này dự kiến sẽ đạt giá trị 1.000 tỉ đô la vào năm 2030.
Thực tế hiện nay, Ấn Độ đang cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài vào hầu hết các lĩnh vực, vì vậy các công ty nước ngoài không phải chia sẻ tài sản trí tuệ hoặc bí mật thương mại của mình với đối tác địa phương. Không chỉ vậy, Chính phủ Ấn Độ cũng cam kết sẽ giảm thuế doanh nghiệp xuống mức thấp nhất có thể.
Tuy còn hạn chế, song những chính sách và kế hoạch của Ấn Độ đã được các chuyên gia kinh tế đánh giá cao. Sự tăng trưởng đó, nhìn nhận dưới góc độ pháp lý, nhờ hưởng lợi từ việc thúc đẩy chính sách dẫn đến các đạo luật như Cơ quan quản lý bất động sản (RERA), sự ra đời của Quỹ tín thác đầu tư bất động sản (REITs) và các sáng kiến về nhà ở như PMAY (Pradhan-Mantri Awas Yojana) và SWAMIH (Cơ hội đặc biệt để hoàn thành xây dựng các dự án nhà ở có giá cả phải chăng và thu nhập trung bình).
Mặc dù vậy theo đánh giá của các chuyên gia, thị trường bất động sản của Ấn Độ sẽ bùng nổ hơn, nếu như tại quốc gia đông dân nhất hành tinh này không còn những ràng buộc đáng kể, như: (i) Để mua nhà ở, nhà đầu tư FDI phải cư trú tại Ấn Độ; (ii) Phải tuân thủ luật lao động và các quy định sử dụng đất nghiêm ngặt, như: nông dân và chủ sở hữu lô đất, quản trị viên, chính trị gia và chính quyền địa phương bên cạnh các nhóm hoạt động xã hội và môi trường trong trường hợp quyền sở hữu đất bị tranh chấp hoặc khu vực này là một phần của vành đai xanh; (ii) Trường hợp nhận thừa kế theo quy định, người không cư trú và không phải là công dân Ấn Độ sẽ phải thông qua Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ chấp thuận cho việc được chuyển nhượng hoặc bán…
Thay vì xây dựng và ban hành Luật thu hút FDI như nhiều quốc gia khác, trong cuộc đón đầu làn sóng chuyển dịch từ Trung Quốc, Ấn Độ nhanh chóng đưa ra các gói hỗ trợ mạnh tay. Năm 2020, nước này đã chi 20 tỷ USD để chiêu dụ các công ty nước ngoài chuyển sản xuất sang Ấn Độ. Những nỗ lực đó đã nhận được quả ngọt. Năm 2022, Ấn Độ ghi nhận GDP đạt 3.468,5 tỷ USD đứng thứ 5 trên thế giới, cùng với đó dân số của Ấn Độ khi đó tăng lên 1,37 tỷ người, đứng thứ hai thế giới sau Trung Quốc.
Hồi giữa tháng 10/2023, ông Rajesh Kumar Singh, Giám đốc Cơ quan Xúc tiến Thương mại Ấn Độ, Thứ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Ấn Độ cho biết: Chính phủ Ấn Độ công bố gói hỗ trợ quy mô lớn nhằm thu hút đầu tư từ các công ty trong các ngành công nghệ cao như pin và chất bán dẫn. Trong đó đưa ra các biện pháp hỗ trợ từ hàng chục triệu đến hàng trăm triệu USD, bao gồm hoàn trả lần lượt 40% và 50% chi phí xây dựng đối với các nhà đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất pin và bán dẫn tại đây (và còn dự kiến hỗ trợ 40% chi phí xây dựng nhà máy và cung cấp các khoản trợ cấp trị giá 300 triệu USD cho việc sản xuất pin). Mục tiêu mà Chính phủ Ấn Độ hướng tới là thu hút các nhà máy sản xuất pin quy mô lớn với công suất sản xuất hàng năm từ 20GWh trở lên.
Apple gần đây đã quyết định tăng sản lượng điện thoại thông minh ở Ấn Độ lên hơn 5 lần. Trước đó, vào tháng 12/2022, sản lượng điện thoại thông minh của Apple tại Ấn Độ đã tăng gấp ba lần. Pin và xe điện là các lĩnh vực tiêu biểu mà Ấn Độ mong muốn hợp tác trong tương lai với Hàn Quốc. Thị trường xe điện Ấn Độ đang tăng trưởng 40% mỗi năm, Ấn Độ dự định công bố chính sách khuyến khích liên kết sản xuất (PLI) trong vòng thời gian tới.
Cho đến hiện tại, dự kiến Chính phủ sẽ hỗ trợ 40% chi phí xây dựng nhà máy sản xuất pin, bên cạnh đó, hỗ trợ bổ sung từ chính quyền các bang nơi đặt nhà máy sản xuất cũng đang được xem xét. Chất bán dẫn cũng được Chính phủ Ấn Độ đề cập đến như một lĩnh vực hợp tác quan trọng, với các chính sách ưu đãi đáng kể. Cụ thể, nếu các nhà đầu tư hợp tác với một công ty Ấn Độ xây dựng một nhà máy thì có thể nhận khoản hỗ trợ tối đa lên tới 10 tỷ USD. Ngoài ra, Chính phủ Ấn Độ dự kiến hỗ trợ 50% chi phí cần thiết trong việc xây dựng nhà máy như một khoản trợ cấp.
Đến nay, Ấn Độ đã miễn giảm thuế cho các dự án đầu tư mới có vốn trên 100 triệu USD và dành hơn 460.000 ha đất “sạch” để thu hút các tập đoàn đa quốc gia. Ngoài ra, quốc gia đông dân nhất thế giới này cũng quy hoạch 10 trung tâm công nghiệp sản xuất tại 9 bang, bao gồm 100 khu công nghiệp. Chính phủ Ấn Độ cũng cũng cam kết giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xuống mức thấp nhất có thể, đồng thời khuyến khích các tiểu bang phát triển hệ sinh thái công nghiệp riêng, đưa ra các ưu đãi rõ ràng về thuế và công nợ.
Cùng với sự “trải thảm” của chính quyền Trung ương, chính quyền địa phương cũng đã lên kế hoạch hỗ trợ 20% chi phí xây dựng. Bên cạnh chất bán dẫn, pin và xe điện, Chính phủ Ấn Độ còn hy vọng thu hút các nhà máy trong ngành hóa dầu đầu tư vào nước này. Trước mối lo ngại của các doanh nghiệp Hàn Quốc về việc cơ sở hạ tầng công nghiệp của Ấn Độ chưa thực sự sẵn sàng đón nhận đầu tư, Thứ trưởng Kumar Singh cho biết, Ấn Độ đang đầu tư 1.000 tỷ USD đến năm 2030 để xây dựng đường xá, bến cảng và sân bay. Hiện hơn 30km đường mới đang được xây dựng mỗi ngày và 72 sân bay mới được lên kế hoạch xây dựng.
Với những chính sách đột phá trên, Chính phủ Ấn Độ đặt mục tiêu đầy tham vọng: Thu hút 100 tỷ USD vốn FDI mỗi năm trong vòng 5 năm tới.
Cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ lần thứ 60 sẽ quyết định Tổng thống thứ 47 và Phó Tổng thống thứ 50.
Với sự tham gia của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, BRICS đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong việc định hình tương lai toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với những biến động và thách thức lớn.
Việc Liên minh châu Âu và Hội đồng hợp tác vùng Vịnh (GCC) họp thượng đỉnh đầu tiên sau 35 năm thiết lập quan hệ có thể muộn, song là cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Bài viết sẽ tập trung phân tích sâu các chính sách pháp lý đã và đang được các quốc gia thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á triển khai để thúc đẩy kinh tế số, đồng thời làm rõ những khó khăn, thách thức liên quan đến vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư. Qua đó, tác giả đề xuất những giải pháp pháp lý khả thi cho tương lai kinh tế số của khu vực.
Theo Thạc sỹ Đỗ Thúy Bình, Vụ Thư ký, Văn phòng Quốc hội, mô hình Ban Thư ký giúp việc cho Tổng Thư ký Quốc hội hiện nay có nhiều điểm khá tương đồng với Nhóm quản trị của Tổng Thư ký Hạ viện Canada.
Sự đa dạng của thực tiễn khiến giao dịch dân sự không ngừng thay đổi để đáp ứng nhu cầu của các chủ thể trong đời sống dân sự. Nhiều trường hợp, các bên thỏa thuận các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ngoài các biện pháp bảo đảm được quy định theo luật. Một khi tranh chấp xảy ra, giá trị pháp lý của các thỏa thuận này đặt ra nhiều thách thức cho cơ quan xét xử.
Hiện nay, giải quyết tranh chấp trực tuyến đã và đang là xu hướng được áp dụng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên quá trình áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động trọng tài của Việt Nam để giải quyết tranh chấp thương mại còn không ít bất cập, thách thức. Thực tế này đòi hỏi cơ quan chức năng cần sớm sửa đổi bổ sung khung pháp lý về Trọng tài thương mại và Trọng tài điện tử.