Người mang “tinh thần pháp quyền” ở khu vực biên giới
TS. Trần Văn Duy
Thứ sáu, 13/06/2025 - 11:15
Nghe audio
0:00
(PLPT) - Già làng, trưởng thôn, người có uy tín trong thời gian qua, đã hăng hái cung cấp rất nhiều tin, phản ánh nguyện vọng có giá trị, giúp chính quyền lựa chọn mô hình, phương pháp, nội dung đổi mới để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL).
Người mang “tinh thần pháp quyền” ở khu vực
biên giới
1.
Đặt vấn đề
Điều
17 Luật phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) năm 2012 quy định Nhà nước có “chính
sách đào tạo, bồi dưỡng, hỗ trợ người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng các dân tộc thiểu số tham
gia phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương; tạo điều kiện để các tổ chức,
cá nhân thực hiện hoạt động tình nguyện phổ biến, giáo dục pháp luật cho người
dân ở vùng dân tộc thiểu số...”. Tại Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công
tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ
nguyên mới yêu cầu “tập trung xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, bảo đảm
thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể
trong xã hội. Đa dạng hóa phương thức truyền thông chính sách, phổ biến, giáo dục
pháp luật”. Chính vì vậy, trong những
năm qua, công tác PBGDPL ở khu vực biên giới, thực hiện các chính sách tăng cường
thực hiện quyền tiếp cận thông tin pháp luật đã có nhiều đổi mới, thiết thực,
hiệu quả góp phần củng cố và tăng cường hơn nữa niềm tin của người dân tại khu
vực biên giới đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý điều hành của Nhà nước.Người mang “tinh thần pháp quyền” ở khu vực biên giới – già làng, trưởng
thôn, người có uy tín trong cộng đồng khu vực biên giới được coi là là “điểm tựa
cho mọi điểm tựa khác” và “những cánh chim đầu đàn”, chính vì vậy, trong công
tác PBGDPL ở khu vực biên giới, cần đề cao họ cùng đồng hành với Ngành Tư pháp,
các cấp, các ngành, chính quyền địa phương để đưa thông tin pháp luật đến người
dân, thuyết phục người dân thay đổi nhận thức, hành vi để ứng xử đúng pháp luật,
tạo ra sự đồng thuận xã hội sát với điều kiện kinh tế- xã hội – văn hoá địa
phương.
2.
Người mang “tinh thần pháp quyền” ở khu vực biên giới
- là già làng, trưởng thôn, người có uy tín
-
Quan niệm "già làng" được hiểu là: (i) một chức sắc trong buôn, làng,
thôn, bản của người dân tộc thiểu số ở vùng dân tộc, miền núi, vùng cao ở Việt
Nam; (ii) một chức vụ tồn tại song song với Trưởng thôn, Trưởng bản; (iii) người
già trong thôn (bản) được dân làng bầu vào chức vụ này do có uy tín với cộng đồng;
(iv) người chịu trách nhiệm đứng ra giải quyết theo luật tục các vấn đề, các
tranh chấp phát sinh trong cuộc sống nhờ vào tiếng nói có trọng lượng nhiều khi
còn hơn cả pháp luật; (v) vị thủ lĩnh của một tộc người hoặc là người đại diện
cho một dòng họ của một tộc người nào đó được người trong dòng tộc hoặc người
dân thuộc dòng tộc khác ở nơi cư trú tự nguyện tin, theo. Ở một số tỉnh miền
núi, già làng là người dân tộc thiểu số có tuổi đời từ 60 trở lên, có sức khỏe,
có uy tín trong làng bản, am hiểu về phong tục tập quán các dân tộc thiểu số,
tích cực vận động người thân và nhân dân thôn bản gương mẫu thực hiện mọi chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, được nhân dân
tín nhiệm, bầu chọn và được tỉnh quyết định công nhận là già làng. Tuy nhiên,
cũng có địa phương đề xuất hoặc các nhà nghiên cứu pháp luật và văn hoá dân tộc
thiểu số có quan điểm về lực lượng già làng: (i) già làng không chỉ có nam mà
còn có cả nữ; (ii) mỗi làng thường chỉ có một già làng, nhưng cũng có nơi lại
có một Hội đồng già làng gồm 3-4 người, nhưng vẫn có một già làng đứng đầu điều
hành công việc chung do các già làng khác tiến cử; (iii) có già làng được dòng
họ cử làm trưởng họ; có già làng được cộng đồng tộc người của làng, bản cử làm
trưởng tộc; có người được dân làng, bản bầu làm trưởng thôn. Có người cùng một
lúc giữ nhiều cương vị: trưởng họ, trưởng tộc, trưởng thôn bản và trưởng thôn bản
tuổi còn trẻ thì không thể được gọi là già làng.
-
Quan niệm "trưởng thôn (bản)" được hiểu: (i) là người do
nhân dân trong thôn, bản trực tiếp bầu ra; (ii) có nhiệm vụ quản lý về mặt
chính quyền trong thôn (bản); tổ chức, vận động nhân dân chấp hành đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện nghĩa vụ đối
với Nhà nước như nộp thuế và các khoản đóng góp khác do Nhà nước quy định, thực
hiện Luật Nghĩa vụ quân sự, các chính sách xã hội; trực tiếp chăm lo cuộc sống
vật chất và tinh thần của nhân dân trong thôn (bản); cùng Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức thành viên cùng cấp củng cố đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong
thôn (bản); (iii) chịu sự lãnh đạo của Chi bộ thôn, đồng thời phải chấp hành mọi
sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Theo
Chỉ thị số 06/2008/CT-TTg ngày 01/02/2008 của Thủ tướng Chính Phủ về việc phát
huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[1] thì người có uy tín trong
đồng bào dân tộc thiểu số là người cao tuổi hoặc trẻ tuổi; là trí thức hoặc là
người thành đạt trong lao động sản xuất, kinh doanh, trong hoạt động xã hội;
người hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là những người:
-
Được đồng bào trong buôn (làng, bản...) tin tưởng, tín nhiệm một cách tự nguyện
hoặc bằng sự ràng buộc của phong tục tập quán, do có địa vị hoặc có trình độ nhận
thức, có điều kiện kinh tế, có cách giải quyết hài hòa các mối quan hệ trong
gia đình, cộng đồng và xã hội;
-
Có mối quan hệ, có ảnh hưởng lớn tới cộng đồng của mình, được đồng bào đến bày
tỏ tâm tư, nguyện vọng, tranh thủ ý kiến để giải quyết các vấn đề liên quan;
-
Có khả năng tác động chi phối, tập hợp được đồng bào dân tộc thiểu số ở những
phạm vi nhất định bằng lời nói, qua hành động hoặc bằng những quy ước của phong
tục tập quán.
-
Là chỗ dựa quan trọng của cấp ủy Đảng, chính quyền nơi cư trú trong việc tuyên
truyền, vận động, tổ chức đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng cao thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Theo
Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg ngày 18/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ, Người có
uy tín là những người hội đủ những điều kiện sau[2]:
-
Là công dân Việt Nam có hộ khẩu thường trú ở vùng dân tộc thiểu số;
-
Được nhân dân nơi cư trú bầu chọn là người gương mẫu chấp hành chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương nơi
cư trú;
-
Được chính quyền xã xác nhận là ngưới có nhiều công lao, đóng góp xây dựng và bảo
vệ thôn, xãc, địa phương nơi cư trú;
-
Được Hội nghị dân cư và liên ngành thôn (Chi ủy, Trưởng thôn, Trưởng Ban công
tác Mặt trận và các đoàn thể thôn) bầu chọn, Ủy ban nhân dân xã duyệt công nhận.
Ở
một số địa phương, đối tượng để lựa chọn bình xét là Người có uy tín trong đồng
bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng cao có thể tập trung vào:
-
Già làng; trưởng thôn (bản); trưởng dòng họ, dòng tộc trong các dân tộc thiểu số;
trưởng khu phố (thị trấn có nhiều người dân tộc thiểu số sinh sống) do đồng bào
bầu theo nhiệm kỳ;
-
Cán bộ, trí thức có quá trình lâu năm, có cống hiến cho dân tộc và cho đất nước
đã nghỉ công tác;
-
Những người có ảnh hưởng lớn đối với đồng bào dân tộc thiểu số trong đời sống
kinh tế (doanh nhân...), giáo dục (giáo viên...), y tế (thầy thuốc...), văn hoá
(nghệ nhân...), an ninh, quốc phòng (cựu chiến binh, công an thôn...), tâm linh
(thầy cúng, thầy mo, bà then...) và lĩnh vực khác của đời sống xã hội, được đồng
bào tín nhiệm, tin yêu./.
Như vậy, dù tiêu chí xác định có
thể khác nhau để phù hợp với thực tiễn công tác áp dụng pháp luật tại từng địa
phương, tuy nhiên, Người mang “tinh thần pháp quyền” ở khu vực biên giới họ là
“người” được cộng đồng suy tôn. Già làng, trưởng thôn, luôn ảnh hưởng mạnh mẽ tới
cộng đồng; là cầu nối đưa pháp luật giữa chính quyền tới người dân, góp phần
quan trọng xây dựng cuộc sống mới ở khu vực biên giới.
3. Cơ
sở chính trị - pháp lý của Người mang “tinh thần pháp
quyền” ở khu vực biên giới - là già làng, trưởng thôn, người có uy tín tham
gia công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở khu vực biên giới
Biên
giới quốc gia có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xác định ranh giới, địa
phận của mỗi quốc gia để có những biện pháp giữ gìn và bảo vệ biên giới quốc
gia. Trong đó, khu vực biên giới không chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị, chủ quyền
quốc gia, nó còn đóng vai trò trong việc phát triển kinh tế. Do đó, việc xây dựng
và phát triển khu vực biên giới luôn được nhà nước chú trọng và đề cao. Khu
vực biên giới là phần lãnh thổ nằm phía trong, tiếp giáp với đường biên giới quốc
gia, có phạm vi và chế độ pháp lý riêng nhất định theo các quy định của pháp luật
quốc gia hoặc các Điều ước quốc tế về quy chế biên giới được quốc gia ký kết. [3]Chính vì vậy,công tác PBGDPL ở khu vực biên giới không đơn thuần là
một hoạt động chung chung, mà gắn liền với từng hộ gia đình, từng người dân
đang sinh sống tại địa phương; và công tác này không chỉ dừng lại ở việc giới
thiệu, truyền tải kiến thức pháp luật cho bà con mà còn gắn liền với hỗ trợ giải
quyết các vấn đề liên quan đến chế độ chính sách, cải thiện cuộc sống.
Công
tác PBGDPL ở khu vực biên giới khi “mời”[4] lực lượng già làng, trưởng
thôn, người có uy tín cần phải xác định chiến lược lâu dài dựa trên cơ sở chính
trị - pháp lý để có biện pháp triển khai đồng bộ với các hoạt động hỗ trợ phát
triển kinh tế, xã hội, ổn định đời sống vật chất của Nhân dân. Vì vậy, Chỉ thị
số 06/2008/CT-TTg, ngày 01/02/2008 của Thủ tướng Chính phủ về “phát huy vai
trò người có uy tín trong dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” và Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội phê duyệt
Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi giai đoạn 2021-2030 nêu rõ: “... Đẩy mạnh công tác tuyên truyền ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi; tăng cường đồng thuận xã hội; phát huy nội lực,
vượt qua khó khăn, thách thức, hòa nhập phát triển cùng với đất nước; củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân tộc và lòng tin của đồng bào với Đảng và Nhà nước”[5].
Trong Kết luận số 80-KL/TW ngày 20/6/2020 về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị
số 32-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, Nhân dân, Ban Bí thư
cũng tiếp tục khẳng định chủ trương ưu tiên bố trí nguồn lực cho công tác
PBGDPL đối với nhóm đối tượng là đồng bào dân tộc. Quyết định số
1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia
phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn
2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025, trong đó có Nội dung số 2,
Tiểu dự án 1, Dự án 10 “tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
và nâng cao nhận thức cho già làng, trưởng bản, người có uy tín, chức sắc tôn
giáo, đồng bào dân tộc thiểu số và Nhân dân”.
Đặc
biệt, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 về “tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới”. Nghị quyết cũng xác định một trong 3 nhiệm vụ trọng
tâm là “hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật
nghiêm minh, nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực pháp luật”, theo đó, “tiếp tục đổi mới công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật”, “đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao
nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về Hiến pháp và pháp luật, về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”….[6]
Đồng thời, tại Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg ngày 6/3/2018 của Thủ tướng Chính
phủ về tiêu chí lựa chọn, công nhận ngươi có uy tín và chính sách đối với người
có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số[7] thì đối tượng có thể được
bình bầu là người có uy tín gồm: cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ
trang theo quy định của pháp luật hiện hành có quá trình công tác lâu năm, có cống
hiến cho dân tộc, đất nước đã nghỉ công tác; già làng, trưởng thôn, trưởng dòng
họ hoặc những người thường được đồng bào dân tộc thiểu số mời thực hiện các
nghi lễ cầu cúng cho gia đình, dòng họ, bản làng; chức sắc, chức việc trong các
tôn giáo ở vùng dân tộc thiểu số (Phật giáo, Hồi giáo, Tin lành, Công
giáo,...); nhân sỹ, trí thức, doanh nhân, nhà giáo, người hành nghề chữa bệnh
giỏi hoặc người có điều kiện kinh tế thường giúp đỡ và được đồng bào tín nhiệm.
3.Vai trò của Người
mang “tinh thần pháp quyền” ở khu vực biên giới - là già làng, trưởng thôn, người
có uy tín tham gia công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở khu vực biên giới
-
Già làng, trưởng thôn, người có uy tín là những người luôn nắm bắt được tâm tư,
tình cảm, nguyện vọng chính đáng. Do đó, khi thực hiện công tác PBGDPL, bằng
kinh nghiệm của mình, họ đã truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm và hỗ trợ người
dân ở khu vực biên giới nắm được một số nội dung luật pháp, tập tục tiến bộ, nhờ
vậy đời sống tinh thần và vật chất của quần chúng nhân dân nơi đây ngày càng được
nâng cao, hạn chế tình trạng “trắng thông tin pháp luật”.
-Già làng, trưởng thôn, người có uy tín
trong thời gian qua, đã hăng hái cung cấp rất nhiều tin, phản ánh nguyện vọng
có giá trị, giúp chính quyền lựa chọn mô hình, phương pháp, nội dung đổi mới để
thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về PBGDPL. Một thực tế cho thấy,
vùng dọc tuyến biên giới có nhiều phong tục, tập quán còn lạc hậu, những năm
trước đây nhận thức pháp luật còn hạn chế nên dẫn đến tình trạng tảo hôn, hôn
nhân cận huyết thống hay kết hôn nhưng không đăng ký, con sinh ra không được
đăng ký khai sinh kịp thời. Thông qua các hoạt động truyền thông pháp luật của
Ngành Tư pháp và Hội đồng Phối hợp PBGDPL các cấp đã tranh thủ tiếng nói họ
cùng tham gia với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương và lực lượng vũ
trang vào các hoạt động PBGDPL, nên được người dân đã xóa bỏ những phong tục, tập
quán lạc hậu trái thuần phong mỹ tục và chấp hành tốt chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước nên những tình trạng như trên không còn xảy
ra[8].
-
Bản thân già làng, trưởng bản, người có uy tín không những đi đầu trong công
tác vận động quần chúng nhân dân, còn thường xuyên phối hợp với tổ an ninh
nhân dân, tới từng nhà, gõ cửa từng hộ gia đình, từng hoàn cảnh gia đình để phổ
biến, truyền thông vận động ký cam kết phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, thực
hiện nếp sống văn hóa mới, bài trừ các hủ tục, tệ nạn xã hội,
tích cực sản xuất, xóa đói giảm nghèo; giúp các ngành chức năng vận động quần
chúng tham gia xây dựng nếp sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
-
Già làng, trưởng bản, người có uy tín khi tham gia cùng chính quyền PBGDP có điểm
thuận lợi hơn báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật khác là họ PBGDPL bằng
chính sự gương mẫu của gia đình, người thân, dòng họ để thôn bản, cộng đồng nơi
họ sinh sống noi gương và làm theo, đã tạo tiền đề “uy tín cộng đồng, chính trị”
trong PBGDPL, chính
điều này làm cho người dân tại cộng đồng tin, tìm hiểu, làm theo pháp luật đã
mang lại hiệu quả thiết thực.
4.
Gợi mở một số giải pháp tiếp tục đề cao vai trò Người mang “tinh thần pháp quyền”
ở khu vực biên giới - là già làng, trưởng thôn, người có uy tín tham gia công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở khu vực biên giới
Thứ
nhất,
địa phương cần tiếp tục cụ thể hoá triệt để tình thần pháp lý Điều 17 Luật PBGDPL năm 2012[9] vào điều kiện địa phương trình
cấp có thẩm quyền xây dựng ban hành về triển khai thực hiện nội dung về đề cao
vai trò của già làng, trưởng thôn, người có uy tín trong cộng đồng trong công
tác PBGDPL ở khu vực biên giới gắn với các Chương trình mục tiêu quốc gia phát
triển kinh tế - xã hội khu biên giới trên địa bàn.
Thứ
hai,
thường xuyên tập huấn về kỹ năng thực hiện PBGDPL cho già làng, trưởng thôn,
người có uy tín trong cộng đồng trong lĩnh vực pháp luật sát với nhu cầu từng địa
phương, từng thôn bản “tránh tập huấn những nội dung không thiết thực với
khu vực biên giới”.
Thứ
ba,
song song với đẩy mạnh toàn diện phát triển kinh tế - xã hội thì tiến hành xây
dựng mô hình điển hình tiên tiến trong việc “mời” Già làng, Trưởng thôn,
người có uy tín, tham gia công tác cùng tuyên truyên viên pháp luật tại địa
phương phù hợp với yêu cầu, điều kiện thực tế của địa phương để xây dựng mô
hình.
Thứ
tư, tổ
chức các hoạt động biểu dương, tôn vinh, khen thưởng “thực chất, không hình
thức” đối với già làng, trưởng thôn, người có uy tín, tham gia công tác PBGDPL,
tránh hình thức để tạo sự lan toả, uy tín cho lực lượng này có uy tín sâu hơn
trong lòng người dân khu vực biên giới. Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù quy định
về chế độ hỗ trợ đội ngũ già làng, trưởng thôn, người có uy tín trong cộng đồng
tham gia công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở khu vực biên giới khuyến khích
được đội ngũ này chủ động, tích cực nghiên cứu, nâng cao năng lực và vai trò
trách nhiệm của mình[10].
Thứ
năm,
ngân sách trung ương và ngân sách địa phương cần phân bổ thoả đáng thực hiện công
tác PBGDPL trong các Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó, dành nhiều nguồn lực ưu
tiên cho già làng, trưởng thôn, người có uy tín.
Thứ
sáu,
xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý tổng thể về vai trò của già làng, trưởng thôn, người
có uy tín trong cộng đồng tham gia công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở khu
vực biên giới để giúp cơ quan quản lý nhà nước, người dân và nhà nghiên cứu …
góp phần nâng cao chất lượng quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về
PBGDPL khu vực biên giới nói riêng./.
[1] Thủ tướng Chính phủ (2008), Chỉ thị số 06/2008/CT-TTg ngày 01/02/2008 của Thủ tướng Chính Phủ về việc phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hà Nội.
[2] Xem thêm: Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 18/2011/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, Hà Nội.
[3] Xem thêm: Điều 6 Luật Biên giới Quốc gia 2003, Điều 8 Nghị định 140/2004/NĐ-CP.
[4] Tác giả bài viết để dấu “.” nhấn mạnh thể hiện quan điểm tôn trọng già làng, trưởng thôn, người có uy tín trong cộng đồng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở khu vực biên giới.
[5] Xem thêm: Quốc hội (2019), Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, Hà Nội.
[6] Xem thêm: Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 về “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới”, Hà Nội.
[7] Xem thêm: Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí lựa chọn, công nhận người có uy tín và chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, Hà Nội.
[8] Ví dụ: Việc tranh thủ sự giúp đỡ của các già làng, trưởng bản, người có uy tín trong các đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình; Khánh Sơn và Khánh Vĩnh là hai huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Khánh Hòa,….
[9] Xem thêm: Điều 17 Luật PBGDPL năm 2012.
[10] Xem thêm: Thủ tướng Chính phủ (2021), Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14 tháng 10 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025; Hà Nội.
TS.
Trần Văn Duy – Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp
(PLPT) - Sáng nay, ngày 11/6/2025, tại trụ sở Bộ Tư pháp diễn ra Toạ đàm “Vai trò của tổ chức hành nghề Luật sư trong hỗ trợ pháp lý doanh nghiệp trên Cổng Pháp luật quốc gia”
Cho ý kiến về dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, các ĐBQH đề nghị, cần quy định cụ thể lãi suất 0% chỉ áp dụng cho tổ chức tín dụng thuộc diện kiểm soát đặc biệt, tái cơ cấu bắt buộc hoặc là có ảnh hưởng đến sự ổn địn
Các dự thảo Luật Quản lý và Đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp, một luật sửa 8 luật trong lĩnh vực kinh tế và tài chính được hoàn thiện thêm một bước, chuẩn bị trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ chín của Quốc hội.
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi cho rằng, không chỉ là xếp lương cho nhà giáo ở bậc cao nhất trong thang bậc, mà nên có chế độ gấp đôi, gấp ba để thật sự tuyển chọn được những người ưu tú nhất.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đề nghị dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số cần làm rõ cơ chế ưu đãi cho các ngành công nghiệp chiến lược như: công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, bảo đảm tính khả thi, kịp thời trong triển khai chính sách hỗ trợ.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện số 83/CĐ-TTg ngày 7/6/2025 yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; phân định thẩm quyền trong các ngành, lĩnh vực.
Sáng ngày 6/6, tại trụ sở Báo Pháp luật Việt Nam, Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác chiến lược giữa Báo Pháp luật Việt Nam và Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) đã diễn ra trong không khí trang trọng và đầy kỳ vọng. Sự kiện đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác giữa hai đơn vị nhằm nâng cao nhận thức pháp lý, hỗ trợ doanh nghiệp và góp phần xây dựng thể chế pháp luật vững mạnh.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình làm việc với lãnh đạo TP. Hà Nội về giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo dài tại Hà Nội.