Tóm tắt:
Trong các nghị quyết của Đảng đã nhấn mạnh: “Công tác xây dựng và thi hành pháp luật là “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế phát triển đất
nước trong kỷ nguyên mới; là một nhiệm vụ trọng tâm của tiến trình xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân
dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng”[1]. Để nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật, xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, đồng thời để "Không
để ai bị bỏ lại phía sau" Nhà nước ta đã ban hành Luật Trợ giúp pháp lý và
các văn bản có liên quan nhằm bảo đảm cho mọi người dân, nhất là những người
yếu thế, người nghèo, người dân tộc thiểu số… đều có cơ hội, khả năng tiếp cận công lý và
bình đẳng trước pháp luật trong bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Để nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, cũng như nâng cao hiệu quả công tác
trợ giúp pháp lý cần có sự đánh giá về hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý. Bài
viết phân tích làm rõ về mặt lý luận các tiêu chí đánh giá chất lượng của công
tác trợ giúp pháp lý ở Việt Nam nhằm cung cấp cơ sở khoa học nâng cao chất
lượng của công tác này, góp phần thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng,
đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, giải quyết các vấn đề xã hội,
thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Từ
khóa: Công tác trợ giúp pháp lý, hiệu
quả, tiêu chí đánh giá.
1. Hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý có
nghĩa là giúp đỡ, hỗ trợ để làm giảm khó khăn cho những đối tượng đang cần sự
giúp đỡ về pháp luật, các hoạt động pháp luật vì lợi ích của đối tượng nói
riêng, của Nhà nước và xã hội nói chung, trong xã hội pháp quyền, văn minh. Ở
Việt Nam trợ giúp pháp lý là
“việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong
vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý, góp phần bảo
đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước
pháp luật”[2].
Như vậy, công tác trợ giúp pháp lý ở Việt Nam được hiểu là trách nhiệm của Nhà nước, được
thực hiện phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước thông qua các hoạt động quản
lý của mình, huy động các nguồn lực xã hội, cùng với Nhà nước cung cấp các dịch
vụ pháp lý miễn phí cho những người thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý, nhằm tạo
cho họ có được những điều kiện tương tự như những người khác trong việc tiếp
cận các dịch vụ pháp lý, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bảo đảm
công bằng xã hội. Công tác trợ giúp pháp lý một mặt là sự giúp đỡ thông thường
đối với những người đang gặp khó khăn về pháp luật, mặt khác, còn có ý nghĩa là
một trong những biện pháp bảo đảm tư pháp đối với quyền con người cho những
người không có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ pháp lý để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của
Đảng đã nhấn mạnh “Tiếp tục thực hiện tốt
chính sách an sinh xã hội, nhất là cho những người yếu thế, người nghèo. Đổi
mới cách tiếp cận, tăng cường phối hợp, lồng ghép, ưu tiên nguồn lực, đẩy mạnh
xã hội hóa trong lĩnh vực trợ giúp xã hội. Phát triển và đa dạng hóa các dịch
vụ trợ giúp xã hội chuyên nghiệp”[3].
Hiệu quả về mặt thuật ngữ được hiểu là:
"kết quả đích thực; kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại; tạo ra kết
quả mong muốn hoặc có chủ định; là kết quả đạt được trong việc thực hiện một
nhiệm vụ nhất định"[4]… Với
những cách tiếp cận về hiệu quả như trên có thể xác định hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý là đại lượng so sánh
được xác định ở sự tương quan giữa mục đích (kết quả mong muốn, yêu cầu đạt
được) với kết quả thực tế (đích thực) đạt được của công tác trợ giúp pháp lý,
có tính đến những chi phí (về nguồn lực con người, thời gian, tài chính, công
sức…) để đạt được kết quả thực tế đó. Với cách tiếp cận như vậy cho thấy công
tác trợ giúp pháp lý được xem là có hiệu quả khi: Những kết quả đích thực đạt được
trong thực tế do công tác trợ giúp pháp lý mang lại phù hợp với những mục đích
(kết quả mong muốn, yêu cầu đạt được) khi tiến hành công tác trợ giúp pháp lý
(hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý cao hay thấp là phụ thuộc vào mức độ
phù hợp và tương quan giữa hai kết quả nói trên); những chi phí về vật chất và
tinh thần cho việc đạt được kết quả thực tế của công tác trợ giúp pháp lý ở mức
thấp, chấp nhận được (nếu những chi phí để đạt được kết quả trên thực tế quá
cao thì hiệu quả không cao). Nói cách khác, hiệu quả của công tác trợ giúp pháp
lý thể hiện ở giá trị của công tác trợ giúp pháp lý đối với những người được
trợ giúp và giá trị đó làm hài lòng, thỏa mãn được nhu cầu của người được trợ
giúp pháp lý với chi phí thấp. Nếu công tác trợ giúp pháp lý không thỏa mãn
được nhu cầu, không làm cho đối tượng được trợ giúp hài lòng thì không thể coi
là có hiệu quả, cho dù nó được thực hiện rất kỳ công, tốn kém. Do vậy, hiệu quả
của công tác trợ giúp pháp lý được
hiểu là tổng thể các thuộc tính, giá trị nhất định mà công tác trợ giúp pháp lý
đạt được với những kết quả tích cực, đích thực như nhanh chóng, kịp thời, ít
tốn kém, tinh thần thái độ làm việc tận tình, chân thành… làm cho người được
trợ giúp pháp lý hài lòng, thỏa mãn được nhu cầu vì có được sự nhận thức và các
điều kiện pháp lý cần thiết để tự mình hoặc thông qua người thực hiện trợ giúp
đã giải quyết được sự việc pháp lý của mình một cách tối ưu nhất (về thời gian,
về lợi ích đạt được, về những rủi ro đã tránh được…) trên cơ sở pháp luật. Nhu
cầu trợ giúp pháp lý luôn biến động phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nên hiệu quả
của công tác trợ giúp pháp lý cũng luôn biến động theo thời gian, không gian và
điều kiện sử dụng thực hiện trợ giúp pháp lý.
2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý
Để có thể đưa ra được những giải pháp hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý thì cần phải đánh giá thực trạng hiệu
quả của công tác trợ giúp pháp lý. Sự đánh giá cần phải dựa trên một hoặc nhiều
những dấu hiệu, tiêu chuẩn nhất định và chúng được gọi là tiêu chí đánh giá.
Tiêu chí đánh giá hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý có thể gồm: Tiêu chí định tính (những dấu hiệu, mức
độ, biểu hiện không thể đo đếm được bằng số lượng, không thể so sánh được về
mặt số học giữa trước và sau khi tiến hành hoạt động trợ giúp pháp lý); Tiêu chí định lượng (những chỉ số đầu
vào và đầu ra của hoạt động trợ giúp pháp lý có thể tính toán được bằng số
lượng cụ thể để so sánh về mặt số học giữa trước và sau khi tiến hành hoạt động
trợ giúp; được dùng để lượng hóa hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý). Mỗi tiêu
chí được xem là một căn cứ để xác định hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý ở một
phương diện nhất định liên quan đến chất lượng, vì vậy, để đánh giá đúng, đầy
đủ hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý cần phải có đủ các tiêu chí cần thiết.
Giữa các tiêu chí luôn tồn tại trong những mối quan hệ xác định, chúng có thể
là tiền đề của nhau, ràng buộc lẫn nhau hoặc bổ sung cho nhau, nếu thiếu đi bất
kỳ một tiêu chí nào thì sự đánh giá có thể sẽ không toàn diện, đầy đủ.
Việc xác định các tiêu chí khác nhau khi đánh giá hiệu quả
công tác trợ giúp pháp lý khác nhau thì sẽ có kết quả đánh giá khác nhau. Các
tiêu chí được xác định ở đây là xuất phát từ quan niệm về hiệu quả của công tác
trợ giúp pháp lý đã được trình bày ở phần trên bao hàm tất cả những yếu tố phản
ánh số lượng, năng lực, phẩm chất của chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý, khả
năng và kết quả mà người được trợ giúp nhận được và sử dụng vào giải quyết sự
việc pháp luật liên quan đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của mình với chi phí thấp
nhất có thể. Do vậy, tiêu chí đánh giá hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý
vừa thể hiện trong bản thân mỗi chủ thể làm công tác trợ giúp pháp lý vừa thể
hiện ở kết quả thực tế đích thực mang lại cho người được trợ giúp pháp lý nói
riêng, cho xã hội nói chung. Đối với bản thân chủ thể làm công tác trợ giúp
pháp lý thì đó là số lượng người tham gia (người tổ chức và người trực tiếp trợ
giúp); chất lượng (năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức, tinh thần trách
nhiệm) của đội ngũ những người tham gia của cả người tổ chức và người trực tiếp
thực hiện trợ giúp đó; những gì họ đã làm được, mục đích, yêu cầu đối với những
hoạt động đó. Còn kết quả đối với người được trợ giúp là họ có được những điều
kiện tương tự như những người khác trong việc tiếp cận các dịch vụ pháp lý, để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hay không, có bảo đảm được công bằng
xã hội đối với họ hay không, thái độ tình cảm của họ đối với pháp luật, đối với
chính sách của Đảng và Nhà nước… Ngoài ra khi nói đến hiệu quả của công tác trợ
giúp pháp lý không thể không nói đến những chi phí của Nhà nước, các chủ thể
khác cho việc đạt được các kết quả trợ giúp. Những vấn đề trên vừa thể hiện khả
năng làm việc của đội ngũ những người làm công tác trợ giúp pháp lý, vừa thể hiện
kết quả và chất lượng làm việc của họ trong quá trình thực hiện công tác trợ
giúp pháp lý. Từ những phân tích trên chúng tôi cho rằng, để có thể đánh giá
được hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay cần xác định
các tiêu chí cơ bản sau:
2.1. Tiêu chí về tính hợp pháp của hoạt động trợ giúp pháp lý
Để có hiệu quả thì trước hết công tác trợ giúp pháp lý phải
hợp pháp. Tiêu chí này thể hiện ở chỗ:
- Thứ nhất, hoạt động trợ giúp pháp lý do các chủ thể có
thẩm quyền thực hiện và người được trợ giúp pháp lý được pháp luật quy định
(theo Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi
hành).
-
Thứ hai, hoạt động trợ giúp pháp lý phải tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý
từ quy trình tiếp nhận yêu cầu trợ giúp, xử lý yêu cầu, phân công chủ thể cung
cấp dịch vụ trợ giúp; quyền và nghĩa vụ của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý
và của người được trợ giúp được thực hiện đúng theo luật; không thu tiền, lợi ích vật chất
hoặc lợi ích khác từ người được trợ giúp pháp lý; bảo vệ tốt nhất quyền, lợi
ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý; bảo mật được thông tin của
người được trợ giúp…
- Thứ ba, cơ quan và người thực
hiện trợ giúp pháp lý phải tuân thủ nghiêm những hành vi bị cấm trong hoạt động
trợ giúp pháp lý, cụ thể là họ không được: a) Xâm phạm danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp
của người được trợ giúp pháp lý; phân biệt đối xử người được trợ giúp pháp lý;
b) Nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác từ
người được trợ giúp pháp lý; sách nhiễu người được trợ giúp pháp lý; c) Tiết lộ
thông tin về vụ việc trợ giúp pháp lý, về người được trợ giúp pháp lý, trừ
trường hợp người được trợ giúp pháp lý đồng ý bằng văn bản hoặc luật có quy
định khác; d) Từ chối hoặc không tiếp tục thực hiện trợ giúp pháp lý, trừ
trường hợp quy định tại Luật này và quy định của pháp luật về tố tụng; đ) Lợi
dụng hoạt động trợ giúp pháp lý để trục lợi, xâm phạm quốc phòng, an ninh quốc
gia, gây mất trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng xấu đến đạo đức xã hội; e) Xúi
giục, kích động người được trợ giúp pháp lý cung cấp thông tin, tài liệu sai sự
thật, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện trái pháp luật[5].
- Thứ tư, người được trợ giúp pháp lý, cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động trợ giúp pháp lý không được
có hành vi như: a) Xâm phạm sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của
người thực hiện trợ giúp pháp lý và uy tín của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp
lý; b) Cố tình cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật về vụ việc trợ giúp
pháp lý; c) Đe dọa, cản trở, can thiệp trái pháp luật vào hoạt động trợ giúp
pháp lý; gây rối, làm mất trật
tự, vi phạm nghiêm trọng nội quy nơi thực hiện trợ giúp pháp lý[6]...
Sở dĩ phải chú ý đến
tiêu chí này trước tiên vì nguồn
tài chính cho công tác trợ giúp pháp lý bao gồm nguồn
ngân sách nhà nước; đóng góp, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài
nước và các nguồn hợp pháp khác. Còn Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm
Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý (bao
gồm tổ chức ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý và tổ chức đăng ký tham gia
trợ giúp pháp lý, do Bộ Tư pháp và Sở tư pháp các địa phương quản lý).
2.2. Tiêu chí về chất lượng của cơ quan, tổ chức và người thực hiện trợ giúp pháp lý; nội dung chuyên môn các hoạt động trợ giúp pháp lý
Xác định chất lượng của cơ quan, tổ chức và chất lượng của
những người thực hiện trợ giúp pháp lý là để đánh giá khả năng đảm nhiệm các
công việc trợ giúp pháp lý của họ cũng như khả năng đạt được kết quả mong muốn
(mục đích, yêu cầu) được đề ra cho công tác trợ giúp pháp lý trong những điều
kiện nhất định. Điều này đòi hỏi:
- Thứ nhất, cơ quan,
tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và đội ngũ những người thực hiện trợ giúp
pháp lý phải được tổ chức khoa học. Tính khoa học trong tổ chức bộ máy của
cơ quan, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý là việc chúng được Nhà nước cho
phép và xúc tiến thành lập cơ quan, bộ phận chuyên trách, chịu trách nhiệm về
công tác trợ giúp pháp lý bảo đảm sự khoa học và phù hợp với tình hình thực
tiễn của địa phương. Nếu nhu cầu hoạt động trợ giúp pháp lý nhiều, phức tạp,
đội ngũ những người làm công tác trợ giúp pháp lý được tổ chức như một bộ phận
chuyên trách trong cơ quan, tổ chức thì chất lượng sẽ khác, còn nếu họ chỉ là
những cán bộ riêng biệt làm công tác trợ giúp pháp lý hay phải kiêm nhiệm những
công tác khác… thì hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý sẽ khác. Nếu các bộ phận
này (Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; Tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý như
liên đoàn luật sư, đoàn luật sư, văn phòng tư vấn pháp luật…) được tổ chức chặt
chẽ, khoa học với đầy đủ các điều kiện về pháp lý, về cơ sở vật chất để có thể
tiến hành các hoạt động trợ giúp pháp lý thì công tác trợ giúp pháp lý sẽ đạt
hiệu quả cao, ngược lại có thể sẽ không cao, không được như mục đích mong muốn
trên thực tế. Đây cũng là biểu hiện của lượng biến thành chất trong tổ chức bộ
máy của cơ quan, tổ chức thực hiện công tác trợ giúp pháp lý.
-
Thứ hai, chất lượng của đội ngũ những người thực hiện trợ giúp pháp lý ở cả năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức, tinh thần
trách nhiệm với công việc và phương pháp làm việc của họ khi thực hiện trợ giúp
pháp lý. Cụ thể:
+ Năng lực chuyên môn
của những người thực hiện trợ giúp pháp
lý (Trợ giúp viên pháp lý; Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý; Tư vấn viên
pháp luật; Cộng tác viên trợ giúp pháp lý...) biểu hiện ở khả năng hoàn thành
các công việc của họ đối với công tác trợ giúp pháp lý. Khả năng đó thể hiện ở
kiến thức pháp luật, kỹ năng trợ giúp pháp lý, kinh nghiệm tổ chức các hoạt
động trợ giúp pháp lý, tham gia trực tiếp các hoạt động trợ giúp như tư vấn,
tuyên truyền, phổ biến pháp luật, tham gia tố tụng, làm đại diện ngoài tố tụng,
tiến hành hoạt động hòa giải, thực hiện các công việc trợ giúp pháp lý khác…
Những năng lực, kỹ năng, kinh nghiệm đó có được do họ được đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ, được rèn luyện, tích lũy trong quá trình công
tác, nhất là công tác trợ giúp pháp lý. Người thực hiện trợ giúp pháp lý có
năng lực chuyên môn, có kỹ năng trợ giúp pháp lý tốt thì điều kiện để hoàn
thành các công việc được giao sẽ dễ dàng hơn.
+ Phẩm chất đạo đức,
tinh thần trách nhiệm của người làm công tác trợ giúp pháp lý thể hiện ở
đạo đức thương người, vì người, vì những đối tượng được trợ giúp pháp lý của
họ; ở ý thức trách nhiệm của họ đối với công việc, ở tinh thần phục vụ của họ
đối với đối tượng được trợ giúp pháp lý, những người nghèo, đối tượng chính
sách, người dân tộc, người yếu thế trong xã hội; ở sự lắng nghe, thông cảm,
chia sẻ những khó khăn, ý kiến của người dân, đối tượng được trợ giúp pháp lý.
Người trực tiếp trợ giúp pháp lý phải đáp ứng các
tiêu chuẩn cơ bản như: Đáp ứng chuẩn theo vị trí việc làm trợ giúp pháp lý; có
phẩm chất, tư tưởng, đạo đức tốt; luôn trau dồi kỹ năng, cập nhật, nâng cao
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; bảo đảm sức khỏe theo yêu cầu của hoạt động trợ
giúp pháp lý... Bởi, người trợ giúp phải thực hiện những nhiệm vụ cơ bản như:
tư vấn, cung cấp thông tin pháp luật cần thiết theo mục tiêu trợ giúp; thực
hiện đầy đủ và có chất lượng hoạt động trợ giúp khi tham gia tố tụng; gương mẫu
thực hiện nghĩa vụ công dân, điều lệ nghề nghiệp, quy tắc ứng xử của người trợ
giúp; giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của người làm nghề luật; tôn trọng,
đối xử công bằng với người được trợ giúp; bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng
của người được trợ giúp; không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất
đạo đức, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp trợ
giúp…
Người làm công tác trợ giúp pháp lý phải là người có đầy đủ
những phẩm chất đạo đức như bao người khác, phải luôn trung thành với Tổ quốc
Việt Nam, luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết. Không nói và làm
trái đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy định, điều lệ, kỷ luật,
quy tắc đạo đức nghề nghiệp của tổ chức mà mình đang là thành viên... Người làm
công tác trợ giúp pháp lý phải là người có bản lĩnh nghề nghiệp, có sự kiên
định, sự quyết đoán, khả năng hướng tới cái đúng, cái công bằng và hoàn thiện.
Người làm công tác trợ giúp pháp lý phải là người có tinh thần trách nhiệm cao
trong hoạt động trợ giúp. Đấu tranh không khoan nhượng với cái sai trái vì sự
công bằng, công lý với lòng vị tha rộng mở. Người làm công tác trợ giúp pháp lý
phải tận tụy với công việc, luôn chu đáo và hết sức cẩn trọng trong các hành vi
pháp luật của mình. Người làm công tác trợ giúp pháp lý phải dũng cảm, phải
kiên trì và biết chịu đựng, luôn tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện để những
người được trợ giúp phát triển vì hạnh phúc của họ và hạnh phúc của mọi người.
Có thể nói, bảo vệ công lý, bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ chế độ, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, xã hội, bảo vệ tính mạng, danh dự, lợi ích của tổ chức và cá nhân,
nhất là của những người yếu thế trong xã hội... là trách nhiệm của những người
làm nghề luật.[7]
Phương pháp làm việc của cán bộ trợ giúp pháp lý cũng ít nhiều ảnh hưởng tới hiệu quả
thực hiện trợ giúp pháp lý của họ. Nếu người làm công tác trợ giúp pháp lý có
phương pháp đúng, khoa học sẽ biết tổ chức, phân định, sắp xếp công việc trợ
giúp pháp lý một cách khoa học, giảm bớt các hoạt động thừa, không cần thiết,
tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc cho cả Nhà nước và đối tượng được
trợ giúp pháp lý. Phương pháp làm việc khoa học người làm công tác trợ giúp
pháp lý còn thể hiện ở trình độ và khả năng biết sử dụng các thành tựu khoa học
công nghệ vào công tác trợ giúp pháp lý làm cho công việc được triển khai nhanh,
thuận lợi, đỡ tốn kém.
- Thứ ba, sự chính xác, đúng pháp luật và đầy đủ của các thông tin, các
hoạt động cần thiết mà chủ thể thực hiện trợ giúp cung cấp cho người được trợ
giúp pháp lý. Các cơ quan, tổ chức và người thực hiện trợ giúp pháp lý cung
cấp đầy đủ, chính xác, rõ ràng, đúng pháp luật các thông tin pháp luật, ý kiến tư vấn, bào chữa có giá trị, thiết
thực đối với người được trợ giúp pháp lý để có điều kiện tự mình hoặc thông qua
người thực hiện trợ giúp pháp lý bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Hiệu quả hoạt động trợ
giúp pháp lý còn thể hiện ở sự nhanh chóng, kịp thời, nhất là đối với các vụ
việc khẩn cấp. Chẳng hạn, luật sư bào chữa tham gia ngay từ giai đoạn điều tra
vụ án hình sự…
2.3. Tiêu chí về kết quả thực tế, đích thực đạt được của công tác trợ giúp pháp lý
Bất kỳ hoạt động nào, trong đó có hoạt động trợ giúp pháp lý
thì cũng phải nhằm đạt được những mục đích (kết quả) nhất định. Những kết quả
mà hoạt động trợ giúp pháp lý hướng tới để đạt được rất đa dạng, dưới đây là
một số kết quả quan trọng cần khảo sát khi đánh giá hiệu quả của công tác trợ
giúp pháp lý:
- Một là, số lượng, tỷ
lệ những người thuộc diện được TGPL đã tiếp cận được dịch vụ và được trợ giúp
trên thực tế. Theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý Việt Nam thì đối
tượng được trợ giúp pháp lý rất đa dạng như người có
công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, trẻ em, người dân tộc thiểu
số cư trú ở vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người bị buộc tội từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi, người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo và một số đối tượng có
khó khăn về tài chính[8]...
về định lượng cần xem xét, thống kê xem có bao nhiêu người đã được trợ giúp
trên thực tế, chiếm bao nhiêu % trong tỷ lệ những người thuộc diện được trợ
giúp. Nếu tỷ lệ cao thì hoạt động trợ giúp được xem là có hiệu quả cao, ngược
lại, nếu tỷ lệ thấp thì hiệu quả thấp.
- Hai là, số lượng, tỷ lệ những người được trợ giúp pháp lý hài lòng, đạt
được kết quả mong muốn. Như trên đã khẳng định nếu công tác trợ giúp pháp
lý không thỏa mãn được nhu cầu, không làm cho đối tượng được trợ giúp hài lòng,
đạt được kết quả mong muốn thì không thể coi là có hiệu quả, cho dù nó được
thực hiện rất kỳ công, tốn kém, nói cách khác là mục đích đích thực của hoạt
động trợ giúp pháp lý chưa đạt được hoặc đạt được những không nhiều. Tuy vậy,
việc xác định được số lượng, tỷ lệ những người được trợ giúp pháp lý hài lòng
và đạt được kết quả mong muốn là rất khó khăn. Nó đòi hỏi phải tiến hành điều
tra, khảo sát với quy mô lớn trên thực tiễn thì mới có số liệu để đánh giá hiệu
quả của hoạt động trợ giúp pháp lý ở phương diện này.
- Ba là, những tác
động về mặt xã hội của công tác trợ giúp pháp lý. Điều này thể hiện ở việc
công tác trợ giúp pháp lý có làm giảm thiểu tình trạng khiếu kiện kéo dài, tràn
lan trong xã hội hay không; có làm giảm bớt những vụ việc oan sai trong áp dụng
pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền giải quyết vụ việc, nhất là án hình sự;
có giảm được tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận công lý, có hỗ trợ được
cho những người cần trợ giúp pháp lý, nhất là những người yếu thế hòa nhập được
với cộng đồng hay không… Kết quả thực tế
đạt được của hoạt động trợ giúp pháp lý còn thể hiện ở cả mức độ củng cố, tạo
sự tin tưởng của người dân vào pháp luật, công lý, vào chính sách của Đảng, vào
những người đại diện nhà nước trong giải quyết tranh chấp…
Kết quả thực tế đạt được do công tác trợ giúp pháp lý mang
lại có thể thay đổi theo lĩnh vực và theo thời gian, không gian, nghĩa là ở
những lĩnh vực, những khoảng thời gian, những phạm vi không gian khác nhau thì
kết quả công tác trợ giúp pháp lý có thể khác nhau. Do vậy, kết quả thực tế đạt
được do công tác trợ giúp pháp lý mang lại có thể đạt kết quả cao ở lĩnh vực
này nhưng có thể lại đạt kết quả thấp ở lĩnh vực khác, cao ở thời gian này
nhưng có thể ở thời gian khác, ở địa phương này có thể khác so với địa phương
khác.
Những kết quả đạt được do công tác trợ giúp pháp lý mang lại
cần được xem xét trong tương quan với mục đích, yêu cầu mà Nhà nước đặt ra đối
với công tác trợ giúp pháp lý. Kết quả đạt được biểu hiện cụ thể ở số lượng và
chất lượng của: Nội dung các tham mưu, tư vấn về pháp luật của người thực hiện
trợ giúp pháp lý đối với người được trợ giúp pháp lý; các điều kiện pháp lý mà
người được trợ giúp có được; số lượng và chất lượng của hoạt động tham gia tố
tụng của chủ thể thực hiện trợ giúp pháp lý (như bào chữa cho người được trợ
giúp là bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người được trợ giúp là bị hại, là
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
hình sự; tham gia tố tụng dân sự, tố tụng hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích
của người được trợ giúp trong các vụ việc đó); số vụ việc mà người thực hiện
trợ giúp với tư cách là người đại diện khi người được trợ giúp pháp lý không
thể tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và trong phạm vi yêu cầu của
người được trợ giúp pháp lý; số vụ việc mà người thực hiện trợ giúp tham gia
hòa giải, thực hiện các công việc liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại
và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật; các quyền, nghĩa vụ pháp lý
của Nhà nước, của người được trợ giúp pháp lý được bảo vệ, được thực hiện theo
đúng pháp luật; tính đúng đắn, chính xác, nghiêm minh, kịp thời, khách quan,
chặt chẽ trong thực hiện pháp luật; mức độ công bằng, bình đẳng xã hội đạt được
do công tác trợ giúp pháp lý mang lại; sự hài lòng, thái độ, tình cảm của người
được trợ giúp pháp lý đối với hoạt động trợ giúp pháp lý, đối với pháp luật,
đối với chính sách của Đảng và Nhà nước…
Mục đích của công tác trợ giúp pháp lý là cung cấp dịch vụ
pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật,
giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật,
bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi
phạm pháp luật… Mục đích được đề ra cho công tác trợ giúp pháp lý có thể trước
mắt, ngắn hạn, dài hạn, tầm xa, tầm gần, cho Nhà nước, cho chủ thể thực hiện
trợ giúp pháp lý, cho người được trợ giúp pháp lý, cho xã hội... Mục đích chung
của công tác trợ giúp pháp lý quy định mục tiêu cụ thể của từng hoạt động trợ
giúp pháp lý từng giai đoạn phát triển của đất nước. Ở mỗi giai đoạn phát triển
của đất nước, mục đích đặt ra cho bộ phận của công tác trợ giúp pháp lý có thể
có sự thay đổi ít nhiều, nhất là những đòi hỏi về hiệu quả của công tác trợ
giúp pháp lý. Trong hầu hết các trường hợp mục đích mà Nhà nước đề ra cho công
tác trợ giúp pháp lý chủ yếu được định tính mà ít có sự định lượng. Khi đặt ra
mục đích cho công trợ giúp pháp lý, Nhà nước luôn phải chú ý đến khả năng thực
hiện được trên thực tế. Nếu đặt ra mục đích quá cao thì khó có thể đạt được,
ngược lại, nếu mục đích đề ra cho công tác trợ giúp pháp lý quá thấp, thì mục
đích cuối cùng là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh sẽ chậm
được thực hiện và trong xã hội vẫn sẽ còn một bộ phận tụt lại phía sau.
Khi xác định mục đích của công tác trợ giúp pháp lý còn phải
xác định cả những yêu cầu đối với công tác trợ giúp pháp lý thì việc đánh giá
chất lượng của công tác trợ giúp pháp lý mới chính xác, đầy đủ. Yêu cầu của
công tác trợ giúp pháp lý chính là mức độ cần phải đạt được khi thực hiện trợ
giúp pháp lý về thời gian, về số lượng công việc, về chất lượng, về số lượng
những người được trợ giúp pháp lý... Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp mức độ
cần đạt được khi trợ giúp pháp lý cũng chính là mục đích cụ thể nên trong những
trường hợp đó khó phân biệt được mục đích với yêu cầu. Việc xác định yêu cầu
khi trợ giúp pháp lý là cần thiết khi mà mục đích đề ra cho công tác trợ giúp
pháp lý chỉ có tính chất định tính.
2.4. Tiêu chí về những chi phí để đạt được kết quả thực tế đích thực của công tác trợ giúp pháp lý
Để đánh giá đúng, đầy đủ hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý
thì còn phải xem xét, đánh giá cả những chi phí cho việc đạt được các kết quả
thực tế, đích thực mà công tác trợ giúp pháp lý mang lại. Xem xét yếu tố chi
phí là xem xét, đánh giá sự tương quan giữa lợi ích thu được từ công tác trợ
giúp pháp lý với những chi phí thực tế đã bỏ ra khi tiến hành công tác trợ giúp
pháp lý để đạt được những lợi ích đó. Hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý
một mặt được thể hiện ở việc đạt được những mục đích (kết quả) đặt ra cho công
tác trợ giúp pháp lý, mặt khác phải tính đến những chi phí để đạt được những
kết quả đó.
Đó là những chi phí về vật chất, tinh thần, về số lượng
người tham gia, thời gian tiến hành và những chi phí khác có liên quan tới
những hoạt động công tác trợ giúp pháp lý ở tất cả các giai đoạn của quá trình
thực hiện trợ giúp pháp lý. Chi phí đó thường bao gồm những khoản chi cho các
hoạt động cơ bản sau:
- Một là, số lượng
người tham gia thực hiện trợ giúp, sự tương quan giữa số lượng người làm
công tác trợ giúp pháp lý với số lượng công việc trợ giúp pháp lý mà họ phải
thực hiện. Đây là một trong những
tiêu chí thể hiện khả năng làm việc của những người làm công tác trợ giúp pháp
lý so với số lượng công việc mà họ phải đảm nhận khi thực hiện trợ giúp pháp
lý. Nếu số lượng những người làm công tác trợ giúp pháp lý vừa đủ để hoàn thành
những công việc cần thiết của công tác trợ giúp pháp lý thì khả năng các hoạt
động trợ giúp của họ sẽ có hiệu quả, nếu nhiều quá thì họ không làm việc hết
năng lực, lãng phí nguồn nhân lực, nếu ít quá thì họ không thể thực hiện hết
công việc hoặc thực hiện nhưng hiệu quả không cao. Do vậy, điều kiện để công
tác trợ giúp pháp lý có hiệu quả là số người tham gia công tác trợ giúp pháp lý
được bố trí vừa đủ (không thừa, không thiếu) để có thể hoàn thành được các hoạt
động trợ giúp.
- Hai là, số của cải
vật chất, tài chính, công sức, thời gian phải sử dụng để tiến hành trợ giúp
pháp lý. Khi tiến hành công tác trợ giúp pháp lý luôn phải dự tính đến
những chi phí về vật chất, thời gian, công sức và những ảnh hưởng khác có thể
có đối với việc tiến hành công tác trợ giúp pháp lý đó sao cho những chi phí đó
có thể chấp nhận được, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước
trong hiện tại. Phải quán triệt nguyên tắc là việc tiến hành các hoạt động trợ
giúp pháp lý phải mang lại những lợi ích lớn hơn, lâu dài hơn so với những chi
phí, tổn thất trước mắt và tạm thời thì mới nên tiến hành.
Chi phí cho công tác trợ giúp pháp lý có thể bao gồm chi phí
cho hoạt động xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý; hoạt
động kiểm tra, thanh tra, giám sát, theo dõi việc thực hiện trợ giúp pháp lý;
việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật khi
tiến hành công tác trợ giúp pháp lý (nếu có); chi phí về thời gian, công sức
của những người thực hiện trợ giúp pháp lý… Tất cả những chi phí cho quá trình
đạt được mục đích của công tác trợ giúp pháp lý đề ra đều cần ở mức thấp nhưng
phải bảo đảm cho công tác trợ giúp pháp lý phát huy tác dụng ở mức cao nhất,
kết quả thực tế thu được phải lớn nhất. Những chi phí cho công tác trợ giúp
pháp lý có thể là của Nhà nước, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, chủ thể tham
gia công tác trợ giúp pháp lý và cũng có thể là của những người được trợ giúp
pháp lý.
Như vậy, việc xem xét mức chi phí để đạt được các kết quả
của công tác trợ giúp pháp lý trong thực tế khi đánh giá hiệu quả của công tác
trợ giúp pháp lý là rất cần thiết: Một
mặt, nó cho thấy việc đầu tư, chi phí đó có phù hợp và đủ mức cần thiết bảo
đảm cho công tác trợ giúp pháp lý có kết quả cao hay chưa; mặt khác, nó cũng cho thấy chi phí như vậy cho công tác trợ giúp
pháp lý có lãng phí hay không. Tuy nhiên, vấn đề trên chỉ thể hiện tính hữu
ích, tính kinh tế trong công tác trợ giúp pháp lý chứ chưa thể hiện đầy đủ hiệu
quả của công tác trợ giúp pháp lý và nếu quan niệm như vậy thì sẽ khó có thể
đánh giá được hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý trong những trường hợp
không hạch toán được chính xác, đầy đủ, cụ thể những chi phí cho công tác trợ
giúp pháp lý hoặc không thể đánh giá được hết những kết quả, giá trị mà công
tác trợ giúp pháp lý mang lại cho người được trợ giúp cũng như cho Nhà nước và
xã hội.
Tóm
lại, hiệu quả của công tác trợ giúp pháp
lý là vấn đề phức tạp, rất khó đánh giá, nhưng rất quan trọng. Để đánh giá được
hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý cần dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau với
các phạm vi khác nhau. Các tiêu chí đó luôn có liên hệ mật thiết với nhau, tùy
theo yêu cầu đánh giá đối với từng hoạt động trợ giúp pháp lý mà sử dụng chúng
sao cho hợp lý, phù hợp với mục đích của chủ thể đánh giá.
2.5. Phạm vi đánh giá hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý
Cần đánh giá hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý trong
những phạm vi xác định sau:
- Về không gian,
nên giới hạn việc đánh giá ở từng phạm vi lãnh thổ nhất định, bởi ở các phạm vi
lãnh thổ khác nhau thì hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý có thể sẽ khác
nhau.
- Về thời gian,
nên đánh giá hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý ở những khoảng thời gian
xác định như một năm, mười năm,… thì việc đánh giá sẽ chính xác hơn. Bởi lẽ, ở
mỗi khoảng thời gian khác nhau thì công tác trợ giúp pháp lý có thể có những
thay đổi về tổ chức bộ máy, số lượng và chất lượng của đội ngũ những người làm
công tác trợ giúp pháp lý; về nhu cầu của người được trợ giúp pháp lý; về mục
đích, yêu cầu đề ra cho công tác trợ giúp pháp lý; về kết quả thực tế đạt được
của công tác trợ giúp pháp lý; về các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội,
pháp lý,… của xã hội… Tất cả những thay đổi đó đều có thể ảnh hưởng đến hiệu
quả của công tác trợ giúp pháp lý.
- Về lĩnh vực trợ giúp,
việc đánh giá hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý có thể được thực hiện đối
với một hoặc nhiều lĩnh vực (lĩnh vực pháp luật được trợ giúp pháp lý như hình
sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự; dân sự, tố tụng dân sự và thi hành án
dân sự; hôn nhân gia đình và pháp luật về trẻ em; hành chính, khiếu nại, tố cáo
và tố tụng hành chính; đất đai, nhà ở, môi trường và bảo vệ người tiêu dùng;
lao động, việc làm, bảo hiểm; ưu đãi người có công với cách mạng và về chính
sách ưu đãi xã hội khác; các lĩnh vực pháp luật về xóa đói, giảm nghèo hoặc
liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,...).
- Về số lượng và chủ
thể trợ giúp, có thể đánh giá hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý đối
với tất cả các vụ việc trợ giúp pháp lý nói chung hoặc chỉ xem xét hiệu quả trợ
giúp pháp lý đối với một sự việc trợ giúp cụ thể. Có thể xem xét hiệu quả của
công tác trợ giúp pháp lý một cách tổng thể hoặc theo từng chủ thể thực hiện.
Chẳng hạn, công tác trợ giúp pháp lý do Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước
tiến hành; do Tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý thực hiện (Đoàn luật sư… Cũng
có thể xem xét hiệu quả của trợ giúp pháp lý của những người thực hiện trợ giúp
pháp lý bao gồm: Trợ giúp viên pháp lý; Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo
hợp đồng; luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo phân công của tổ chức tham
gia trợ giúp pháp lý; Tư vấn viên pháp luật; Cộng tác viên trợ giúp pháp lý…
Việc xác định phạm vi thời gian, không gian, lĩnh vực, số
lượng, chủ thể để đánh giá hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý là phụ thuộc
vào ý định của chủ thể tiến hành đánh giá.
3. Kết luận
Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Nghị quyết số 27 và Nghị quyết số 66 đã đề ra mục tiêu là tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật theo tinh thần xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật công bằng, nghiêm minh, nhất quán, hiệu lực, hiệu quả . Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, tập trung xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, không để ai bị bỏ lại phía sau… Trong bối cảnh như vậy, nâng cao hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý ngày càng có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó góp phần bảo đảm cho pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, hiệu lực, hiệu quả. Việc xác định và sử dụng các tiêu chí để đánh giá hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý ở Việt Nam là rất quan trọng và phức tạp. Để thực hiện được các hoạt động nói trên cần dựa vào nhiều phương pháp khác nhau để thu thập thông tin và phân tích đánh giá như thông qua điều tra xã hội học, sử dụng phương pháp ankét (phát - thu phiếu điều tra) để có thông tin trung thực, khách quan, phản ánh đúng thực trạng số lượng, tỷ lệ những người được trợ giúp pháp lý hài lòng và đạt được kết quả mong muốn; sử dụng phương pháp phân tích thực chứng và phân tích chuẩn tắc, phương pháp phân tích mô hình SWOT để chỉ ra các ưu điểm, hạn chế của công tác trợ giúp pháp lý ở các địa bàn khác nhau của đất nước; sử dụng phương pháp thống kê mô tả và thống kê suy diễn để có được các chỉ số định lượng cũng như định tính về các thông tin có được từ đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác trợ giúp pháp lý trong giai đoạn mới một cách khoa học, thiết thực, sát thực tế và hiệu quả.
Tài
liệu tham khảo
1.
Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2021)
2.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 27- NQ/TW ngày
9/11/2022 về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 66- NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác
xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ
nguyên mới
4. Tổng Bí
thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, Phát biểu tại
Kỳ họp thứ VIII, Quốc hội khóa XV (21/10/2024)
5. Tổng Bí thư Tô Lâm, Bài viết về “Tinh, gọn,
mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả” (5/11/2024)
6. Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề Xây dựng Luật Trợ giúp pháp lý, Nxb Tư pháp, Hà Nội (2016)
[*] Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Giảng viên cao cấp Trường Đại học Luật Hà Nội; Trưởng Ban Nghiên cứu pháp luật, Viện nghiên cứu Pháp luật và Kinh tế ASEAN, Hội Luật gia Việt Nam, ngày duyệt đăng 28/10/2025
[1] Xem, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 27-
NQ/TW ngày 9/11/2022 về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới và Nghị quyết số 66- NQ/TW ngày 30/4/2025 về
đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước trong kỷ nguyên mới
[2] Xem, Điều 2 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 268 (2021)
[4] Xem, Hiệu
quả của pháp luật, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr. 14 (2012)
[5] Xem, Khoản 1 Điều 6 Luật Trợ giúp pháp lý năm
2017.
[6] Xem, Khoản 2 Điều 6 Luật Trợ giúp pháp lý năm
2017.
[7] Xem, Chu Hồng Thanh, “Xây dựng và thực hiện đạo đức nghề nghiệp luật sư - Kinh nghiệm của
Hội Luật gia Việt Nam”, Tạp chí nghề luật, số 2 (2008); Nghề luật và những
đức tính cần phải có để làm nghề luật, Tạp chí Luật học, số 2 (2025)
[8] Xem, Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
[9] Xem, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 27- NQ/TW, Tlđd.