(PLPT) - Việt Nam được đánh giá là quốc gia ổn định chính trị, an ninh, an toàn… Đó là yếu tố quan trọng nhất để “tính điểm” cho một môi trường đầu tư. Do đó, kỳ vọng thu hút FDI trong năm 2024 sẽ đạt được 40 tỷ USD là rất khả thi.
Phóng viên Pháp luật và Phát triển đã có cuộc trao đổi
với TS. Nguyễn Quốc Việt, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách
(VEPR) xung quanh vấn đề này.
Khảo sát của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đã cho thấy, niềm tin của nhà đầu tư FDI vẫn đang rất tích cực. Như vậy,
có thể kỳ vọng thu hút FDI năm 2024 ở mức 40 tỷ USD. Ông bình luận về vấn đề
này như thế nào?
Xu hướng thu hút FDI của Việt Nam
vẫn ổn định từ cuối năm 2023 cho đến 6 tháng năm 2024. Tổng vốn FDI đăng ký 6
tháng đạt gần 15,2 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ. Có nhiều lý do khiến Việt
Nam tiếp nhận được dòng vốn FDI tốt trong 2 năm gần đây.
Thứ nhất, căng thẳng địa
chính trị, xung đột lợi ích kinh tế, đặc biệt liên quan đến khoa học kỹ thuật
giữa các quốc gia lớn… đã làm cho dòng vốn FDI phải rút khỏi Trung Quốc khá nhiều.
Trong một số “địa chỉ” có thể
thay thế Trung Quốc để đa dạng hoá chuỗi cung ứng cũng như phân tán rủi ro, Việt
Nam được đánh giá là điểm đến an toàn. Bởi, nền tảng kinh tế vĩ mô của Việt Nam
tương đối ổn định, có lực lượng lao động trẻ, sự sẵn có cũng như hoàn thiện cơ
sở hạ tầng cũng giúp cho Việt Nam trở thành bến đỗ mới về thu hút FDI.
Thứ hai, chúng ta cũng cần
lường trước các thách thức, không phải thấy FDI vào mà có thể đáp ứng được tất
cả các kỳ vọng. Đó là, vấn đề an ninh năng lượng, nhu cầu về năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo. Công nhân lành nghề tại các khu vực công nghiệp. Tháo gỡ những
rào cản từ thủ tục hành chính cho các
nhà đầu tư… Nếu chúng ta không khắc phục được những vấn đề nêu trên thì dòng vốn
FDI có thể đến rồi lại đi, họ tìm đến địa chỉ mới có tính cạnh tranh cao hơn.
Thứ ba, vấn đề có thể thu
hút được 40 tỷ USD FDI từ nay đến cuối năm 2024 hay không còn phụ thuộc nhiều yếu
tố. Và Việt Nam cần phải làm tốt hơn thì mới hấp thụ được nguồn vốn này.
Mặc dù đây là những tín hiệu
vui, nhưng có một vấn đề lớn cần giải quyết, đó là nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ cho các tập đoàn, doanh nghiệp FDI, thưa ông?
Chúng ta không nên đặt ra khái niệm
nhân lực chất lượng cao hay thấp. Thực tế, các doanh nghiệp FDI vào Việt Nam điều
đầu tiên họ cần là có được số lượng lao động trẻ và ổn định, được qua các lớp
đào tạo để đáp ứng với ngành nghề mà họ đang đầu tư.
Lực lượng lao động của Việt Nam
có điểm đáng lưu ý, đó là phần lớn các lao động là di cư nên thường làm việc
theo tính mùa vụ, hay có sự xáo trộn vì đang làm nhưng lại có thể xin nghỉ việc.
Có nhiều hiện tượng người lao động xin nghỉ việc sau đó rút bảo hiểm xã hội một
lần để chuyển sang lĩnh vực khác.
Đây là bài toán cần phải được giải
quyết, nhất là trong một số trường hợp người lao động đến độ tuổi nhất định
không còn đáp ứng được yêu cầu công việc thì cũng xin nghỉ việc.
Ngoài ra, tác phong công nghiệp của
người lao động vẫn chưa cao, bên cạnh kỹ năng nghề nghiệp thì thái độ của người
lao động vẫn còn có khoảng cách so với các nước trong khu vực.
Có một số trường hợp lao động ở cấp
độ quản lý hoặc lao động có tay nghề nhưng Việt Nam chưa đáp ứng được tiêu chuẩn của các
doanh nghiệp FDI. Một số doanh nghiệp FDI có nhu cầu tuyển dụng lao động nước
ngoài, Việt Nam cũng nên tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp này đi thuê lao
động nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định. Khi đó, mới giải quyết được
bài toán lao động cho doanh nghiệp FDI.
Về vấn đề lao động theo tôi cần
tháo gỡ những vướng mắc trên, chúng ta không nên đặt câu chuyện chất lượng lao
động cao hay thấp, vì tiêu chí này rất mơ hồ và không rõ ràng.
Có ý kiến cho rằng, việc thu
hút 40 tỉ USD FDI là rất tốt, nhưng để các dự án đầu tư phát huy hiệu quả, thúc
đẩy phát triển kinh tế thì cần phải nỗ lực rất nhiều. Hay nói một cách ví von,
“tiêu” được chừng đó tiền còn tốt hơn. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế
nào?
Đây là câu chuyển giữa vốn đăng
ký và vốn thực hiện. Gần đây chúng ta có sự cải thiện rất đáng kể, khoảng cách
giữa vốn đăng ký và thực hiện đang ngày càng thu hẹp khoảng cách, thậm chí có
những giai đoạn vốn thực hiện tăng nhanh hơn vốn đăng ký.
Đó là một tín hiệu tốt, vì các
nhà đầu tư FDI từ đăng ký đã nhanh chóng thực hiện giải ngân dòng vốn. Còn việc
xúc tiến, đẩy nhanh từ vốn đăng ký đến vốn thực hiện thì có nhiều yếu tố, như
sau khi có giấy phép đầu tư, nhà đầu tư mong muốn được triển khai nhanh và hiệu
quả trong việc tiếp cận đất đai, điện, nước, môi trường…
Đối với những dự án nhỏ được phân
cấp về địa phương thường xử lý rất nhanh. Còn các dự án lớn, đòi hỏi có sự tham
gia của các bộ, ngành trung ương, nhà đầu tư FDI vẫn “kêu” về thủ tục, cách thức
giải quyết các mâu thuẫn trong pháp luật, hoặc có những vấn đề pháp luật còn bỏ
ngỏ khi giải quyết những nhu cầu và yếu tố trong dự án đầu tư.
Ông có đề xuất, kiến nghị gì
để thu hút FDI năm 2024 đạt được như kỳ vọng?
Một là, Việt Nam cần tích
cực xây dựng hệ tiêu chuẩn quốc gia về thu hút FDI như quy mô vốn, lĩnh vực đầu
tư có thuộc nhóm ưu tiên thu hút hay không, mức độ sử dụng lao động, công nghệ,
môi trường, giá trị gia tăng nội địa, khả năng liên kết lan toả và tham gia các
chuỗi giá trị, mức độ ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng.
Hai là, vấn đề lao động là
một yếu điểm chúng ta cần tăng cường tốt hơn trong thời gian tới. Bởi, các đối
tác đến Việt Nam đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ, bán dẫn, kinh tế xanh, kinh
tế số, họ cần người lao động có trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu của hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Trước thực tế đó, việc cần làm lúc này là tập trung đào tạo
nguồn nhân lực trong nước, đồng thời mời gọi kỹ sư, chuyên gia từ các nước đến
Việt Nam.
Ba là, để thu hút dòng vốn FDI chất lượng, bên cạnh việc tạo thuận lợi về hệ thống cơ sở hạ tầng, đòi hỏi
chúng ta phải nâng cấp các yếu tố đầu vào như năng lượng tái tạo, năng lượng sạch,
giải quyết các vấn đề bên ngoài các KCN, chỗ ở cho gia đình người lao động… tất
cả các vấn đề trên nếu giải quyết tốt thì mới thu hút được các nhà đầu tư “khó
tính”.
(PLPT) - Ủy ban Tài chính - Ngân sách thống nhất với đề xuất bỏ nội dung hạch toán khoản hỗ trợ trong dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi, thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.
(PLPT) - Luật Thủ đô 2024 vừa được Quốc hội thông qua sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2025 đã quy định một cách toàn diện các nội dung đột phá, hướng tới xây dựng đô thị xanh, bền vững.
(PLPT) - Về thời hạn của giấy phép khai thác khoáng sản trong dự thảo Luật Địa chất và khoáng sản, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu quan điểm, cơ quan soạn thảo và thẩm tra phải nghiên cứu kỹ lưỡng về nội dung này để tránh thủ tục xin phép nhiều lần, giảm thiểu tối đa cơ chế xin - cho.
(PLPT) - Tiếp tục xem xét về dự thảo Luật Dữ liệu, các thành viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá, dự thảo quán triệt tốt quan điểm đổi mới tư duy, phương pháp, quy trình, thủ tục lập pháp và thống nhất đề nghị Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 8.
(PLPT) - Nhằm đồng bộ với Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế sẽ xóa bỏ địa giới hành chính trong khám bệnh, chữa bệnh hưởng bảo hiểm y tế.
(PLPT) - Quan điểm sửa đổi Luật Đầu tư công là tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư công, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện kể từ khi Luật này được thông qua.
(PLPT) - Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 vừa được Quốc hội khoá XV thông qua tại Kỳ họp thứ 8 với tỷ lệ tán thành cao giao chỉ tiêu phát triển GDP khoảng 6,5-7,0% và phấn đấu khoảng 7,0-7,5%.
(PLPT) - Với vấn đề công tác quản lý mạng xã hội hiện nay, Bộ trưởng Bộ Thông tin & Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định, giải pháp đầu tiên là phải hoàn thiện thể chế.