Tầm nhìn - Chính sách

Bảo đảm quyền bình đẳng của người khuyết tật trong bầu cử và ứng cử

Lã Khánh Tùng Thứ hai, 18/08/2025 - 12:03

(PLPT) - Bài viết làm rõ những điểm chưa tương thích và khoảng trống chính sách ảnh hưởng đến khả năng tham gia bầu cử, ứng cử của người khuyết tật. Từ đó, bài viết kiến nghị hướng hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm sự tham gia chính trị toàn diện và không phân biệt đối xử đối với nhóm đối tượng này.

Tóm tắt: Quyền bầu cử và ứng cử là biểu hiện điển hình của quyền chính trị, gắn liền với nguyên tắc bình đẳng trong nhà nước pháp quyền. Tiếp cận từ lý luận quyền con người và trên cơ sở Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD), bài viết cho rằng việc bảo đảm bình đẳng thực chất cho người khuyết tật trong thực thi quyền tham chính không chỉ đòi hỏi ghi nhận về mặt pháp lý, mà còn yêu cầu loại bỏ rào cản thể chế, xã hội và nhận thức. Trên nền tảng phân tích Điều 29 CRPD, đối chiếu với quy định pháp luật Việt Nam và thực tiễn thi hành, bài viết làm rõ những điểm chưa tương thích và khoảng trống chính sách ảnh hưởng đến khả năng tham gia bầu cử, ứng cử của người khuyết tật. Từ đó, bài viết kiến nghị hướng hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm sự tham gia chính trị toàn diện và không phân biệt đối xử đối với nhóm đối tượng này.

Từ khóa: Quyền chính trị, người khuyết tật, quyền bình đẳng, bầu cử, ứng cử

Abstract: The rights to vote and stand for election are fundamental political rights closely associated with the principle of equality in a rule-of-law state. From a human rights-based approach and within the framework of the Convention on the Rights of Persons with Disabilities (CRPD), this article argues that ensuring substantive equality for persons with disabilities in political participation requires more than legal recognition. It demands the removal of institutional, social, and attitudinal barriers. By analyzing the normative content of Article 29 of the CRPD and comparing it with the Vietnamese legal framework and current practices, the article identifies gaps and inconsistencies that hinder the full realization of electoral rights for persons with disabilities. On that basis, it proposes legal reforms aimed at fostering inclusive, accessible, and non-discriminatory political participation for this vulnerable group.

Keywords: Political rights, Guarantee, Election, People with disabilities, Equality, Candidacy

1. Tiêu chuẩn quốc tế về bình đẳng trong bầu cử và ứng cử

Bình đẳng vừa là một quyền, vừa là một nguyên tắc xuyên suốt, đặt ra đối với mọi lĩnh vực, mọi quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Về mặt pháp lý, bình đẳng thường được đồng nhất với không có sự phân biệt đối xử dựa trên bất kỳ căn cứ nào (như về giới, dân tộc, tôn giáo, quan điểm chính trị, sức khỏe, tình trạng khuyết tật...). Bình đẳng là một lý tưởng, động lực chính trị thúc đẩy nhiều cuộc cách mạng trong lịch sử, như được phản ánh trong lý tưởng “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” của Cách mạng Pháp. Điều 21 Tuyên ngôn nhân quyền phổ quát (1948), Điều 25 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, 1966) bảo vệ quyền bầu cử, ứng cử của công dân. Quyền chính trị còn được bảo vệ trong một số công ước nhân quyền khác, bao gồm Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD, 2006).

Điều 29 CRPD về tham gia đời sống chính trị và cộng đồng của người khuyết tật có phạm vi rộng, gồm hai lĩnh vực chính, tương ứng với khoản a) (về tham gia bầu cử) và b) (tham gia vào các hiệp hội, đảng phái chính trị, tổ chức). Các quốc gia thành viên CRPD có nghĩa vụ bảo đảm cho người khuyết tật có các quyền chính trị và cơ hội hưởng các quyền đó trên cơ sở bình đẳng với những người khác. Về bầu cử, theo Điều 29, khoản a, các quốc gia cam kết “bảo đảm rằng người khuyết tật có thể tham gia hiệu quả và trọn vẹn vào đời sống chính trị và cộng đồng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua đại diện do họ tự do lựa chọn, theo đó người khuyết tật có quyền và cơ hội bầu cử và được bầu cử”, bằng một số cách như: Bảo đảm rằng thủ tục, cơ sở vật chất phục vụ bầu cử thích hợp, dễ tiếp cận, dễ hiểu, dễ sử dụng; Trong các cuộc bầu cử và trưng cầu ý dân, bảo vệ quyền của người khuyết tật được bỏ phiếu kín và không bị hăm dọa, quyền ứng cử, quyền giữ chức vụ một cách có hiệu quả và thực hiện mọi chức năng công quyền ở mọi cấp chính quyền, tạo thuận lợi cho việc sử dụng công nghệ hỗ trợ tiên tiến khi cần; Bảo đảm quyền tự do biểu đạt ý kiến của người khuyết tật với tư cách cử tri, để đạt được mục đích đó, cho phép người khuyết tật có người trợ giúp do người khuyết tật tự chọn, nếu cần và nếu người khuyết tật yêu cầu.

Cùng với quyền chính trị, tại Điều 29, khoản b, CRPD bảo đảm quyền hiệp hội của người khuyết tật. Theo đó, các quốc gia cam kết “thúc đẩy tích cực một môi trường cho phép người khuyết tật tham gia một cách hiệu quả và trọn vẹn vào các hoạt động xã hội, một cách không phân biệt đối xử và trên cơ sở bình đẳng với những người khác, và khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động xã hội.

Bình đẳng là một nguyên tắc nền tảng, bao trùm trong pháp luật nhân quyền quốc tế, cũng như pháp luật các quốc gia. Khuôn khổ pháp lý về tham gia đời sống chính trị và cộng đồng (Điều 29 CRPD) được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với nhiều điều khoản khác trong CRPD, bao gồm: nội hàm của “phân biệt đối xử trên cơ sở khuyết tật” (Điều 2), nguyên tắc “bình đẳng về cơ hội” (Điều 3 về các nguyên tắc chung), nghĩa vụ của nhà nước áp dụng mọi biện pháp cần thiết để sửa đổi, xóa bỏ mọi quy định pháp lý, tập quán và thực hành cấu thành sự phân biệt đối xử đối với người khuyết tật (Điều 4 về các nghĩa vụ chung), và các quy định về “bình đẳng và không phân biệt đối xử” tại Điều 5. Theo Điều 2, “phân biệt đối xử trên cơ sở khuyết tật” có nghĩa là mọi sự phân biệt, loại trừ hoặc hạn chế trên cơ sở sự khuyết tật có mục đích hoặc ảnh hưởng gây tổn hại hoặc vô hiệu hóa sự công nhận, thụ hưởng hoặc thực hiện các quyền và tự do cơ bản của con người trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự hoặc bất kỳ lĩnh vực nào khác. Nó bao gồm mọi hình thức phân biệt đối xử, trong đó có từ chối điều chỉnh hợp lý.

Bình đẳng và tự do, trong lĩnh vực chính trị cũng như các lĩnh vực khác, không tách rời nhau. Quyền công dân, tư cách công dân là lĩnh vực mà “các tư tưởng về tự do và bình đẳng gặp gỡ”.[1]Quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham gia chính trị là cốt lõi của dân chủ. Cho đến gần đây, mặc dù dân chủ tiếp tục đối diện với những thách thức về lý luận và thực hành trên thế giới và trong khu vực Đông Nam Á,[2] niềm tin rằng dân chủ là phù hợp với đạo đức và công lý, cũng như là một hệ thống trong đó “những người bị thiệt thòi bởi các trật tự hiện hành có cả động lực và nguồn lực để chỉ ra những khiếm khuyết của những trật tự đó, chỉ ra sự thật về chúng đang bị che khuất, và cố gắng thay đổi những trật tự đó”[3] cần tiếp tục được củng cố bởi các chủ thể khác nhau, nhất là những người quan tâm đến quyền của các nhóm yếu thế.

2. Pháp luật Việt Nam và những bất cập trong thực tiễn

Tại Việt Nam, tiến trình chuyển đổi kinh tế đã mang lại những thay đổi đáng kể về giá trị, cấu trúc xã hội, sự đa dạng và bình đẳng xã hội, cả về nội dung, mức độ và hình thức. Nhiều hình thức phân biệt đối xử phổ biến ở những thập niên trước, như việc quá coi trọng lý lịch gia đình hơn là năng lực và phẩm chất cá nhân, đã giảm đáng kể. Ngược lại, nhiều hình thức phân biệt đối xử mới xuất hiện, hoặc có từ xưa nhưng nay phổ biến hơn, như việc sử dụng tiền bạc, vật chất để mua (theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng) những đặc quyền, sự ưu đãi. Cùng với bất bình đẳng về kinh tế, bất bình đẳng về tiếng nói và cơ hội cũng đang gia tăng.[4] Bất bình đẳng theo chiều ngang, giữa các dân tộc và các vùng, cũng như việc thiếu hiểu biết và thiếu “không gian để lên tiếng” về quyền của mình của các nhóm thiệt thòi cũng đang là những thách thức lớn.[5]

Việt Nam là quốc gia thành viên của bảy công ước quốc tế cơ bản về quyền con người, trong đó có Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) và Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD). Hiến pháp năm 2013 đã nội luật hóa một số nguyên tắc quan trọng, trong đó Điều 16 khẳng định mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và không bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội. Quyền bầu cử và ứng cử cũng được Hiến pháp thừa nhận là quyền chính trị cơ bản (Điều 27), với nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín (Điều 7). Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân (2015) tiếp tục cụ thể hóa những nguyên tắc này.

Pháp luật Việt Nam có các quy định chung về quyền bầu cử, ứng cử của mọi công dân, bên cạnh một số quy định về người khuyết tật (nổi bật là Luật Người khuyết tật 2010). Hiến pháp 2013, Điều 27 quy định “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân.” Hiến pháp cũng khẳng định các nguyên tắc của bầu cử tại Điều 7 Hiến pháp năm 2013. Các nguyên tắc này thống nhất với Điều 1 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”.Luật bầu cử của Việt Nam, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 2015 quy định chi tiết về các vấn đề điều kiện bầu cử, ứng cử; thành phần, tổ chức các cơ quan tổ chức bầu cử; quy trình bầu cử, kiểm phiếu, công bố kết quả... Bên cạnh nguyên tắc phổ thông, trực tiếp và bỏ phiếu kín, nguyên tắc bình đẳng cần phải được bảo đảm trong bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân. Nguyên tắc này có nghĩa là không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào giữa các công dân đủ điều kiện luật định trong việc thực hiện quyền bầu cử, ứng cử.

Tuy vậy, trong pháp luật và thực tiễn Việt Nam còn những sự vướng mắc, rào cản làm ảnh hưởng tiêu cực đối với việc thực thi quyền chính trị của người khuyết tật, bao gồm khía cạnh không phân biệt đối xử. Cụ thể là:

Thứ nhất, đối với việc ứng cử, quy định hiện hành về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân bao gồm đòi hỏi về việc phải có “đủ sức khỏe” gây ra một sự hiểu nhầm phổ biến, tạo ra rào cản với người khuyết tật. Trong Luật Tổ chức Quốc hội (2014), Điều 22 về tiêu chuẩn của đại biểu Quốc hội, bên cạnh một số tiêu chuẩn khác (trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ văn hóa, chuyên môn...), là tiêu chuẩn “có đủ năng lực, sức khỏe” (khoản 3). Tương tự, trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015, tại Điều 7 về tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân, bao gồm các tiêu chuẩn có “đủ năng lực, sức khỏe”. Vấn đề là trong xã hội, chủ yếu do định kiến và thiếu hiểu biết đẩy đủ, nhiều người lại đồng nhất việc “khuyết tật” với không đủ sức khỏe.

Một số người khuyết tật khi ứng cử đã đối diện với thái độ phân biệt đối xử của nhiều người trong cộng đồng. Năm 2011, một người khuyết tật - anh Nguyễn Công Hùng, 29 tuổi, chuyên gia công nghệ thông tin, Giám đốc Công ty cổ phần Nghị Lực Sống - là một trong 30 người tự ứng cử đại biểu Quốc hội. Trả lời phỏng vấn báo chí, anh Hùng cho biết: “Nếu được tín nhiệm bầu làm đại biểu Quốc hội, hai lĩnh vực mà tôi quan tâm nhất là chăm sóc y tế và cách thức đào tạo nghề cho người khuyết tật.”[6] Tuy nhiên, anh Hùng đã phải đối diện với sự nghi ngại của một bộ phận cử tri, chủ yếu liên quan đến điều kiện sức khỏe như vậy liệu có thể đảm đương vị trí người đại biểu Quốc hội hay không.

Thứ hai, đối với việc thực thi quyền bầu cử, một số nhóm người khuyết tật gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về pháp luật, thủ tục bầu cử, thông tin làm cơ sở cho việc lựa chọn khi bỏ phiếu, cũng như trong việc thực hiện quyền bỏ phiếu. Người mù cần có các thông tin ở dạng chữ nổi, hoặc dạng âm thanh để nghe. Việc công khai, công bố thông tin dưới các dạng ngôn ngữ thích hợp chưa được Luật Tiếp cận thông tin, Luật Bầu cử quan tâm thích đáng.

Theo một nghiên cứu vào năm 2024, phần lớn người khuyết tật vẫn còn gặp khó khăn trong tiếp cận và sử dụng Internet. Cụ thể, hơn một nửa (52,2%) người khuyết tật trong mẫu khảo sát không có phương tiện sử dụng Internet tại nhà, chủ yếu do thu nhập thấp, không có việc làm... [7] Một nghiên cứu khác, thực hiện bởi nhóm nghiên cứu Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Truyền thông (IPS) và UNDP cho thấy 39/63 Cổng Dịch vụ công cấp tỉnh chưa đạt ở tiêu chí “Mức độ tiếp cận đối với người khuyết tật”, tất cả 63 Cổng đều “mắc lỗi kỹ thuật, gây khó khăn cho người khiếm thị”.[8]

Thứ ba, các quyền con người phụ thuộc lẫn nhau, quyền bầu cử, ứng cử chỉ được hiện thực hóa đầy đủ khi nhiều quyền con người khác, nhất là các quyền tự do ngôn luận, tiếp cận thông tin, tự do biểu đạt, lập hội, hội họp, đi lại cũng được bảo đảm. Uỷ ban Nhân quyền Liên hợp quốc - cơ quan giám sát việc thực thi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), sau khi xem xét báo cáo của nhà nước Việt Nam, đã thông qua các nhận xét kết luận vào ngày 25 tháng 3 năm 2019. Riêng về chủ đề người khuyết tật, Nhận xét bao gồm 2 đoạn. Đoạn 17, Ủy ban đánh giá nhà nước “có những nỗ lực để nâng cao quyền của người khuyết tật”, tuy nhiên “quan ngại về những phân biệt đối xử mà người khuyết tật phải đối diện, bao gồm việc tiếp cận dịch vụ công”. Đoạn 18 khuyến nghị nhà nước Việt Nam “cần tăng cường những nỗ lực để bảo vệ người khuyết tật khỏi sự phân biệt đối xử và đảm bảo tiếp cận đầy đủ tới các dịch vụ công, bao gồm giáo dục, việc làm, giao thông công cộng; và nâng cao nhận thức về quyền của người khuyết tật, bao gồm nhận thức trong cán bộ nhà nước, cán bộ y tế, và công chúng nói chung”. Một số nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng nếu nhận thức của các bên liên quan, nhất là của các công chức nhà nước, chưa thật đầy đủ, toàn diện về quyền của người khuyết tật thì sẽ rất khó bảo đảm sự bình đẳng trong thực tế. Một nghiên cứu gần đây tiếp tục khẳng định “định kiến xã hội về năng lực của người khuyết tật vẫn còn nặng nề”, cạnh đó, môi trường làm việc tại nhiều cơ quan công quyền “chưa đảm bảo tính tiếp cận toàn diện cho các dạng tật khác nhau”. [9]

Thứ tư, bình đẳng chỉ có ý nghĩa khi song hành với tự do, như đã đề cập ở phần mở đầu của bài viết này. Nhiều bất cập của hệ thống bầu cử Việt Nam (bao gồm quy trình hiệp thương “vô hiệu hóa” vai trò của cử tri,[10] thiếu cơ quan giám sát bầu cử độc lập,[11] thiếu bình đẳng đối với ứng viên tự ứng cử,bầu thay, bầu hộ...) chưa được điều chỉnh. Đặc biệt, những bất cập của quy trình hiệp thương đã được nhận định là “không đáp ứng nhu cầu dân chủ, tự do của nhân dân”, “chưa công bằng, bình đẳng, chưa thực hiện đầy đủ nguyên tắc bầu cử”.[12] Quyền tự do bỏ phiếu, phạm vi lựa chọn cho cử tri còn hạn chế.[13] Trong một hệ thống bầu cử như vậy, dù có đạt hoặc gần đạt được sự bình đẳng giữa người khuyết tật và những người không khuyết tật thì quyền bầu cử vẫn chưa bình đẳng giữa các công dân, chưa mang lại nhiều ý nghĩa thực chất, chưa bảo đảm công bằng, công lý[14] Nói cách khác, các “điều kiện về môi trường” liên quan đến thể chế pháp lý cho sự tham gia của người khuyết tật cần được cải thiện, bên cạnh sự quan tâm đến các yếu tố về điều kiện vật chất, kỹ thuật, năng lực, kỹ năng, điều kiện sống của cộng đồng này.[15]

3. Khuyến nghị sửa đổi, hoàn thiện pháp luật

Để bảo đảm đầy đủ hơn quyền tham gia vào đời sống công cộng của người khuyết tật, những bất cập hiện hành (mà phần nào đã được nêu trên đây), cũng như khuyến nghị của các chuyên gia, cộng đồng quốc tế cần được nghiên cứu thấu đáo để có sự cập nhật, điều chỉnh. Một số nội dung dưới đây cần được cân nhắc:

Thứ nhất, Việt Nam nên tiếp thu kinh nghiệm tiến bộ của một số quốc gia (Afganistan, Namibia, Uganda, Philippine...), bổ sung vào luật bầu cử quy định dành khoảng 10% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là người khuyết tật (tương tự như quy định hiện hành đối với người dân tộc thiểu số và phụ nữ - Điều 8 và Điều 9 về dự kiến cơ cấu, thành phần những người được gới thiệu ứng cử, trong Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 2015). Cạnh đó, nhằm xóa bỏ những định kiến đối với ứng cử viên là người khuyết tật, văn bản giải thích pháp luật cần phân biệt rõ khuyết tật với việc “không đủ sức khỏe công tác”.[16] Công tác truyền thông về bầu cử cũng nên góp phần làm rõ điều này.

Thứ hai, để bảo đảm thực thi đầy đủ quyền bầu cử cho một số nhóm người khuyết tật, đặc biệt là người khiếm thị, cần có các hình thức cung cấp thông tin bầu cử dưới định dạng dễ tiếp cận như chữ nổi (Braille), âm thanh hoặc ngôn ngữ ký hiệu. Việc bảo đảm tiếp cận thông tin không chỉ là yêu cầu về kỹ thuật mà còn là điều kiện thiết yếu để người khuyết tật có thể thực hiện quyền lựa chọn của mình một cách độc lập và tự chủ. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu và áp dụng các hình thức bầu cử linh hoạt hơn như bỏ phiếu qua thư hoặc bỏ phiếu điện tử (e-voting), nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho những người khuyết tật vận động hoặc gặp khó khăn trong việc đến điểm bỏ phiếu. Đây là những biện pháp điều chỉnh hợp lý phù hợp với tinh thần của Điều 29 Công ước CRPD, góp phần bảo đảm quyền tham chính một cách thực chất và bình đẳng cho người khuyết tật..[17]

Thứ ba, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc thực thi các quyền dân sự liên quan đến tham chính của người khuyết tật, như quyền biểu đạt, tiếp cận thông tin và tổ chức hội nhóm. Việc luật hóa các quyền này không chỉ bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quốc tế theo Công ước CRPD, mà còn tạo điều kiện để người khuyết tật nâng cao tiếng nói, thúc đẩy vận động chính sách và tham gia hiệu quả vào đời sống chính trị – xã hội.

Thứ tư, Cần từng bước cải cách hệ thống bầu cử theo hướng bảo đảm tính bao trùm và bình đẳng cho các nhóm yếu thế, đặc biệt là người khuyết tật. Trọng tâm là đổi mới quy trình hiệp thương để tăng tính minh bạch và cơ hội tham gia cho người tự ứng cử, mở rộng số lượng ứng viên trong mỗi đơn vị bầu cử, và thiết kế lại cơ chế vận động tranh cử theo hướng thân thiện, dễ tiếp cận đối với người khuyết tật.

Thứ năm, việc đối thoại, giáo dục, thông tin nhằm thay đổi nhận thức của công chúng, công chức cần được quan tâm, đầu tư…Nhiều thảo luận, khóa tập huấn cần được tổ chức bởi các hội đoàn, cơ quan nhà nước, cơ quan truyền thông để mở rộng sự hiểu biết về các rào cản, vấn đề, cách tiếp cận giải quyết vấn để để bảo đảm đầy đủ hơn quyền tham gia của người khuyết tật.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Oxfam Việt Nam, Các chiều bất bình đẳng ở Việt Nam, trong “Tuyển tập Bất bình đẳng”, Nhóm phân tích kinh tế tuyển chọn và dịch, Nxb. Tri thức(2019).

2. VŨ THỊ LOAN, MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY, NXB. CHÍNH TRỊ QUỐC GIA (2010).

3. VŨ VĂN NHIÊM, GIÁO TRÌNH BẦU CỬ TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN, NXB. ĐH QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH (2011).

4. JOHN RAWLS, MỘT LÝ THUYẾT VỀ CÔNG LÝ, PHẠM QUỐC VIỆT DỊCH, NXB.TRI THỨC (2023).

5. DAVID SCHMIDTZ, JASON BRENNAN, A BRIEF HISTORY OF LIBERTY, NXB. WILEY-BLACKWELL (2010).

6. IAN SHAPIRO, THE MORAL FOUNDATIONS OF POLITICS, NXB. ĐẠI HỌC YALE (2003).

7. Avery Poole, Democracy, Rights and Rhetoric in Southeast Asia, Palgrave Pivot (2019).

8. Gokcen Akyurek và Gonca Bumin, Community Participation in People with Disabilities, “Occupational Therapy - Occupation Focused Holistic Practice in Rehabilitation”, Meral Huri(biên tập), InTechOpen (2017).

9. Viện nghiên cứu Phát triển Mekong và Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam, Đánh giá mức độ hòa nhập của người khuyết tật trong quản trị địa phương năm 2024, 11/12/2024, https://papi.org.vn/danh-gia-muc-do-hoa-nhap-cua-nguoi-khuyet-tat-trong-quan-tri-dia-phuong-nam-2024/

10.Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu và Hành động vì sự Phát triển Hòa nhập (IDEA), Quan điểm của các bên liên quan về sự tham gia của người khuyết tật vào các cơ quan dân cử, 30/06/2025, https://papi.org.vn/quan-diem-cua-cac-ben-lien-quan-ve-su-tham-gia-cua-nguoi-khuyet-tat-vao-cac-co-quan-dan-cu/

* TS. Lã Khánh Tùng - Trường Đại học Luật ĐHQG Hà Nội

[1] DAVID SCHMIDTZ, JASON BRENNAN, A BRIEF HISTORY OF LIBERTY, NXB. WILEY-BLACKWELL, 170 (2010).

[2] Avery Poole, Democracy, Rights and Rhetoric in Southeast Asia, Palgrave Pivot, 21, 25 và 26 (2019).

[3] IAN SHAPIRO, THE MORAL FOUNDATIONS OF POLITICS, NXB. ĐẠI HỌC YALE, 229 (2003)

[4] Oxfam Việt Nam, Các chiều bất bình đẳng ở Việt Nam, trong “Tuyển tập Bất bình đẳng”, Nhóm phân tích kinh tế tuyển chọn và dịch, Nxb. Tri Thức, 82(2019). Cũng theo tài liệu này, tính toán của Oxfam cho thấy, tại Việt Nam, “người giàu nhất có thu nhập trong một ngày cao hơn thu nhập của người nghèo nhất trong mười năm”, và tài sản của người này “có thể giúp tất cả người nghèo ở Việt Nam (khoảng 13 triệu người theo tính toán năm 2014) thoát nghèo”, 84.

[5] Tài liệu trên, 89-91, và 98.

[6] Quang Tùng – Phan Mạnh, Hiệp sĩ CNTT khuyết tật tự ứng cử ĐBQH, VTC Online (23/03/2011) https://vtc.vn/hiep-si-cntt-khuyet-tat-tu-ung-cu-dbqh-ar33850.html

[7] Viện nghiên cứu Phát triển Mekong và Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam, Đánh giá mức độ hòa nhập của người khuyết tật trong quản trị địa phương năm 2024 (11/12/2024), 23, https://papi.org.vn/danh-gia-muc-do-hoa-nhap-cua-nguoi-khuyet-tat-trong-quan-tri-dia-phuong-nam-2024/

[8] Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Truyền thông (IPS) và UNDP, Đánh giá 63 Cổng Dịch vụ công cấp tỉnh từ góc độ người dùng năm 2024, dẫn theo Viện nghiên cứu Phát triển Mekong và Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam, Đánh giá mức độ hòa nhập của người khuyết tật trong quản trị địa phương năm 2024, 11/12/2024, 24-25, https://papi.org.vn/danh-gia-muc-do-hoa-nhap-cua-nguoi-khuyet-tat-trong-quan-tri-dia-phuong-nam-2024/

[9] Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu và Hành động vì sự Phát triển Hòa nhập (IDEA), Quan điểm của các bên liên quan về sự tham gia của người khuyết tật vào các cơ quan dân cử, 30/06/2025, 12-13, https://papi.org.vn/quan-diem-cua-cac-ben-lien-quan-ve-su-tham-gia-cua-nguoi-khuyet-tat-vao-cac-co-quan-dan-cu/

[10] VŨ THỊ LOAN, MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY, NXB. CHÍNH TRỊ QUỐC GIA, 160-162 (2010)

[11] Đoạn 53, Nhận xét kết luận của Uỷ ban Nhân quyền Liên hợp quốc về Việt Nam, ngày 25 tháng 3 năm 2019.

[12] VŨ THỊ LOAN, SĐD, 161, 162.

[13] VŨ VĂN NHIÊM, GIÁO TRÌNH BẦU CỬ TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN, NXB. ĐH QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH, 255 (2011)

[14] John Rawls khi thảo luận về “tự do bình đẳng” (equal liberty) như một nội dung của các nguyên tắc công lý, nêu quan điểm: “Tự do là bất bình đẳng nếu một tầng lớp có tự do lớn hơn tầng lớp khác, hoặc có phạm vi hẹp hơn so với mức độ mà nó nên có. Mọi tự do của tư cách công dân bình đẳng phải là như nhau cho mỗi thành viên của xã hội.” John Rawls, Một lý thuyết về công lý, Phạm Quốc Việt dịch, Nxb.Tri thức, 269 (2023).

[15] Gokcen Akyurek và Gonca Bumin, Community Participation in People with Disabilities, “Occupational Therapy - Occupation Focused Holistic Practice in Rehabilitation”, Meral Huri (biên tập), InTechOpen, 92-100 (2017)

[16] Cho đến gần đây, văn bản liên quan là: Quyết định của Bộ Y tế, số 1266/QĐ-BYT, ngày 21 tháng 3 năm 2020, Ban hành Quy định tiêu chuẩn phân loại sức khỏe cán bộ. Quy định này phân chia thành các mức độ sức khỏe: Loại A: Khỏe mạnh, không có bệnh, hoặc có mắc một số bệnh thông thường nhưng không ảnh hưởng đến lao động, sinh hoạt và sức khỏe cá nhân, tuổi đời không quá 60; Loại B1: Đủ sức khỏe công tác, mắc một hay một số bệnh mãn tính cần phải theo dõi, điều trị nhưng không hoặc ít ảnh hưởng đến lao động, sinh hoạt và sức khỏe cá nhân, tuổi đời không quá 70; Loại B2: Đủ sức khỏe công tác, mắc một số bệnh mạn tính cần phải theo dõi, điều trị thường xuyên nhưng đang trong thời kỳ ổn định, ít ảnh hưởng đến lao động, sinh hoạt, sức khỏe cá nhân, tuổi đời không quá 80; Loại C: Không đủ sức khỏe công tác tại thời điểm khám sức khỏe, mắc một số bệnh mạn tính nặng, bệnh đã có các biến chứng, phải nghỉ việc để điều trị bệnh từ 01 đến 03 tháng; Loại D: Không đủ sức khỏe để tiếp tục công tác, bệnh nặng ở giai đoạn cuối, biến chứng nặng, khó hồi phục, sức khỏe sút kém, phải nghỉ hẳn để chữa bệnh và phục hồi chức năng.

[17] VŨ VĂN NHIÊM, SĐD, 259.

Cùng chuyên mục

Chính quyền địa phương 2 cấp từ tầm nhìn của Đảng và sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ

Chính quyền địa phương 2 cấp từ tầm nhìn của Đảng và sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ

Tầm nhìn - Chính sách -  2 giờ trước

(PLPT) - Dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, mô hình chính quyền địa phương 2 cấp được triển khai bài bản, gắn với yêu cầu thống nhất trong điều hành, đồng bộ trong tổ chức và nhất quán trong mục tiêu: giảm tầng nấc trung gian, nâng cao hiệu suất quản trị và lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo.

Chính phủ đề xuất bỏ cấp phiếu lý lịch tư pháp số 2

Chính phủ đề xuất bỏ cấp phiếu lý lịch tư pháp số 2

Tầm nhìn - Chính sách -  2 giờ trước

(PLPT) - Chính phủ đề xuất bổ sung quy định cơ quan, tổ chức không được yêu cầu cá nhân cung cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 (LLTP số 2) nhằm khắc phục tình trạng lạm dụng, đồng thời phù hợp với quy định pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Chính phủ ưu tiên nguồn lực cho những lĩnh vực “trụ cột” bảo đảm ổn định đất nước giai đoạn 2026-2030

Chính phủ ưu tiên nguồn lực cho những lĩnh vực “trụ cột” bảo đảm ổn định đất nước giai đoạn 2026-2030

Tầm nhìn - Chính sách -  3 ngày trước

(PLPT) - Theo định hướng ngân sách trung hạn giai đoạn 2026-2030, Nhà nước ưu tiên mạnh mẽ cho các nhiệm vụ chính trị, quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội; coi đây là những lĩnh vực “trụ cột” bảo đảm ổn định đất nước, nâng cao đời sống nhân dân và củng cố niềm tin xã hội.

Minh Hợp ( Nghệ An): Bước chuyển mình vững vàng trong mô hình chính quyền hai cấp.

Minh Hợp ( Nghệ An): Bước chuyển mình vững vàng trong mô hình chính quyền hai cấp.

Tầm nhìn - Chính sách -  3 ngày trước

(PLPT) - Ba tháng sau khi vận hành mô hình chính quyền địa phương hai cấp, xã Minh Hợp đã khẳng định tinh thần chủ động, sáng tạo trong tổ chức và điều hành. Bộ máy mới đi vào nền nếp, hoạt động hiệu quả, từng bước tạo chuyển biến rõ nét trong quản lý, phục vụ người dân và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương.

 Xã Yang Mao (Đắk Lắk) sau sáp nhập: Vượt khó khăn thách thức, dần ổn định tổ chức và nâng cao hiệu quả phục vụ nhân dân

Xã Yang Mao (Đắk Lắk) sau sáp nhập: Vượt khó khăn thách thức, dần ổn định tổ chức và nâng cao hiệu quả phục vụ nhân dân

Tầm nhìn - Chính sách -  1 tuần trước

(PLPT) - Sau hơn 3 tháng hoạt động sau sát nhập, chính quyền 2 cấp xã Yang Mao đã vận hành bộ máy mới tuy gặp nhiều khó khăn nhưng chính quyền và nhân dân đã cố gắng và đạt được những thành tựu ban đầu.

Thủ tướng kiểm tra vận hành chính quyền địa phương 2 cấp tại Cần Thơ

Thủ tướng kiểm tra vận hành chính quyền địa phương 2 cấp tại Cần Thơ

Tầm nhìn - Chính sách -  1 tuần trước

Sáng 19/10, sau chương trình tiếp xúc cử tri trước Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đi kiểm tra việc vận hành trung tâm phục vụ hành chính công phường Hưng Phú, thành phố Cần Thơ, cũng như tình hình vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp nói chung trên địa bàn.

Kết luận số 198-KL/TW: Thống nhất chủ trương đánh giá cán bộ định kỳ hằng quý, hằng năm

Kết luận số 198-KL/TW: Thống nhất chủ trương đánh giá cán bộ định kỳ hằng quý, hằng năm

Tầm nhìn - Chính sách -  1 tuần trước

(PLPT) - Thay mặt Bộ Chính trị, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú đã ký ban hành Kết luận của Bộ Chính trị về chủ trương đánh giá đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị (Kết luận số 198-KL/TW, ngày 8/10/2025).

Đồng chí Lương Nguyễn Minh Triết được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk nhiệm kỳ 2025 – 2030

Đồng chí Lương Nguyễn Minh Triết được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk nhiệm kỳ 2025 – 2030

Tầm nhìn - Chính sách -  1 tuần trước

(PLPT) - Chiều 16/10, Tỉnh ủy Đắk Lắk tổ chức hội nghị công bố quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác cán bộ. Chỉ định ông Lương Nguyễn Minh Triết giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk nhiệm kỳ 2025 - 2030.