Tóm tắt: Đổi mới hệ thống chính trị, trong đó cải cách hành chính nhà nước được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa then chốt trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công tác cải cách hành chính nhà nước được Chính phủ trực tiếp chỉ đạo, xây dựng, tổ chức thực hiện và giám sát chặt chẽ. Thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này góp phần phát huy vai trò của Chính phủ trong kiểm soát quyền lực. Bài viết phân tích một số giải pháp kiểm soát quyền lực nhà nước của Chính phủ thông qua việc triển khai CCHC, góp phần xây dựng bộ máy hành chính tinh gọn, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ Nhân dân.
Từ khóa: Kiểm soát quyền lực nhà nước; cải cách hành chính; Nhà nước pháp quyền, Chính phủ Việt Nam.
ABSTRACT: The renovation of the political system, in which public
administration reform is identified as one of the key and top-priority
tasks, plays a crucial role in building a socialist rule-of-law state in
Vietnam. The Government directly leads, formulates, implements, and
closely supervises the administrative reform process. Effectively
carrying out this task helps to enhance the Government’s role in
controlling state power, ensuring that the national administrative
system operates transparently, efficiently, and effectively.
Keywords: State power control; public administration reform; Government of Vietnam.
Mở đầu:
Đất nước ta sau gần 40 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn và
quan trọng về kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định về chính trị và hiện nay đang
đứng trước yêu cầu mới của sự phát triển. Để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát
triển mới, hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở phải đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động, trong đó cải cách hành chính (CCHC) được coi là một
trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng hàng đầu. Trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc kiểm soát quyền
lực nhà nước có ý nghĩa quyết định nhằm ngăn ngừa sự tha hóa quyền lực, bảo đảm
quyền lực được thực hiện đúng đắn, công khai và minh bạch. Chính phủ là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất, chịu trách nhiệm tổ chức thi hành Hiến pháp và
pháp luật, điều hành toàn bộ hệ thống hành chính từ trung ương đến địa phương,
tham mưu hầu hết các chính sách pháp luật. Do đó, cải cách hành chính nhà nước
không chỉ là công cụ nâng cao hiệu quả quản lý, mà còn là phương thức kiểm soát
quyền lực nhà nước.
1. Một số vấn đề lý luận về cải cách hành chính nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước
Hành chính theo gốc La-tinh là “administratio” và
có 2 nghĩa là: (1)Sự giúp đỡ, hỗ trợ hay là phục vụ của một người, một nhóm
người đối với một người hoặc một nhóm người khác, hoặc (2)Việc quản lý, hướng
dẫn hay điều hành của một người, một nhóm người này đối với một người hoặc một
nhóm người khác.[1] Hành
chính là
hoạt động chấp hành và điều hành của một tổ chức theo những trình tự, quy định
nhằm đạt được mục tiêu đã xác định của tổ chức[3, tr.2].
Hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp
của Nhà nước, đó là hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống hành chính
nhà nước trong quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật nhằm phụng sự Tổ
quốc, phục vụ Nhân dân, bảo đảm ổn định và thúc đẩy, hỗ trợ phát triển của xã
hội [3, tr.3]. Như vậy, hành chính nhà
nước được hiểu là hoạt động của cơ quan thực thi quyền lực nhà nước để quản lý,
điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo Hiến pháp và pháp luật. Các cơ
quan đó bao gồm Chính phủ, các cơ quan trực thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân
các cấp, các cơ quan của Ủy ban nhân dân các cấp. Hành chính nhà nước (hoặc nền
hành chính nhà nước) còn gọi là hành chính công hay hành chính quốc gia có 4 bộ
phận hợp thành: Hệ thống thể chế hành
chính, bộ máy hành chính nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, tài
chính công (tài chính của nhà nước).
Cải cách hành chính là một khái
niệm đã được nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu hành chính trên thế giới đưa
ra, dựa trên các điều kiện về chế độ chính trị, kinh tế - xã hội của mỗi quốc
gia, cũng như phụ thuộc vào quan điểm và mục tiêu nghiên cứu, do đó hầu hết các
định nghĩa về cải cách hành chính đều không hoàn toàn giống nhau. Trong đó,
"Cải cách là thay đổi cách thức, lề lối cho tốt đẹp hơn" [11,
tr.121]. Cải cách là sửa đổi những bộ phận cũ không hợp lý cho thành mới, đáp
ứng yêu cầu của tình hình khách quan.
Cải cách hành chính là hoạt động của Chính phủ căn cứ vào yêu cầu phát
triển kinh tế, chính trị của xã hội mà hiện đại hoá, khoa học hoá, hiệu suất
hoá thể chế hành chính, cơ cấu tổ chức, chế độ công tác, phương thức quản lý để
nâng cao năng suất và hiệu lực hành chính của toàn bộ nền hành chính nhà nước.
Ở nước ta cải cách nền hành chính nhà nước là quá trình cải biến có kế
hoạch cụ thể để đạt được mục tiêu hoàn thiện một hay một số nội dung của nền
hành chính nhà nước (thể chế, cơ cấu tổ chức, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công
chức…) nhằm xây dựng nền hành chính công đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính
hiệu lực, hiệu quả và hiện đại.
Đứng trên phương diện quản lý nhà nước của hệ thống các cơ quan thực thi
quyền hành pháp thì cải cách hành chính là cải cách cách thức quản lý, tức là
cải cách cách thức mà cơ quan thực thi quyền hành pháp tác động đến đời sống
chính trị - văn hóa – xã hội và con người nhằm đạt được mục tiêu phát triển một
cách bền vững.
Theo nghĩa chung nhất, "kiểm soát" được hiểu là: "xem xét để
phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định" [14,
tr.523]. Kiểm soát quyền lực là một khái niệm chính trị - pháp lý, bao
hàm sự hạn chế nhất định đối với quyền lực; là một trong những nguyên tắc cơ
bản của nhà nước pháp quyền tư sản. Xét
theo nghĩa rộng, kiểm soát quyền lực nhà nước được hiểu là việc thiết kế
các mô hình, các thiết chế nhằm kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhà
nước, đảm bảo cho quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả. Xét theo nghĩa hẹp thì kiểm soát quyền
lực nhà nước được xem là toàn bộ những cách thức, quy trình, quy định mà dựa
vào đó Nhà nước và xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hành động sai trái
của Nhà nước, phát hiện và điều chỉnh việc thực thi quyền lực, đảm bảo mục đích
và hiệu quả của quyền lực nhà nước. Nhìn dưới góc độ cơ chế kiểm soát quyền
lực, có thể hiểu, kiểm soát quyền lực nhà nước là hệ thống cơ chế, thể chế được
thực hiện bởi nhà nước và xã hội để xem xét, giám sát, phát hiện việc lạm dụng
quyền lực nhà nước, đảm bảo cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích
và đạt hiệu quả [1, tr.42].
Kiểm soát quyền lực nhà nước là việc nhà nước, nhân dân
và toàn thể xã hội bằng các quy định của pháp luật, trong những điều kiện hoàn
cảnh cụ thể, giám sát, phát hiện và ngăn ngừa việc lạm dụng quyền lực nhà nước,
bảo đảm cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích và đạt hiệu quả nhằm
duy trì trật tự và công bằng xã hội.
Trong các chủ thể thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước,
kiểm soát của Chính phủ được gọi là kiểm soát bên trong nếu so với kiểm soát
bên ngoài- kiểm soát quyền lực của Đảng, kiểm soát xã hội của các đoàn thể, báo
chí truyền thông và nhân dân. Cụ thể hơn, đây là kiểm soát của hành pháp đối
với lập pháp và tư pháp. Nói cách khác, cải cách hành chính nhà nước chính là
một trong những nội dung, cách thức kiểm soát quyền lực nhà nước của Chính phủ.
2. Cải cách hành chính nhà nước và vai trò của Chính phủ trong kiểm soát quyền lực nền hành chính quốc gia
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra
định hướng phát triển đất nước đến năm 2030 là: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước” [5,
tr.118]. Trên cơ sở đó, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 -
2030 xác định 3 đột phá chiến lược [5, tr.220-221], trong đó có 2 nội dung định
hướng quan trọng đối với xây dựng nền hành chính nhà nước hiệu lực, hiệu quả,
kiến tạo, phát triển. Đó là: 1- Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại,
hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền
sử dụng đất, khoa học, công nghệ... Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện
đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Xây dựng bộ máy nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp,
phân quyền bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và
trách nhiệm của các cấp, các ngành; 2- Tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân
lực,... Chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát hiện và bồi dưỡng nhân
tài; có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài, chuyên gia cả
trong và ngoài nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức có
phẩm chất tốt, chuyên nghiệp, tận tụy, phục vụ nhân dân. Gần đây nhất, Hội nghị
lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ban hành một số nghị quyết
chuyên đề [6], đây là định hướng chính trị quan trọng để Chính phủ ban hành
chương trình hành động, triển khai thực hiện cải cách hành chính nhà nước của
Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách hành chính, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ ban hành các chương trình, kế hoạch cải cách hành chính
mang tính tổng thể, toàn diện, đồng bộ, hoặc theo từng chuyên đề, có trọng tâm,
trọng điểm và chỉ đạo triển khai một cách quyết liệt, thông suốt từ Trung ương
tới chính quyền địa phương các cấp. Các chương trình này đã cụ thể hóa chủ
trương, đường lối của Đảng, tiếp tục khẳng định quyết tâm của Chính phủ trong
việc xây dựng một nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu lực,
hiệu quả. Trong quá trình triển khai các chương trình cải cách hành chính tổng
thể, có tính chiến lược, trong từng giai đoạn cụ thể, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề, quyết định, chỉ thị để triển
khai các nhiệm vụ cải cách hành chính trên các lĩnh vực trọng tâm, cấp bách,
như cải cách thủ tục hành chính; cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc gia; cải cách tổ chức bộ máy hành chính; cải cách
chế độ công vụ, công chức; phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số... Trên
cơ sở đó, cải cách hành chính được triển khai thực hiện một cách toàn diện,
đồng bộ trên tất cả lĩnh vực của nền hành chính từ Trung ương đến địa phương và
đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, từng bước
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam [9].
Vai trò của Chính phủ trong việc
kiểm soát quyền lực nhà nước thể hiện rõ nhất trong việc chỉ đạo điều hành các
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước. Trong suốt thời gian gần 30
năm, Chính phủ Việt Nam đã thể chế đường lối lãnh đạo của Đảng, coi cải cách
hành chính nhà nước luôn là một chủ trương nhất quán, thể hiện tầm nhìn của
Đảng trong lãnh đạo tổ chức và hoạt động của nhà nước, thông qua các biện pháp
cụ thể ở từng giai đoạn phát triển của đất nước để cải cách, đổi mới nền hành
chính nhà nước phù hợp với yêu cầu của quá trình phát triển ngày càng tốt hơn.
Chính phủ đã ban hành và tổ chức thực hiện các Chương trình tổng thể Cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010, giai đoạn 2011 - 2020 và hiện nay là
chương trình giai đoạn 2021 - 2030.
Có
thể nhận thấy, Cải cách hành chính được coi là một trong những trụ cột của đổi
mới hệ thống chính trị, bao gồm các nội dung: cải cách thể chế, cải cách tổ
chức bộ máy, xây dựng đội ngũ công chức, cải cách tài chính công và hiện đại
hóa hành chính. Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030 tập trung vào 6
nội dung, đó là: Cải cách thể chế, Cải cách thủ tục hành chính, Cải cách tổ
chức bộ máy hành chính nhà nước; Cải cách chế độ công vụ; Cải cách tài chính
công và Xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Thông qua các nội dung này, Chính phủ không
chỉ điều chỉnh phương thức quản lý mà còn thiết lập cơ chế tự kiểm soát quyền
lực trong hoạt động hành chính, thông qua: Pháp chế hóa mọi hoạt động của cơ
quan hành chính; Giảm thiểu quyền tùy tiện cá nhân bằng chuẩn hóa quy trình,
thủ tục; Tăng cường trách nhiệm giải trình và công khai hóa thông tin; Đẩy mạnh
giám sát xã hội và phản biện chính sách.
3. Đề xuất Chính phủ thực hiện một số giải pháp kiểm soát quyền lực nhà nước
Trong
gần 30 năm thực hiện các chính sách về CCHC nhà nước của Chính phủ đã đạt được
nhiều thành tựu nhưng cũng đối mặt nhiều hạn chế, thời cơ và thách thức. Để
hoàn thành các mục tiêu tiếp tục xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên
nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát
triển, liêm chính, phục vụ nhân dân, trên cơ sở những quan điểm, chủ trương,
đường lối của Đảng về đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân [4], thực hiện có hiệu quả vai
trò kiểm soát quyền lực nhà nước, Chính phủ cần tiếp tục thực hiện tốt các giải
pháp sau đây:
Thứ nhất, quán triệt đường lối lãnh đạo
của Đảng đối với công tác cải cách hành chính nhà nước.
Hệ
thống pháp luật có nhiệm vụ thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối chính trị của
Đảng cầm quyền. Nội dung cải cách hành chính nhà nước của Chính phủ và các cơ
quan trong hệ thống cơ quan hành chính luôn thực hiện theo tinh thần định hướng
của Đảng, đưa chủ trương chính sách của Đảng vào cuộc sống. Thực hiện tốt công
tác kiểm tra, giám sát ngoài của Ủy ban kiểm tra các cấp đối với đảng viên,
nhất là các đảng viên là cán bộ lãnh đạo quản lý trong hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao; kịp thời phát hiện,
chấn chỉnh những biểu hiện lệch lạc trong thực hiện quy định Điều lệ Đảng, các
quy chế, quy định của Đảng.
Thứ hai, tập trung xây dựng thể chế hành
chính nhà nước đặc biệt là Hiến pháp và các đạo luật
Việc xây dựng thể chế là một nội dung
quan trọng nhất trong hoạt động của Chính phủ.
Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay mang nặng dấu ấn của cơ quan hành
chính. Trong đó, các bộ luật, đạo luật đều do Chính phủ, các bộ chủ quản xây
dựng và trình Quốc hội thông qua, Chủ tịch nước ban hành. Điều này có thể có
những ưu điểm và nhược điểm cần tập trung nghiên cứu để điều chỉnh, nâng cao
hiệu quả điều chỉnh xã hội của pháp luật. Ưu điểm là các văn bản QPPL (quy phạm
pháp luật) do các cơ quan hành chính xây dựng và trình sẽ phản ánh các góc nhìn
chuyên sâu của các chuyên gia trong thực tiễn quản lý nhà nước theo ngành và
theo lĩnh vực. Nhưng nhược điểm là nếu không kiểm soát chặt chẽ, có thể nó sẽ
mang màu sắc cát cứ và thiếu tính toàn diện. Do vậy, việc xây dựng các văn bản
QPPL cần sự công tâm, khách quan, khoa học và chính xác. Chính phủ cần tiếp tục
rà soát, sửa đổi và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm tính thống
nhất, minh bạch. Cần nghiên cứu thêm về quy trình xây dựng pháp luật như: cần có
sự chuẩn bị chu đáo cả về thời gian, quy trình xây dựng, phản biện các dự án
luật; cần có sự tham gia của nhiều cơ quan chuyên môn trong công tác tham mưu
xây dựng các văn bản QPPL và cần có sự tham gia rộng rãi của nhân dân. Ngoài
ra, các Nghị định, Thông tư, quyết định hành chính chiếm phần lớn các văn bản
trong hệ thống văn bản QPPL. Trong quá trình thẩm tra các đề án, dự án, dự
thảo, Chính phủ cần chú trọng đến đánh giá tác động của chính sách, có sáng
kiến và tổ chức thí điểm cơ chế tham vấn ý kiến chuyên gia nhằm bảo đảm tính
khả thi, phù hợp của chính sách, để từ đó hạn chế việc ban hành những chủ
trương chưa phù hợp hoặc chưa thực sự bức thiết, gây phản ứng trong dư luận xã
hội. Bên cạnh đó, Chính phủ nên có kế hoạch tham mưu các nội dung, đề xuất phối
hợp cùng với các Bộ, ngành xây dựng chặt chẽ, hiệu quả, kết hợp với thẩm tra
văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ ba, đẩy
mạnh phân cấp, phân quyền gắn với cơ chế giám sát
Phân cấp, phân quyền hợp lý là yêu cầu
của quản trị hiện đại, song cần đi kèm cơ chế kiểm tra, giám sát và giải trình
rõ ràng.
Chính phủ cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để theo dõi, đánh giá kết
quả thực hiện nhiệm vụ được phân cấp; đồng thời, công khai dữ liệu quản lý để
hạn chế lạm quyền, bảo đảm trách nhiệm của từng cấp, từng ngành.
Thứ tư, cải
cách thủ tục hành chính gắn với minh bạch hóa
Thủ tục hành chính là “điểm chạm” trực
tiếp giữa Nhà nước và công dân. Việc chuẩn hóa, đơn giản hóa và số hóa quy
trình giúp loại bỏ cơ hội nhũng nhiễu, tăng tính minh bạch và giảm quyền tùy
tiện của cán bộ.
Cần tiếp tục mở rộng cung cấp dịch vụ công trực tuyến, công khai thời gian,
phí, kết quả giải quyết hồ sơ trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, tạo điều kiện để
người dân giám sát trực tiếp hiệu quả hoạt động hành chính.
Thứ năm, nâng
cao đạo đức công vụ và kiểm soát nội bộ
Một trong những giải pháp trọng tâm là
xây dựng văn hóa công vụ liêm chính, trách nhiệm và phục vụ. Chính phủ cần tiếp
tục hoàn thiện các quy định về đạo đức công vụ, xử lý nghiêm hành vi vi phạm,
đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra nội bộ. Việc đánh giá cán bộ phải dựa
trên kết quả thực hiện nhiệm vụ và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp.
Thứ sáu, đẩy
mạnh chuyển đổi số trong quản lý hành chính
Chuyển đổi số là công cụ hữu hiệu để
kiểm soát quyền lực, thông qua việc tự động hóa quy trình, số hóa hồ sơ, công
khai dữ liệu và giảm sự can thiệp chủ quan của con người. Chính phủ cần tiếp
tục triển khai Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, mở rộng hệ thống dữ
liệu mở, áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong giám sát, đánh giá hiệu quả làm
việc của cán bộ, công chức.
Thứ bảy, nâng
cao trách nhiệm người đứng đầu
Người đứng đầu cơ quan hành chính các
cấp phải chịu trách nhiệm trực tiếp về kết quả thực hiện CCHC và hiệu quả kiểm
soát quyền lực.
Cần công khai chỉ số cải cách hành chính (PAR Index), chỉ số hài lòng của người
dân (SIPAS), chỉ số quản trị và hành chính công (PAPI) làm căn cứ đánh giá,
khen thưởng, bổ nhiệm và kỷ luật cán bộ.
Thứ tám, phát
huy vai trò giám sát của xã hội và báo chí, truyền thông
Giám
sát xã hội là yếu tố quan trọng để kiểm soát quyền lực hành pháp.
Đây một trong những kênh "giám sát
ngoài" đối với hoạt động quản lý nhà nước nói chung và với cải cách hành
chính nói riêng. Thực tiễn cho thấy, những tiêu cực, vi phạm pháp luật của cán
bộ công chức, đặc biệt là công chức hành chính trong thời gian gần đây chủ yếu
được phát hiện bởi báo chí, truyền thông. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả giám sát
xã hội trong cải cách hành chính nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả cải cách
hành chính nhà nước, Chính phủ cần tạo cơ chế để Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị – xã hội, báo chí và người dân có thể tham gia phản biện, giám sát
hoạt động hành chính. Thiết lập kênh phản ánh, tố cáo trực tuyến, bảo vệ người
tố cáo, đồng thời khuyến khích công khai kết quả giám sát, kiểm tra để tăng
tính minh bạch. Tuy nhiên, bên cạnh khuyến khích, tạo điều kiện, Chính phủ và
các cơ quan hành chính nhà nước cũng cần có các quy định chặt chẽ, các chế tài
xử phạt nghiêm minh đối với cách hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan, các
phóng viên báo chí truyền thông.
Kết luận:
Cải cách hành chính nhà nước không chỉ
là công cụ đổi mới quản lý mà còn là phương thức kiểm soát quyền lực hành pháp
của Chính phủ.
Để bảo đảm quyền lực được thực thi đúng đắn, cần kết hợp hài hòa giữa thể chế
pháp quyền, công nghệ hiện đại, đạo đức công vụ và giám sát xã hội. Khi đó, bộ
máy hành chính sẽ thực sự trở thành công cụ phục vụ Nhân dân, góp phần xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dân chủ, liêm chính và phát
triển.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thị Hoài An, Cơ
chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp
ở Việt Nam, (Luận án Tiến sĩ Luật học),
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội (2019)
2. Bộ Nội vụ, Báo cáo Chỉ
số CCHC (PAR Index) và Chỉ số SIPAS năm 2023 (2024)
3. Bộ Nội vụ, Tài liệu bồi dưỡng Ngạch chuyên viên
chính (Ban hành kèm theo Quyết định số 2720/QĐ-BNV Ngày 28 tháng 12 năm 2018)
4. Chính phủ, Chương
trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 tại Nghị
quyết số 76/NQ-CP, ngày 15-7-2021
5. Chính phủ, Báo cáo
tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011–2020
và định hướng 2030 (2024)
6. Nguyễn Đăng Dung, Kiểm
soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia Sự thật (2022)
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội (2021)
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, của Ban Chấp hành
Trung ương, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”;
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 17-11-2022, của Ban Chấp
hành Trung ương, “Về tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai
đoạn mới".
10. Trần Ngọc Đường, Nhà
nước pháp quyền và cơ chế kiểm soát quyền lực ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, số 9 (2021)
11. Khoa học - xã hội - nhân văn, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội (2011)
12. Phạm Thị Thanh Trà, Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành
chính nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp,
hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tại trang (2024) https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/
/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tiep-tuc-day-manh-cai-cach-hanh-chinh-nha-nuoc-dap-ung-yeu-cau-xay-dung-nen-hanh-chinh-dan-chu-chuyen-nghiep-hien-dai-hieu-luc-hieu-qua,[truy
cập ngày 22/7/2024].
13. Owen E. Hughes, Public Management and
Administration, Third Edition, Published by Palgrave Macmilan, P6 (2003)
14. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr.523 (2005)
[*] Tiến sĩ, Trường Chính trị tỉnh Nghệ An, Email: hoaiantct@gmail.com, ngày duyệt đăng 28/10/2025
[1] Owen E. Hughes, Public Management and
Administration, Third Edition, Published by Palgrave Macmilan, P6 (2003)