Tổng Bí thư Tô Lâm làm Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật
Bộ Chính trị vừa ban hành Quyết định số 288-NQ/TW thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật do Tổng Bí thư Tô Lâm làm trưởng ban.
Trong bối cảnh ngành chăn nuôi thế giới có nhiều biến động, ngành nuôi lợn quy mô lớn tại Việt Nam vẫn duy trì mức tăng trưởng ổn định. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), sản lượng thịt lợn toàn cầu năm 2024 được dự báo đạt 115,5 triệu tấn, tương đương với năm 2023, trong khi xuất khẩu thịt lợn toàn cầu dự kiến tăng 2%, đạt 10,4 triệu tấn. Trong khu vực châu Á, Trung Quốc được dự báo giảm sản lượng thịt lợn 1% nhưng nhập khẩu tăng 1,1%, đạt 2,3 triệu tấn. Điều này tạo ra cơ hội cho các quốc gia sản xuất thịt lợn, trong đó có Việt Nam, mở rộng xuất khẩu.
Theo ước tính của Cục Chăn nuôi, sản lượng thịt lợn của Việt Nam năm 2024 đạt khoảng 4,9 triệu tấn, tăng 4% so với năm 2023. Đồng thời, tổng đàn lợn cả nước vào cuối tháng 12/2024 đạt khoảng 31,08 triệu con, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước. Nếu không tính lợn con chưa tách mẹ, tổng đàn lợn đạt 26,59 triệu con, tăng 4,1% so với năm 2023. Điều này cho thấy ngành chăn nuôi lợn tại Việt Nam đang trên đà tăng trưởng tốt, bất chấp những thách thức về dịch bệnh và biến động giá thức ăn chăn nuôi.
Vùng miền Trung và Tây Nguyên được đánh giá có tiềm năng lớn trong phát triển chăn nuôi lợn quy mô lớn nhờ vào quỹ đất rộng, khí hậu phù hợp và nguồn lao động dồi dào. Các địa phương như Bình Định, Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắk đang đẩy mạnh thu hút đầu tư vào chăn nuôi theo mô hình công nghiệp. Với việc áp dụng công nghệ hiện đại, quản lý dịch bệnh chặt chẽ và liên kết chuỗi sản xuất - tiêu thụ, khu vực này có thể trở thành trung tâm cung ứng thịt lợn cho cả nước và hướng tới xuất khẩu trong tương lai.
Bên cạnh những đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và an ninh lương thực, ngành chăn nuôi lợn ở Việt Nam cũng đang đối mặt với nhiều thách thức về môi trường. Các vấn đề ô nhiễm môi trường nước và không khí không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng mà còn đe dọa sự phát triển bền vững của ngành. Để hiểu rõ hơn về nguyên nhân sâu xa của những vấn đề này, cần xem xét các yếu tố liên quan đến chính sách môi trường, hiệu quả trong công tác đánh giá tác động môi trường và mức độ chặt chẽ của các quy chuẩn hiện hành. Phân tích chi tiết các yếu tố này sẽ giúp làm rõ những hạn chế đang tồn tại và đề xuất giải pháp phù hợp cho ngành chăn nuôi lợn ở Việt Nam.
Việc tái tuần hoàn nước thải chăn nuôi lợn được khuyến khích theo Luật BVMT năm 2020 với mục đích hạn chế việc xả thải trực tiếp ra môi trường, song thực tế chính sách này lại dẫn đến những bất cập rõ rệt khi vận dụng trong báo cáo đánh giá tác động môi trường. Trước hết, mặc dù cam kết của các trang trại về việc không xả nước thải ra môi trường được thúc đẩy bởi quy định của Luật BVMT, thì việc Bộ Nông nghiệp ban hành QCVN chỉ quy định giới hạn các chỉ tiêu kim loại nặng và E-coli cho nước thải đủ điều kiện tưới cây lại tạo ra một tiêu chuẩn mà hầu hết nước thải chăn nuôi, kể cả khi chưa qua xử lý, đều có thể đạt được đối với các chỉ tiêu này, ngoại trừ chỉ tiêu E-coli. Do đó, những nước thải này thường không được xử lý đầy đủ trước khi sử dụng, dẫn đến nguy cơ lơ là kiểm soát một số chỉ tiêu quan trọng khác đối với môi trường. Hơn nữa, việc không có quy định rõ ràng về các tiêu chuẩn kỹ thuật cho từng mục đích sử dụng cụ thể của nước thải như tưới cấp ẩm, tưới cấp dinh dưỡng hay cho các hoạt động vệ sinh, rửa đường đã tạo ra sự mơ hồ trong việc áp dụng các quy định hiện hành, từ đó gây khó khăn cho các bên liên quan khi lập báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Sự thiếu đồng bộ trong việc áp dụng các tiêu chuẩn đã khiến cho báo cáo đánh giá tác động môi trường thường bị vận dụng theo nhiều cách khác nhau, không đảm bảo tính nhất quán và khách quan cần có. Bên cạnh đó, khái niệm “xả chất thải chưa được xử lý” cũng bị hiểu sai theo hai hướng khác nhau, khi một số chủ đầu tư cho rằng việc xả nước thải trong khuôn viên dự án không cần phải kiểm soát chất lượng xử lý do không xả ra ngoài dự án, mà quên rằng “môi trường” không chỉ bao gồm không gian bên ngoài dự án mà còn bao gồm đất, nước, không khí và hệ sinh thái liên quan. Do đó, ngay cả khi nước thải được xả trong khuôn viên dự án, nếu không được xử lý đúng mức thì cũng sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường xung quanh. Một trong những bất cập nổi bật của chính sách hiện nay là tính khả thi còn thấp do thiếu các quy định cụ thể về tỷ lệ tái sử dụng nước thải, công nghệ xử lý bắt buộc và cơ chế giám sát hiệu quả.
Việc thiếu đi những chỉ tiêu rõ ràng và quy định cụ thể đã tạo điều kiện cho nhiều trang trại xả nước chưa qua xử lý đạt chuẩn ra môi trường, từ đó làm tăng nguy cơ ô nhiễm nguồn nước mặt và ngầm, đặc biệt ở những khu vực có mật độ chăn nuôi cao, nơi nguồn thải tích tụ vượt ngưỡng tự làm sạch của hệ sinh thái. Những bất cập này không chỉ làm suy yếu hiệu quả của chính sách bảo vệ môi trường mà còn gây khó khăn trong việc xây dựng báo cáo đánh giá tác động môi trường một cách khách quan và chính xác. Do đó, cần có sự rà soát và hoàn thiện các quy định liên quan đến tái tuần hoàn nước thải chăn nuôi nhằm đảm bảo rằng các tiêu chuẩn xử lý không chỉ phù hợp với quy định hiện hành mà còn đảm bảo an toàn môi trường, từ đó giúp nâng cao chất lượng các báo cáo đánh giá tác động môi trường và góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng cũng như hệ sinh thái.
Các bất cập của QCVN 01-195:2022/BNNPTNT về nước thải chăn nuôi sử dụng cho cây trồng được thể hiện qua việc quy chuẩn không cập nhật đầy đủ các thông số ô nhiễm mới phát sinh từ hoạt động chăn nuôi hiện đại, điều này dẫn đến tình trạng các kết quả phân tích nước thải chăn nuôi lợn cho thấy rằng, ngay cả khi chưa qua xử lý, nước thải vẫn đáp ứng được tiêu chuẩn tưới cây theo quy định. Thực trạng này đã tạo ra một lỗ hổng nghiêm trọng khi các báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) hiện nay thường chỉ áp dụng quy chuẩn cho hình thức tưới gốc, dẫn đến việc các chủ dự án phải mua thêm diện tích đất để trồng cây nhằm tiêu thụ toàn bộ nước thải, qua đó tránh việc xả thải ra môi trường. Hậu quả của việc này là chủ dự án trang trại nuôi lợn không những phải thực hiện một dự án trồng cây bổ sung mà còn phải đối mặt với những thách thức trong việc quản lý và chăm sóc cây trồng - lĩnh vực mà họ chưa có chuyên môn.
Đồng thời, một vấn đề hết sức nghiêm trọng khác là do phương pháp nuôi lợn hiện đại sử dụng cám công nghiệp, làm tăng đáng kể hàm lượng muối trong nước thải, từ 500 đến 1000 mg/L, mức độ muối này khiến cho nước thải không thể tái sử dụng hiệu quả cho việc tưới cây nếu không được xử lý làm giảm độ mặn. Từ đó, câu hỏi đặt ra là liệu trong quá trình vận hành thực tế, các báo cáo đánh giá tác động môi trường - với vô số vấn đề mà Bộ yêu cầu chủ dự án phải giải quyết - có thực sự đảm bảo theo những gì đã được phê duyệt hay không, khi mà những bất cập của quy chuẩn đã tạo ra những sai lệch nghiêm trọng giữa lý thuyết và thực tiễn, từ đó làm tăng chi phí, rủi ro và tác động tiêu cực đến môi trường nông nghiệp.
Vấn đề ô nhiễm mùi hôi từ các trang trại nuôi lợn chưa được giải quyết triệt để do thiếu các giải pháp công nghệ đồng bộ trong việc thu gom và xử lý khí thải. Điều này không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống của người dân xung quanh mà còn làm trầm trọng thêm các bệnh hô hấp, đặc biệt ở trẻ em và người già (Tổ chức Y tế Thế giới, 2021). Hệ số phát thải mùi hôi từ chuồng trại nuôi lợn sàn được tính theo đơn vị mg/con lợn và có thể được tham khảo theo các hướng dẫn của Cơ quan Môi trường Châu Âu (EEA) cũng như Chương trình Giám sát và Đánh giá Môi trường Châu Âu (EMEP); những hệ số này thường được áp dụng để ước tính lượng khí thải từ hoạt động chăn nuôi, bao gồm các hợp chất gây mùi như amoniac (NH₃), hydro sunfua (H₂S) và các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOCs).
Tuy nhiên, trong các báo cáo đánh giá tác động môi trường hiện nay vẫn chưa có phương án thu gom và xử lý khí thải một cách triệt để, khi phần lớn các trang trại chủ yếu sử dụng chế phẩm EM hòa vào nước và phun định kỳ với hiệu quả xử lý khí thải rất hạn chế. Mặc dù phương pháp nuôi lợn theo dạng khô chuồng sàn giúp tiết kiệm nước tiêu thụ, mùi hôi từ chuồng trại và hầm chứa phân vẫn rất lớn, và dù QCVN 05:2023/BTNMT đã quy định giới hạn nồng độ mùi khó chịu thì các báo cáo đánh giá tác động môi trường vẫn chưa đề xuất được cách tính toán thành phần cũng như nồng độ các chất gây mùi để thu gom và xử lý khí thải đảm bảo quy chuẩn.
Các trang trại nuôi lợn là nguồn phát thải chính của hai loại khí nhà kính là methane (CH₄) và nitrous oxide (N₂O), cùng với một lượng khí carbon dioxide (CO₂) gián tiếp. Khí methane chủ yếu phát sinh từ quá trình phân hủy kỵ khí của phân lợn trong các hệ thống quản lý chất thải như hầm biogas, hố chứa, và ao lắng. Mặc dù quá trình tiêu hóa của lợn cũng tạo ra methane, nhưng lượng này không đáng kể so với gia súc nhai lại như bò và cừu. Methane có khả năng giữ nhiệt cao gấp nhiều lần so với carbon dioxide nhưng tồn tại trong khí quyển ngắn hơn, khoảng 12 năm.
Nitrous oxide, một loại khí nhà kính khác, phát sinh từ việc xử lý và bón phân lợn lên đất. Quá trình nitrat hóa và phản nitrat hóa trong đất, do lượng nitơ dư thừa từ phân, là nguồn gốc tạo ra khí N₂O. Ngoài ra, khí amoniac (NH₃) từ phân lợn cũng có thể bay hơi và gián tiếp chuyển hóa thành N₂O trong môi trường. Khí N₂O có thời gian tồn tại lâu trong khí quyển, khoảng 114 năm, và có khả năng giữ nhiệt rất cao.
Mặc dù lợn không trực tiếp phát thải carbon dioxide, nhưng CO₂ vẫn liên quan đến chuỗi cung ứng chăn nuôi, bao gồm hoạt động đốt nhiên liệu hóa thạch để vận hành trang trại như máy sưởi, vận chuyển và sản xuất thức ăn.
Tiềm năng làm nóng lên toàn cầu (GWP) được sử dụng để đo lường khả năng giữ nhiệt của một loại khí so với CO₂ trong khoảng thời gian nhất định, thường là 100 năm. Theo báo cáo IPCC AR6 (2021), CO₂ có GWP bằng 1 và tồn tại trong khí quyển từ hàng trăm đến hàng nghìn năm, là chuẩn mực để so sánh với các loại khí khác. Methane có GWP từ 27–30 trong 100 năm nhưng có thể lên đến 82–86 nếu tính trong 20 năm do tác động tức thời mạnh hơn. Nitrous oxide có GWP cao nhất, đạt 273 trong 100 năm, nghĩa là 1 tấn N₂O có tác động tương đương 273 tấn CO₂, mặc dù nó chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng lượng phát thải nhưng ảnh hưởng rất lớn.
Mặc dù lượng phát thải methane và nitrous oxide từ trang trại lợn thấp hơn so với carbon dioxide, nhưng GWP cao của chúng khiến chúng đóng góp đáng kể vào hiện tượng biến đổi khí hậu. Do đó, việc giảm phát thải từ phân lợn, chẳng hạn như tối ưu hóa hầm biogas và xử lý phân hiệu quả, trở thành ưu tiên hàng đầu để hạn chế hiệu ứng nhà kính. Các trang trại lợn chủ yếu phát thải methane và nitrous oxide, hai loại khí có khả năng làm nóng lên toàn cầu cao hơn carbon dioxide từ 27 đến 273 lần. Việc quản lý chất thải hợp lý là chìa khóa để giảm thiểu tác động môi trường từ chăn nuôi lợn.
Những bất cập trên phản ánh sự chồng chéo trong quản lý và thiếu cập nhật khoa học trong xây dựng chính sách ĐTM. Để giảm thiểu rủi ro, cần rà soát toàn diện các quy định hiện hành, kết hợp ứng dụng công nghệ giám sát thời gian thực và thúc đẩy hợp tác đa ngành trong kiểm soát ô nhiễm môi trường. Các mục tiêu phát triển bền vững trong Chương trình nghị 2030 của Việt Nam có thể về đích hay không phụ thuộc vào sự đóng góp của mỗi doanh nghiệp, thậm chí của mỗi quy trình sản xuất trong doanh nghiệp và sự của toàn xã hội đối với việc kiểm soát ô nhiễm môi trường để ngăn chặn ô nhiễm, suy thoái môi trường khi chúng xảy ra. Cảnh báo môi trường từ một hoạt động sản xuất kinh doanh rất cụ thể, là chăn nuôi lợn cho thấy những nguy cơ đối với đời sống kinh tế xã hội nếu ô nhiễm môi trường nước, khí không được kiểm soát.
Tài liệu tham khảo:
1. USDA (2024), World Livestock and Poultry: Market and Trade Reports. United States Department of Agriculture.
2. Tổng cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2024, Hà Nội, Việt Nam (2024)
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Báo cáo tổng kết ngành chăn nuôi năm 2024, Hà Nội, Việt Nam (2024)
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo Hiện trạng Môi trường Quốc gia 2023.
5. Viện Môi trường Nông nghiệp, Nghiên cứu Ảnh hưởng của Nước thải Chăn nuôi đến Hệ sinh thái Đất(2022)
6. Tổ chức Y tế Thế giới, Hướng dẫn Kiểm soát Ô nhiễm Không khí trong Chăn nuôi (2021)
7. IPCC, 2021: Climate Change 2021: The Physical Science Basis. Contribution of Working Group I to the Sixth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change [Masson-Delmotte, V., et al. (eds.)]. Cambridge University Press.
8. EPA, 2021: Inventory of U.S. Greenhouse Gas Emissions and Sinks: 1990-2019. U.S. Environmental Protection Agency, Washington, DC.
9. FAO, 2017: Livestock's Long Shadow: Environmental Issues and Options. Food and Agriculture Organization of the United Nations, Rome.
10. Gerber, P. J., Steinfeld, H., Henderson, B., et al. (2013). "Tackling Climate Change Through Livestock: A Global Assessment of Emissions and Mitigation Opportunities." Food and Agriculture Organization of the United Nations (FAO).
11. Monteny, G. J., Bannink, A., & Chadwick, D., "Greenhouse gas abatement strategies for animal husbandry.", Agriculture, Ecosystems & Environment, 112(2-3), 163-170 (2006)
12. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Quy chuẩn kỹ thuật tưới tiêu QCVN 01-195:2022/BNNPTNT (2022)
13. Cơ quan Môi trường Châu Âu (EEA). (n.d.). Guidelines for emission factors from pig farming. Truy cập từ https://www.eea.europa.eu
14. Chương trình Giám sát và Đánh giá Môi trường Châu Âu (EMEP). (n.d.). Air pollutant emission factors. Truy cập từ https://www.emep.int
15. Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam. (2023). QCVN 05:2023/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng không khí xung quanh. Truy cập từ https://www.monre.gov.vn
Bộ Chính trị vừa ban hành Quyết định số 288-NQ/TW thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế, pháp luật do Tổng Bí thư Tô Lâm làm trưởng ban.
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 – một ngày quan trọng của đất nước – Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Trong Nghị quyết này, Bộ Chính trị nhấn mạnh: xây dựng và thi hành pháp luật là "đột phá của đột phá" trong hoàn thiện thể chế phát triển.
Thể chế hóa chủ trương của Bộ Chính trị, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của một số nước, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội (QH) về Trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) tại Việt Nam hiện quy định 12 nhóm chính sách nhằm tạo khuôn khổ pháp lý thu hút đầu tư, thúc đẩy hoạt động kinh doanh trong TTTCQT trên các lĩnh vực, bảo đảm xây dựng và vận hành thành công Trung tâm trong bối cảnh đất nước đang tiến vào kỷ nguyên mới.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam được xây dựng nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng trong tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khi thực hiện thủ tục nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam.
Sáng 28/4, tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 44, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Sáng 18/4, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Phiên họp Chính phủ chuyên đề pháp luật lần thứ 2 trong tháng 4/2025, thảo luận nhiều nội dung quan trọng chuẩn bị trình Quốc hội.
Tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII diễn ra vào sáng nay (16/4), Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã truyền đạt Chuyên đề "Về sửa đổi hiến pháp và pháp luật; phương hướng bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026-2031".
Sáng 17/4, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị quán triệt Kết luận số 132 năm 2025 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 36 năm 2019 của Bộ Chính trị về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy.